Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh theo pháp luật hiện hành của Việt Nam và sưu tầm một ví dụ về đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.65 KB, 14 trang )

MỞ BÀI
Chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tạo ra
bước chuyển biến quan trọng trong sự phát triển kinh tế, góp phần đưa đất nước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước vào thời kỳ phát triển mới. Một
trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự chuyển biến tích cực đó là những
chính sách thúc đẩy hoạt động đầu tư và đặc biệt là đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (“Hợp đồng BCC”).
Vậy hợp đồng hợp tác kinh doanh là gì? Đặc điểm của nó là gì? Để hiểu rõ hơn
về vấn đề này, em xin chọn đề số 7 làm bài tập học kỳ của mình, để bài như sau:
“Phân tích đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh theo pháp luật hiện hành của
Việt Nam và sưu tầm một ví dụ về đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh
doanh ở Việt Nam”
NỘI DUNG
I.

Khái quát chung về hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh được quy định chủ yếu trong các văn bản

pháp luật về đầu tư, ngoài ra, được quy định trong Bộ luật dân sự với tư cách là
luật chung về hợp đồng. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là một trong ba hình thức
đầu tư được ghi nhận ngay từ Điều lệ về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 1977,
đến các Luật Đầu tư nước ngoài 1987, 1996 và các Luật sửa đổi bổ sung; cũng
như Luật Đầu tư 2005 và 2014. Tuy nhiên, trước khi Luật Đầu tư 2005 được ban
hành, hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu
tư trong đó phải có ít nhất 1 bên Việt Nam và 1 bên nước ngoài. Chỉ đến khi
Luật Đầu tư 2005 được ban hành, sau đó là Luật Đầu tư 2014, hợp đồng hợp tác
kinh doanh mới được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước
ngoài nhằm hợp tác cùng kinh doanh.
Theo khoản 9 Điều 3 Luật đầu tư 2014 thì “Hợp đồng hợp tác kinh doanh
(sau đây gọi là hợp đồng BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm
1




hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành
lập tổ chức kinh tế”. Như vậy, có thể hiểu Hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự
thỏa thuận giữa các nhà đầu tư, theo đó, các bên cùng góp vốn, cùng quản lý
kinh doanh, cùng phân chia lợi nhuận và cùng chịu rủi ro trong quá trình đầu tư
kinh doanh mà không thành lập một tổ chức kinh tế. Hình thức đầu tư theo hợp
đồng hợp tác kinh doanh là một hình thức đầu tư trực tiếp và được ký kết giữa
các nhà đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Khái niệm này đã ghi nhận bản chất của hợp đồng hợp tác kinh doanh là
"hợp đồng", là hình thức đầu tư theo hợp đồng và "không thành lập tổ chức kinh
tế". Khái niệm hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng tương đồng với khái niệm
hợp đồng hợp tác được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự 2015 (Điều 504), vì hợp
đồng hợp tác được định nghĩa "là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về
việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng
hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm".
Hiện nay, ở nước ta hình thức đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC đan
ngày càng được các nhà đầu tư trong và ngoài nước ưu tiên lựa chọn khi tiến
hành hoạt động đầu tư của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản, do
những ưu điểm nổi trội của nó như: Thứ nhất, hình thức đầu tư theo hợp đồng
BCC có thể giúp các nhà đầu tư tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức và tiền
bạc do không phải thành lập tổ chức kinh tế; Thứ hai, với hình thức đầu tư này,
các bên có thể hỗ trợ lẫn nhau những thiếu sót, yếu điểm của nhau trong quá
trình sản xuất kinh doanh; Thứ ba, trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu
tư nhân danh tư cách pháp lý độc lập của mình để chủ động thực hiện đúng các
quyền và nghĩa vụ. Tư cách pháp lý độc lập giúp các bên không phụ thuộc vào
nhau, tạo sự linh hoạt chủ động trong hoạt động kinh doanh trên cơ sở bình
đẳng, không ràng buộc.

