Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HIỆN SINH VỀ CON NGƯỜI CỦA ALBERT CAMUS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.43 KB, 98 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ LINH

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HIỆN SINH VỀ CON NGƯỜI
CỦA ALBERT CAMUS

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017
1


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ LINH

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HIỆN SINH VỀ CON NGƯỜI
CỦA ALBERT CAMUS
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ THƯỜNG

HÀ NỘI - 2017
2


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thị Thường, có kế thừa một số kết quả
nghiên cứu liên quan đã được công bố. Các nội dung nghiên cứu, kết quả
trong đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố. Những tài liệu được
sử dụng trong đề tài đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Linh

3


4

LỜI CẢM ƠN

Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau đại học và các
phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho
em được học tập, nghiên cứu tại quý trường.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm Khoa Triết
học và các thầy cô giáo khoa Triết học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn em
trong suốt thời gian qua. Đặc biệt là sự chỉ dẫn nhiệt tình của cô giáo chủ
nhiệm lớp - TS. Nguyễn Thị Vân đến tất cả các học viên của lớp.
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS
Nguyễn Thị Thường, giảng viên khoa Triết học, trường Đại học Sư phạm Hà
Nội, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện
và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp đã hết lòng quan tâm,
giúp đỡ và động viên tác giả luận văn trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Linh

4


5

MỤC LỤC

5


6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư duy triết học là sự phản tư của con người đối với chính bản thân
mình, vậy nên vấn đề bản chất con người và việc giải phóng con người từ xưa
tới nay luôn là chủ đề trung tâm của mọi cuộc bàn luận triết học. Đây cũng
chính là xu hướng tiếp cận của triết học hiện sinh. Trong thế kỷ XX, triết học
hiện sinh đã ghi dấu ấn đậm nét bằng việc thổi một luồng gió mới lạ vào
không khí triết học lúc bấy giờ. Những trang tiểu thuyết, kịch, những bài thơ
và các loại hình văn chương sống động khác nhau của các nhà tư tưởng lớn
như M. Heidegger, J. Sartre, Marcel, K. Jaspers, A. Camus… đã đề cập đến
chủ đề con người, với các giá trị đặc trưng như tự do, tự quyết, vươn lên, dấn
thân, tồn tại người...
Khoảng cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, loài người đã đạt được
những thành tựu to lớn trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của mình. Lần đầu
tiên trong lịch sử nhân loại, con người có được những tiền đề cần thiết cho sự
phát triển toàn diện. Nhiều mơ ước từ ngàn năm của con người đã được thực
hiện. Chính khoa học tư duy duy lý đã đem lại những điều tuyệt vời như vậy.
Song, thực tiễn lịch sử cũng cho chúng ta thấy cuộc sống của con người còn
đầy rẫy những vấn đề bất ổn. Sự phát triển của văn minh vật chất dường như
có lúc tỉ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh tinh thần, bởi lẽ, của cải
trong xã hội ngày càng dồi dào nhưng những giá trị đạo đức của con người lại
ngày càng suy đồi. Trong xã hội ấy, con người chỉ được xem như một lực
lượng vật chất đơn thuần, họ cảm thấy bất lực và cô đơn trước bộ máy kỹ
thuật khổng lồ của xã hội phương Tây hiện đại và dần đánh mất “nhân vị” của
mình, đánh mất niềm tin vào mọi thứ.
Triết học hiện sinh ra đời đã miêu tả đúng tâm trạng của con người lúc
bấy giờ, chính vì vậy nó được đón nhận hết sức nồng nhiệt. Trong lịch sử triết
6



7
học, từ cổ chí kim, triết học hiện sinh là trường hợp duy nhất người ta thấy “triết
học đã xuống đường”. Triết học hiện sinh đã đóng trọn vẹn vai trò lịch sử của nó
với việc tạo nên được cả một phong trào rộng lớn và sôi nổi trong giới văn học.
Trong số đó đáng kể nhất là Albert Camus với hàng loạt các tác phẩm thể hiện
nỗi lo âu, sự sợ hãi của thân phận con người trước bao nhiêu biến động và tai
ương trong nửa đầu thế kỷ XX ở phương Tây. Ông cũng đã xây dựng một lý
thuyết độc đáo nói về ý nghĩa của hiện sinh và thân phận con người. Albert
Camus đã để lại cho hậu thế những lời nhắn nhủ chân thành và ý nghĩa nhằm
giải phóng con người, đem lại tự do đích thực cho con người cá nhân.
Có thể thấy, tìm hiểu tư tưởng triết học hiện sinh của Camus về con
người có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh cũng như
đem những tư tưởng của ông đến gần hơn với người Việt Nam nói chung và
những tác giả nghiên cứu về Camus nói riêng. Từ những lí do về mặt lí luận
và thực tiễn trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài Tư tưởng triết học hiện
sinh về con người của Albert Camus.
2. Lịch sử nghiên cứu
Albert Camus được coi là một nhà tiểu thuyết, một nhà triết học lớn.
Ông gửi gắm tư tưởng triết học của mình qua những trang tiểu thuyết, kịch...
Ông đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước chú ý ngay từ khi công bố
tác phẩm đầu tiên. Những tác phẩm của Camus được nghiên cứu ở nhiều khía
cạnh khác nhau nhưng chủ yếu là ở hai góc độ: góc độ khai thác nghệ thuật
2.1.

văn học và góc độ triết học.
Dưới góc độ văn học
Trên thế giới, một số công trình nghiên cứu về văn chương thế kỷ XX
đã có đề cập đến Camus mà tiêu biểu nhất là thiên tiểu luận Cuộc phiêu lưu tư
tưởng văn học Âu châu thế kỷ XX (1900 - 1959) của R.M. Alberes. Trong đó,
Alberes đã viết về lịch sử tính nhạy cảm của văn học Âu châu thế kỷ XX và

A. Camus đã được nhắc đến như một đại biểu điển hình.
7


8
Ở Việt Nam, với tư cách là một nhà văn đậm chất hiện sinh, Albert
Camus được nghiên cứu từ những năm 60 của thế kỷ XX. Những năm 1960 1975, các tác giả: Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lý
Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Nguyễn Quốc Trụ… đã có nhiều bài viết, tác
phẩm dịch về triết học, văn học hiện sinh được in trên các tạp chí: Sáng Tạo,
Bách Khoa, Thông Cảm…
Đặc biệt, tác giả Hoàng Trinh với bài viết Anbe Camuy và vấn đề “văn
học nổi loạn” trong Phương Tây văn học và con người (1969) đã có cái nhìn
trên tinh thần phê phán với quan điểm hiện sinh của Camus, tác giả coi thuyết
phi lý của Camus có hạt nhân là lý luận mơ hồ và ngụy biện. Nổi loạn như là
hệ quả của cái phi lý: không xác định rõ lập trường, ai nổi loạn, nổi loạn
chống lại ai và nổi loạn như thế nào…
Công trình Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa (1978) của Đỗ Đức
Hiểu đã chỉ ra những đặc điểm của văn học hiện sinh trong các tác phẩm của
Camus, khởi điểm là cái phi lý và nổi loạn là sắc thái đáng chú ý nhất của chủ
nghĩa hiện sinh của Camus.
Cả hai tác giả Hoàng Trinh và Đỗ Đức Hiểu đều đứng trên lập trường phê
phán triết học hiện sinh của Camus để đánh giá những tư tưởng của Camus.
Gần đây, trong công trình Tiếp cận văn học Pháp (2007), Liễu
Trương một lần nữa đặc biệt chú ý tới sự phi lý trong tác phẩm Kẻ xa lạ.
Bài viết của ông như một sự gợi nhắc lại ý muốn của Camus khi viết tác
phẩm đó là tả “tính trần trụi của con người trước sự phi lý”. Ở đây, phi lý là
độ không của sự dấn thân. Sự thật trong Kẻ xa lạ, cũng như trong Thần
thoại Sysyphus là một sự thật tiêu cực, là một khởi đầu cần thiết cho sự dấn
2.2.