2



Bên cạnh đó, hình thức đầu tư này cũng tồn tại những điểm hạn chế như:
Thứ nhất, đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC thì nhà đầu tư không phải thành
lập một tổ chức kinh tế mới, do vậy trong khi thực hiện dự án đầu tư nhà đầu tư
phải ký kết các hợp đồng phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng BCC. Ngoài ra,
việc không thành lập tổ chức kinh tế chung còn đồng nghĩa với việc các bên
không có một con dấu chung, mà con dấu trong thực tế ở Việt nam thì việc sử
dụng trong nhiều trường hợp là bắt buộc. Do đó, hai bên phải tiến hành thỏa
thuận sử dụng con dấu của một bên để phục vụ hoạt động đầu tư kinh doanh,
qua đó làm tăng trách nhiệm của một bên so với bên còn lại; Thứ hai, hình thức
đầu tư theo hợp đồng BCC dễ tiến hành, thủ tục đầu tư không quá phức tạp do
vậy chỉ phù hợp với những dự án cần triển khai nhanh mà thời hạn ngắn.
II.

Đặc điểm hợp đồng hợp tác kinh doanh theo pháp luật hiện hành
của Việt Nam
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý, hoạt động đầy được thiết lập trên cơ sở hợp

đồng ký kết giữa các nhà đầu tư nhưng không thành lập tổ chức kinh tế, quyền
và nghĩa vụ các bên chỉ ràng buộc với nhau bởi hợp đồng mà không có sự ràng
buộc về mặt tổ chức như ở các hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế. so với
các hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT thì hoạt động đầu tư được thiết lập giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, buộc cá nhà đầu tư phải thành
lập pháp nhân để tạo sự ràng buộc khi hợp tác với cơ quan nhà nước.
Thứ hai, về Chủ thể hợp đồng BCC.
Theo Điều 28 Luật đầu tư :“1. Hợp đồng BCC được ký kết giữa các nhà
đầu tư trong nước thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.
2. Hợp đồng BCC được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư
nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện thủ tục cấp Giấy

chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định tại Điều 37 của Luật này”

3


Chủ thể của hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC là các nhà đầu tư bao
gồm cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng chủ thế trong
từng hợp đồng không giới hạn, tùy thuộc vào quy mô dự án và nhu cầu, khả
năng mong muốn của các nhà đầu tư. Khác với hợp đồng đầu tư trực tiếp khác
như BOT thì chủ thể bắt buộc một bên phải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ở Việt Nam, còn một bên là nhà đầu tư.
Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm
nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Nhà đầu tư trong nước là cá nhân quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh
tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông. Nhà đầu tư nước
ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước
ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Tổ chức kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên
hoặc cổ đông (Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014). Các nhà đầu tư có thể hợp tác
song phương hoặc đa phương khi ký kết và thực hiện hợp đồng hợp tác kinh
doanh. Như vậy, hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được ký kết giữa các nhà
đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Các chủ thể này ở vào vị trí bình đẳng với nhau, cùng hướng tới lợi ích
chung khi tham gia vào hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Như vậy, mọi tổ chức, cá nhân là nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư
nước ngoài, thuộc sở hữu Nhà nước hay sở hữu tư nhân đều có thể trở thành chủ
thể của hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC. Đây là điểm khác biệt so với các
quy định về hình thức đầu tư theo hợp đồng này theo pháp luật về đầu tư trước
đây.
Về nguyên tắc, bất cứ nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài nào muốn ký

kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, nếu không rơi vào trường hợp Luật cấm, đều
trở thành chủ thể của hợp đồng. Tuy nhiên, trong những trường hợp Luật chuyên
ngành có quy định riêng về chủ thể hợp đồng hợp tác kinh doanh, thì chủ thể
hợp đồng phải tuân thủ các quy định riêng đó. Ví dụ, trong lĩnh vực viễn thông,
4