thân tích cực.
Dưới góc độ triết học
Trên thế giới, Alain Robbe - Grillet, thủ lĩnh nhóm Tiểu thuyết Mới
những năm 60 của thế kỷ XX ở Pháp, đánh giá rất cao cuốn Kẻ xa lạ, coi đó
là một tác phẩm lớn, bởi vì trong cuốn sách đó, Camus đã tạo nên một thế giới
8


9
mà ông hoàn toàn tin. Nói về cái phi lý trong tác phẩm của Camus, tác giả
khẳng định, sự phi lý là vực thẳm không vượt qua được tồn tại giữa con người
và thế giới, giữa các khát vọng của tinh thần con người và sự bất lực của thế
giới trong việc thỏa mãn chúng.
Jean Paul Sartre - nhà triết học hiện sinh Pháp nổi tiếng cùng thời với
A. Camus đã viết Cắt nghĩa “Kẻ xa lạ” đăng trên tạp chí Cahier du Sud tháng
3 - 1943. Bài viết có những nhận xét tinh tế, sâu sắc, ông cho rằng những tác
phẩm của Camus đặt chúng ta trong trạng thái bất an trước sự phi nhân tính
của con người, viết cho sự phi lý và chống lại sự phi lý.
Còn ở Việt Nam, xuất phát từ góc độ triết học, các nhà nghiên cứu đã
nhận thấy những tư tưởng hiện sinh về con người biểu hiện sâu sắc trong các
sáng tác của Camus đã thông qua các phạm trù như: cô đơn, phi lý, nổi loạn…
Vì thế, như một lẽ tự nhiên, tác phẩm của Camus được xếp vào văn chương
triết học.
Tác giả Bùi Ngọc Dung trong bài viết Albert Camus với nền văn
chương triết học (1963) cho rằng, Camus không thuộc một trường phái hay
một chủ nghĩa nào, nhưng ông đề cập đến mọi khía cạnh của mọi vấn đề trong
tiểu thuyết và văn chương. Camus đặt vào các nhân vật của ông một sứ mạng
để phổ biến triết học. Thân phận con người được ông đào sâu tỉ mỉ hơn lúc
nào hết, ông dùng triết học để giải đáp tâm hồn con người thời hậu chiến vì họ
chưa ra khỏi cơn thảm họa của chiến tranh. Như vậy, Camus đã dùng văn

chương để chở những triết thuyết: thân phận con người trước vấn đề phi lý, cô
đơn, nổi loạn.
Trong chuyên luận nghiên cứu Về tư tưởng văn học phương Tây hiện
đại (1986), quan điểm của Phạm Văn Sĩvề chủ nghĩa hiện sinh đã hướng đến
việc nhấn mạnh một số khái niệm đặc thù của chủ nghĩa hiện sinh: cái phi lý,
cái tự do, dấn thân.
Tác giả Bùi Giáng được xem là người đặc biệt quan tâm đến những tác
phẩm của Camus. Ông cho rằng, không một trang văn nào của Camus không
9


10
mang nặng những ưu tư xao xuyến của một đời người và những trải nghiệm
sâu sắc. Điều này thể hiện giá trị thực sự của chủ nghĩa hiện sinh là chiến đấu
cho địa vị con người trong thế giới, con người với những tâm tình, ưu tư
chính là cứu cánh của mọi triết lý.
Bên cạnh những chuyên luận nghiên cứu chuyên sâu về chủ nghĩa hiện
sinh và Albert Camus còn có một số bài viết về Camus trên sách báo như:
Văn chương và siêu hình học của Nguyễn Văn Trung đăng trên tạp chí Sáng
Tạo, số 10, tháng 7 năm 1957; Trình bày và phê bình hai quan điểm nổi loạn
của Camus của Thạch Chương đăng trên tạp chí Sáng Tạo số 48 tháng 9 năm
1960; Albert Camus và triết lý chống đối của Cô Liêu đăng trên tạp chí Bách
Khoa số 76 năm 1960 và Lập trường văn nghệ của Albert Camus của Cô Liêu
đăng trên tạp chí Bách Khoa số 77 năm 1960…
Như vậy, từ tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, hướng nghiên
cứu của đề tài đã nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, các
công trình đi trước đã để lại những kết quả có giá trị nhất định. Tuy nhiên,
việc đi sâu nghiên cứu tư tưởng triết học hiện sinh về con người của Albert
Camus vẫn chưa thực sự thấu đáo. Do đó cần tiếp tục nghiên cứu khám phá tư
tưởng hiện sinh về con người của Albert Camus để thấy được ý nghĩa tư