Điều 4 Nghị định 25/2011/NĐ-CP thì nhà đầu tư nước ngoài khi ký kết hợp
đồng hợp tác kinh doanh để cung cấp dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng
ký kết với doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam; khi ký kết hợp đồng hợp
tác kinh doanh để cung cấp dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng phải ký kết với
doanh nghiệp viễn thông đã được cấp giấy phép thiết lập mạng viễn thông tại
Việt Nam (khoản 1, 2). Như vậy,hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực
viễn thông phải có ít nhất một bên chủ thể là doanh nghiệp Việt Nam...
Thứ ba, đối tượng của hợp đồng hợp tác kinh doanh là sự hợp tác cùng
kinh doanh giữa các nhà đầu tư mà không thành lập tổ chức kinh tế.
Tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên hợp doanh cùng góp vốn,
cùng kinh doanh, cùng chia lãi, cùng chịu lỗ phát sinh từ hoạt động kinh doanh.
Việc hợp tác giữa các bên hợp doanh dựa trên sự liên kết giữa các bên hợp
doanh tương tự như sự hợp tác giữa các thành viên trong công ty. Nhưng kết quả
của sự hợp tác theo hợp đồng hợp tác kinh doanh không giống như liên kết
trong công ty, vì không tạo ra một chủ thể kinh doanh mới. Trong quá trình thực
hiện, các bên hợp doanh nhân danh chính mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng. Điều đó có nghĩa là, nếu hợp đồng hợp tác kinh doanh
được ký kết giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài, bên Việt Nam và bên nước
ngoài đó vẫn sử dụng tư cách pháp lý độc lập của mình để thực hiện các quyền
và nghĩa vụ. Việc không tạo ra chủ thể kinh doanh mới từ sự hợp tác của các bên
khiến việc hợp tác giữa các bên không chặt chẽ như việc thành lập tổ chức kinh
tế; thích hợp với các chủ thể mới gia nhập thị trường, cần thăm dò, xâm nhập thị
trường và tìm hiểu đối tác trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, việc không

thành lập tổ chức kinh tế mới cũng khiến các bên gặp không ít khó khăn khi
triển khai hợp đồng, nhất là hợp đồng giữa bên Việt Nam với bên nước ngoài
hoặc bên nước ngoài với bên nước ngoài, vì nhiêu tổ chức nước ngoài không đủ
tư cách pháp lý để thiết lập các giao dịch tại Việt Nam.
Theo khoản 3 Điều 28 Luật Đầu tư 2014, các bên tham gia đồng hợp tác
kinh doanh thành lập ban điều phối để thực hiện đồng. Ban điều phối do các bên
5


hợp doanh cử ra; chức năng nhiệm vụ, quyền hạn do các bên thỏa thuận. Tuy
nhiên, ban điều phối không phải là hội đông quản trị của các bên, không có chức
năng đại diện cho các bên trong các quan hệ giao dịch. Ban điều phổi chỉ có
quyền giám sát việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng
mà thôi.
Thứ tư, nội dung của hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Khoản 1 Điều 29 Luật đầu tư 2014 quy định hợp đồng BCC gồm những
nội dung chủ yếu sau đây:
-

Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng; địa

-

chỉ giao dịch hoặc địa chỉ nơi thực hiện dự án;
Mục tiêu và phạm vi hoạt động đầu tư kinh doanh;
Đóng góp của các bên tham gia hợp đồng và phân chia kết quả đầu tư kinh

-

doanh giữa các bên;

Tiến độ và thời hạn thực hiện hợp đồng;
Quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng;
Sửa đổi, chuyển nhượng, chấm dứt hợp đồng;
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 29 Luật đầu tư 2014 quy định:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC, các bên tham gia hợp đồng được thỏa
thuận sử dụng tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh để thành lập doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Các bên tham gia hợp
đồng BCC có quyền thỏa thuận những nội dung khác không trái với quy định
của pháp luật.
Như vậy, nội dung quan hệ đầu tư theo hợp đồng BCC là những thỏa thuận
thể hiện tính “ hợp tác kinh doanh ”, bao gồm các thỏa thuận bỏ vốn để cùng
kinh doanh, cùng chịu rủi ro, cùng phân chia kết quả kinh doanh. Đây chính là
đặc thù của hợp đồng hợp tác kinh doanh trong sự so sánh với các hợp đồng
khác trong thương mại (ở các hợp đồng này, thời điểm chuyển giao rủi ro được
các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định là cơ sở xác định rõ lợi nhuận hay
rủi ro thuộc về một trong các bên của hợp đồng).