tưởng lớn lao mà tác giả muốn gửi gắm. Đồng thời đánh giá lại những giá trị
và hạn chế của nó trong điều kiện lịch sử mới.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng triết học hiện sinh về con người của Albert Camus
để đánh giá những giá trị, hạn chế của những tư tưởng đó.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là những tư tưởng triết học về con người.
4.2. Đối tượng nghiên cứu

10


11
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng triết học hiện sinh về con
người của Albert Camus.
5. Giả thuyết khoa học
Triết học hiện sinh là học thuyết gây khá nhiều tranh cãi, phần lớn chỉ
được biết đến thông qua “phong trào hiện sinh”, tức là văn chương hiện sinh
và lối sống hiện sinh. Chính vì vậy, học thuyết này đã từng được nhìn nhận
chưa thực sự đúng đắn, thậm chí bị chỉ trích, phê phán. Việc nghiên cứu tư
tưởng triết học hiện sinh của Albert Camus là rất cần thiết để có thể đưa ra
những đánh giá xác đáng hơn, để tinh thần và giá trị của thuyết hiện sinh nói
chung, tư tưởng triết học của Camus nói riêng đến với độc giả một cách trọn
vẹn hơn, mang góc nhìn thấu đáo và sâu sắc hơn.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Khái quát những nội dung chính của triết học hiện sinh về con người và về tác


-

giả Albert Camus.
Chỉ ra những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học hiện sinh về con người
của Albert Camus cùng những giá trị, hạn chế của nó.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng triết học hiện sinh của Albert Camus được thể hiện thông qua
rất nhiều tác phẩm, song trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, đề tài tập
trung làm rõ tư tưởng của ông qua một số tác phẩm tiêu biểu là: Kẻ xa lạ do
Dương Kiền và Bùi Ngọc Dung dịch, Nxb Ngày Nay, năm 1965; Dịch hạch
do Nguyễn Trọng Định dịch, Nxb Văn học, năm 2002; Ngộ nhận (kịch) do
Bùi Giáng dịch, Nxb Văn Nghệ, năm 2006; và Thần thoại Sysyphus do
Trương Thị Hoàng Yến và Phong Sa dịch, Nxb Trẻ, năm 2014.
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền

-

tảng, bên cạnh đó là những phương pháp cụ thể sau:
Phương pháp lịch sử và logic
Phương pháp phân tích và tổng hợp
11


12

-

Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp tham vấn chuyên gia…

9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
10.Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả

-

Những luận điểm cơ bản của luận văn
Khái quát điều kiện, tiền đề hình thành, đối tượng, phương pháp và những chủ

-

đề chính của triết học hiện sinh.
Vị trí, tầm vóc của Albert Camus trong trào lưu hiện sinh.
Sự cô đơn và phi lý của tồn tại người trong các tác phẩm tiêu biểu của

-

A.Camus.
Sự nổi loạn của con người qua góc nhìn của A.Camus.
Đánh giá giá trị và hạn chế của tư tưởng hiện sinh về con người của

10.1.

10.2.
-

A.Camus.
Những đóng góp mới của tác giả
Về mặt lý luận:

Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về triết học
hiện sinh và đưa ra những đánh giá xác đáng về trào lưu triết học còn gây

-

nhiều tranh cãi này.
Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học hiện sinh về con
người của Albert Camus và chỉ ra những giá trị, hạn chế của triết học hiện

-

sinh Camus.
Về mặt thực tiễn:
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, việc nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá,
lựa chọn, tiếp thu những giá trị văn hóa, triết học của các dân tộc,
khu vực trên thế giới là việc làm cần thiết.Với việc nghiên cứu tư tưởng triết
học hiện sinh về con người của A. Camus, luận văn góp phần đưa tác giả đến

-

gần hơn với độc giả Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn lịch sử triết học phương Tây hiện đại
và các chuyên đề về văn hóa học, văn học và mỹ học phương Tây.
12


13

13



14
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH
VÀ TÁC GIẢ ALBERT CAMUS
1.1.