6


Ngoài ra theo quy định tại Khoản 3, Điều 28 Luật Đầu tư 2014, các bên
tham gia hợp đồng BCC thành lập Ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban điều phối do các bên thảo thuận. Việc
lập ra ban điều phối nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên tham
gia hợp đồng, cũng như đại diện cho các bên giám sát quá trình thực hiện hợp
đồng.
Thứ năm, hợp đồng hợp tác kinh doanh phải được xác lập dưới hình
thức văn bản.
Luật Đầu tư 2014 và Nghị định 118/2015/NĐ-CP không quy định về hình

thức của hợp đồng hợp tác kinh doanh, nhưng hình thức của hợp đồng được Bộ
luật Dân sự 2015 quy định tại khoản 2 Điều 504: “Hợp đồng hợp tác phải được
lập thành văn bản”.
Hình thức văn bản là hoàn toàn thích hợp với hợp đồng hợp tác kinh
doanh, vì các chủ thể ràng buộc với nhau về quyền và nghĩa vụ chỉ theo hợp
đồng trong một thời gian nhất định (khác doanh nghiệp còn có Điều lệ và các
giấy tờ khác trong hồ sơ). Do vậy, nếu xác lập dưới hình thức lời nói hoặc hành
vi, hợp đồng đó sẽ không bảo đảm được tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên; dễ xảy ra tranh chấp và khó chứng minh tại cơ quan tố tụng khi quyền
lợi của một hoặc cả hai bên bị xâm phạm.
Thứ sáu, Hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi được ký kết phải tuân
theo thủ tục nhất định do Luật định
Đối với các hợp đồng thương mại thông thường (như hợp đồng đại lý
thương mại hay hợp đồng đại diện cho thương nhân đã phân tích trên), sau khi
được ký kết, hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực, trừ trường hợp pháp luật quy định
khác. Tuy nhiên, đối với hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa nhà đầu
tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài,
sau khi được ký kết, các nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014 (khoản 2 Điều 28). Cụ
thể:
7


(i) Đối với dự án đầu tư thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư theo quy
định tại các Điều 30, 31 và 32 Luật Đầu tư năm 2014, cơ quan đăng ký đầu tư
cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho nhà đầu tư trong thời hạn 05 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được văn bản quyết định chủ trương đầu tư.
(ii) Đối với dự án đầu tư không thuộc diện quyết định chủ trương đầu tư
theo quy định tại các Điều 30, 31 và 32 Luật Đầu tư năm 2014 nhà đầu tư thực
hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định: Nhà đầu tư nộp

hồ sơ theo quy định cho cơ quan đăng kỷ đầu tư; trong thời hạn 15 ngày kế từ
ngày nhận được đủ hồ sơ cơ quan đăng ký đầu tư cấp Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư và nêu
rõ lý do (Điều 37 Luật Đầu tư 2014).
Có quy định này vì hợp đồng hợp tác kinh doanh không chỉ là một hợp
đồng trong thương mại (một dạng của hợp đồng hợp tác theo quy định của Bộ
luật Dân sự 2015), mà còn là một hình thức đầu tư trực tiếp theo Luật Đầu tư. Vì
là hình thức đầu tư, nên hợp đồng hợp tác kinh doanh không chỉ ghi nhận sự
thoả thuận của các bên, mà còn chịu sự quản lý của Nhà nước về đầu tư. Việc
quản lý của Nhà nước được thể hiện thông qua thủ tục cấp Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư cho dự án đầu tư theo hợp đồng hợp tác kinh doanh; theo Luật
Đầu tư 2005 áp dụng đối với các dự án đầu tư theo quy định (từ Điều 45 đến
50); còn theo Luật Đầu tư 2014, chỉ áp dụng đối với dự án đầu tư theo hợp đồng
hợp tác kinh doanh được ký kết giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước
ngoài hoặc giữa các nhà đầu tư nước ngoài. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được
ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước thực hiện theo quy định của pháp luật về
dân sự (khoản 1 Điều 28 Luật Đầu tư năm 2014).
Trên thực tể, có thể có sự nhầm lẫn giữa hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp
đồng liên danh và hợp đồng liên doanh, vì những hợp đồng này đều mang đặc
trưng là sự hợp tác giữa các bên nhằm mục tiêu kinh doanh chung. Tuy nhiên,
mỗi loại hợp đồng lại có những đặc trưng riêng, phù hợp với từng loại hình kinh