Khái luận về triết học hiện sinh
1.1.1. Điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của triết học hiện sinh

1.1.1.1.


Điều kiện và tiền đề ra đời của triết học hiện sinh
Điều kiện kinh tế - xã hội
Ra đời ở nước Đức trong chiến tranh Thế giới thứ I và nở rộ sau chiến
tranh Thế giới thứ II ở Pháp, triết học hiện sinh đã phản ánh hiện thực xã hội
Châu Âu thời kỳ đó. Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc để lại những hậu quả
hết sức nặng nề, ngay cả các nước của phe thắng cuộc cũng phải chịu rất
nhiều thiệt hại. Xã hội trở nên tiêu điều, đổ nát, con người rơi vào tình trạng
chán nản, mất niềm tin vào cuộc sống. Đặc biệt là tầng lớp thanh niên, cảm
thấy hoài nghi tất thảy, họ thấy chỉ còn có bản thân, một cá nhân cô độc, xa lạ
với mọi thứ, không có gì đảm bảo cho cuộc sống. Trong bối cảnh đó, họ tìm
đến với triết học hiện sinh như tìm đến với một chỗ dựa tinh thần. Nhiều nhà
nghiên cứu đã thống nhất cho rằng, chiến tranh, đặc biệt là hai cuộc đại chiến
Thế giới khốc liệt là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự ra đời và phát
triển mạnh mẽ của triết học hiện sinh.
Một nguyên nhân nữa phải kể tới đó chính là sự phát triển mạnh mẽ của
chủ nghĩa duy lý đã gây ra không ít sự khủng hoảng trong đời sống tinh thần

của xã hội phương Tây. Chủ nghĩa duy lý ở phương Tây xuất hiện khi chủ
nghĩa công nghiệp ra đời ở thế kỷ XVII. Cuộc cách mạng công nghiệp và sau
đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm thay đổi căn bản nền sản
xuất của xã hội. Công nghiệp cơ khí phát triển giúp cho quy mô sản xuất mở
rộng và tạo ra số lượng lớn sản phẩm cho xã hội. Con người không khỏi
choáng váng trước những thành tựu của chủ nghĩa duy lý và họ cho rằng nhận
14


15
thức duy lý là nhận thức duy nhất. Nhờ có nhận thức lý tính mà con người đã
khái quát nên hệ thống tri thức khoa học có giá trị tích cực trong việc khám
phá và cải tạo thế giới, nhờ đó đưa xã hội đến sự tiến bộ, văn minh.
Với chủ nghĩa duy lý, xã hội phương Tây có thể nói đã đạt tới giai đoạn
tột cùng trong sự phát triển của nó, nhưng ở chính đỉnh điểm của sự phồn
vinh đó, nó đã sa vào khủng hoảng. Xã hội châu Âu ngày càng trở nên sùng
bái kỹ thuật, máy móc hóa, rô bốt hóa… xuất hiện những xu hướng duy lý
khác nhau trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị… trong đó đáng kể nhất là chủ
nghĩa “kỹ trị”. Đặc trưng cơ bản của kỹ trị là trọng kỹ thuật mà hạ thấp đi vai
trò con người, khóa chặt con người vào xã hội không còn lối thoát.
Nói về hậu quả mà xã hội kỹ trị để lại, Các Mác cũng đã viết: “Trong
thời đại chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó.
Chúng ta thấy rằng, máy móc có một sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt
sức lao động của con người và làm cho lao động của con người có kết quả
hơn, thì đem lại nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những
nguồn của cải mới từ xưa đến nay chưa ai biết, dường như có một sức mạnh
thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng
lợi của kỹ thuật dường như đã mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh
thần” [40, tr.10]. Rằng “Tất cả những phát minh của chúng ta và tất cả sự tiến
bộ của chúng ta tựa hồ như đang dẫn tới chỗ là những lực lượng vật chất thì