8


doanh, mục đích kinh doanh cụ thể và chịu sự điều chỉnh của các quy phạm
pháp luật khác nhau
Cụ thể, theo pháp luật hiện hành, không có quy định về hợp đồng liên
doanh. Luật Đấu thầu 2013 chỉ quy định về hoạt động liên danh của các nhà
thầu khi tham gia hoạt động đấu thầu. Luật Đầu tư 2014 không quy định về hình

thức đầu tư thành lập doanh nghiệp liên doanh riêng như Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam 1987 và 1996, nhưng vẫn quy định về hình thức đầu tư trực
tiếp thông qua thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài, theo đó, hợp đồng liên doanh có thể được hiểu
là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư để thành lập pháp nhân tiến hành hoạt
động chung cho các bên. Còn hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp đồng được ký
kết giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia
sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế mới. Ưu điểm khi ký hợp đông
hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư linh hoạt, dự án triển khai nhanh, phù
hợp với dự án có thời hạn đầu tư ngắn, sớm thu được lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh do không mất thời gian thực hiện thủ tục thành lập pháp nhân và đầu
tư xây dựng cơ sở sản xuất mới. Tuy nhiên, việc hợp tác thông qua ký hợp đồng
hợp tác kinh doanh cũng gặp khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động thực tế,
đặc biệt trong việc quản lý chi phí và tiến hành hoạt động giao dịch với bên thứ
ba do mỗi bên vẫn nhân danh mình giao kết hợp đồng.
III.

Ví dụ đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam
Dự án “Hành lang bảo tồn đa dạng sinh học tiểu vùng Mê Công mở rộng”
nhằm tăng cường hợp tác và quản lý xuyên biên giới các hệ sinh thái rừng giữa
các quốc gia trong Tiểu vùng Mê Công mở rộng.
Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng có tên tiếng Anh là Greater Mekong
Subregion (viết tắt là GMS). Đây khu vực địa lý bao gồm các quốc gia và lãnh
thổ nằm trong lưu vực của sông Mekong: Việt Nam, Campuchia, Lào,

9


Myanma, Thái Lan và tỉnh Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc. Đây là sự
mở rộng của Tiểu vùng sông Mekong vốn không có các tỉnh của Trung Quốc.

Trên thế giới đã có nhiều kỳ tích, nền văn minh, nhiều dự án, chương trình
gắn với tên của các dòng sông nổi tiếng. Liên quan đến dòng sông Mêkông đã
có tới gần 10 chương trình hợp tác quốc tế, trong đó Chương trình Tiểu vùng
Mekong mở rộng được biết đến như là một hình thức liên kết khu vực hiệu quả
hơn cả.
Khởi nguồn của GMS đưa ta nhớ về nửa thế kỷ trước, đó là vào năm 1957,
Ủy ban Mekong (MC) được thành lập gồm 4 nước thành viên nằm ở hạ lưu là
Việt Nam, Thái Lan, Campuchia và Lào. Chiến tranh nối tiếp chiến tranh làm
cho sự hợp tác suốt 30 năm rất nghèo nàn. Nói cho công bằng, MC đã khởi
xướng nhiều công trình nghiên cứu về sông nước và môi trường như với bất kỳ
con sông quốc tế nào. Tuy nhiên, sự khác biệt về ý thức hệ và mưu toan của các
thế lực thực dân luôn biến các hoạt động của Mekong mang màu sắc chính trị.
Phải đến năm 1992, theo sáng kiến của Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB), một Chương trình gắn tên Mekong là GMS hứa hẹn có tương lai mới
được hình thành với các thành viên sáng lập là Campuchia, Lào, Myanmar, Thái
Lan, Việt Nam và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Song, vai trò riêng biệt của MC
vẫn tiếp nối dẫn đến sự ra đời của Ủy hội sông Mekong (MRC) và đã có hoạt
động phối hợp với GMS. Đến năm 2004, một đơn vị hành chính không có sông
Mêekog chảy qua là Khu tự trị Quảng Tây (Trung Quốc) cũng tham gia kết nối
GMS.
GMS là mô hình kinh điển về liên kết khu vực, là hình thức thể hiện của xu
thế “khu vực hóa”, một sự bổ sung và một cách ứng phó với xu thế toàn cầu
hóa. Với cơ chế thông thoáng và đa dạng, GMS nhằm đạt tới sự phát triển hài
hòa và bền vững giữa kinh tế, môi trường sinh thái và xã hội dựa trên đặc thù
của các nước láng giềng có chung biên giới.

10


Theo đó, Chính phủ các quốc gia trong GMS với sự hỗ trợ từ ADB đã xác

định được các cảnh quan bảo tồn đa dạng sinh học quan trọng nhất trong tiểu
vùng bị tổn thương do gia tăng các áp lực phát triển và suy thoái môi trường.
Tại Việt Nam, Dự án sẽ giải quyết vấn đề phân mảnh của các cảnh quan rừng có
đa dạng sinh học cao tại miền Trung Việt Nam làm giảm khả năng cung cấp các
dịch vụ hệ sinh thái thiết yếu cần thiết cho sinh kế bền vững của địa phương và
đầu tư vào các lĩnh vực tăng cường an ninh lương thực, nước sạch, giao thông
và thủy điện. Dự án sẽ thúc đẩy việc sử dụng tài nguyên bền vững, phục hồi và
tăng cường những cảnh quan sinh lợi này. Dự án được thực hiện thông qua các
hoạt động phát triển và bảo tồn.
Tại Việt Nam, Dự án "Hành lang bảo tồn đa dạng sinh học tiểu vùng Mê
Công mở rộng - Giai đoạn 2" (Dự án BCC) do Ngân hàng Phát triển Châu Á tài
trợ. Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao là Chủ dự
án. UBND các tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế là các đơn vị
thực hiện dự án. Dự án được thực hiện tại Hà Nội và 35 xã của 6 huyện thuộc
các tỉnh tham gia dự án từ năm 2011 đến năm 2019.
Mục tiêu chung của Dự án: Các hệ sinh thái rừng bền vững và thích ứng
với biến đổi khí hậu ở Trung Trường Sơn mang lại lợi ích cho cộng đồng địa
phương
Mục tiêu cụ thể: Tăng cường năng lực cho các cấp Trung ương và địa
phương trong việc quy hoạch hành lang bảo tồn đa dạng sinh học, xây dựng kế
hoạch quản lý hành lang và thực hiện kế hoạch; Phục hồi và trồng rừng nhằm
khôi phục tính liên kết của các hành lang đa dạng sinh học và tăng diện tích
rừng trung bình - giàu trong 35 xã đã được lựa chọn trong vùng hành lang đa
dạng sinh học; Cung cấp các giải pháp tạo sinh kế và cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ
để nâng cao đời sống nhằm góp phần giảm nghèo và cải thiện đời sống cho các

11


dân tộc ít người tại các huyện miền núi nghèo của vùng dự án; Quản lý dự án và

các hoạt động hỗ trợ khác được thực hiện hiệu quả

KẾT LUẬN
Hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC là hình thức đầu tư ngày càng trở nên
phổ biến ở Việt Nam vì nó đánh giá là dễ tiến hành, thích hợp với các dự án cần
triển khai nhanh mà thời hạn ngắn. Trên thực tể, có thể có sự nhầm lẫn giữa hợp
đồng hợp tác kinh doanh với các hình đầu tư khác. Hiểu rõ về đặc điểm của hợp
đồng hợp tác kinh doanh, giúp chúng ta hiểu hơn về bản chất của hình thức đầu
tư này, từ đó tránh được sự nhầm lẫn không đáng có. Do kiến thức còn hạn chế
nên bài làm không tránh khỏi sự thiết sót, rất mong được quý thầy cô góp ý để
bài viết được hoàn thiện hơn, em xin chân thành cảm ơn

TÀI LIỆU THAM KHẢO
12


1.
2.
3.

Luật đầu tư 2014
Luật dân sự 2015.
Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi

4.

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
Nghị định 25/2011/NĐ-CP ngày 6/4/2011 của Chính phủ quy định chi tiết

5.


và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Viễn thông
/>
6.
7.

doanh/n1311.html.
/> />
PHỤ LỤC

13


Bản đồ các nước Tiểu vùng Mekong mở rộng GMS. (Ảnh: Internet)

14



×