được ban cho một đời sống tinh thần, còn đời sống của con người vốn đã bị
tước mất các mặt tinh thần rồi thì nay lại bị hạ thấp xuống trình độ những lực
lượng vật chất đơn thuần” [39, tr.10].
Như vậy, xã hội đã bị duy lý hóa cao độ và phát triển theo nguyên tắc
coi trọng đồng tiền, tham lam, thương mại hóa và vụ lợi. Mối quan hệ giữa
người và người chỉ là sự lợi dụng không cần tình nghĩa. Sự bành trướng của
kỹ thuật không làm thỏa mãn những phúc lợi của con người mà ngược lại làm
15


16
phi nhân cách, tha hóa con người. Xã hội tư bản hiện đại bộc lộ rõ bản chất là
một xã hội bóc lột và bất công. Giai cấp tư sản đã “tước hết vòng hào quang
thần thánh của những gì xưa nay được coi là thiêng liêng, được trọng vọng,
tôn sùng, nó dìm tất cả tình cảm của con người xuống dòng nước lạnh giá của
sự tính toán ích kỷ, nó biến phẩm giá con người thành một giá trị trao đổi đơn
thuần” [40, tr.154].
Trong sự khủng hoảng của chủ nghĩa duy lý, con người đã bị “phi nhân
vị”, chỉ còn là một “lực lượng vật chất đơn thuần”. Một khi con người trở
thành bần cùng và kiệt quệ trong bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội hiện
đại thì sự suy sụp cá nhân là một điều hiển nhiên. Điều này khiến nhà triết học
E.Fromn nhận định rằng nếu Nietzche tuyên bố vấn đề của thế kỷ XIX là
“Chúa đã chết” thì vấn đề của thế kỷ XX là con người đã chết. Họ mơ hồ thấy
mình vô danh, rẻ mạt trong xã hội đầy bất công và phi nhân bản. Cái còn lại
duy nhất là cái tôi ích kỷ của mỗi người, là sự sở hữu, khát vọng riêng lẻ,
không có gì vượt khỏi cá nhân.
Trong hoàn cảnh đó, sự bành trướng của chủ nghĩa phát xít lại càng đẩy
con người đến bờ tuyệt vọng, không thể thu phục lòng người. Chính trị, pháp
luật, lý luận tôn giáo đều trở thành công cụ để lừa dối, tiếp tay cho tội ác. Con
người mất niềm tin và nghi ngờ những giá trị, từ đó rơi vào bi quan, thất

vọng. Họ luôn sống trong lo âu, chán chường, thấy cuộc đời vô nghĩa, phi lý.
Sâu xa hơn đó chính là mâu thuẫn gay gắt giữa tầng lớp thống trị và bị trị
ngày càng tăng trong xã hội tư bản, con người trở thành nô lệ của khoa học kỹ
thuật.
Triết học hiện sinh là một sự phản ứng, đối lập chủ nghĩa duy lý đang
thống trị trong xã hội phương Tây hiện đại. Vấn đề cơ bản mà nó đặt ra là lấy
lại nhân vị của con người. Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ hiện diện trên
phương diện lý thuyết mà còn trở thành một phong cách, một lối sống. Người
16


17
ta mô tả sự hiện diện của triết học hiện sinh ở Pháp như sau: “Ấy là một buổi
sáng mùa đông (1946) vừa thức dậy cả thành phố Pari thấy mình “hiện sinh”,
sách báo đầy hiện sinh quyến rũ tràn khắp phố phường, những “đám thanh niên
nam nữ vui vẻ” kéo đến những căn hầm ở Saint - Germain, ầm vang điệu nhạc
Jazz trong những trang phục mới lạ với đầu tóc xõa, quần túm ống và ăn nói
mời chào phóng túng” [17, tr.10-11].
Triết học hiện sinh đặt ra yêu cầu miêu tả và vạch rõ nguyên nhân cũng
như chứng minh việc cá tính con người bị mất đi, tự do con người bị tước
đoạt và phải làm thế nào để con người được tự do thực sự, thoát khỏi trạng
thái tha hóa.


Tiền đề tư tưởng
Không chỉ dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội đó, triết học hiện
sinh ra đời còn có tiền đề về tư tưởng, lý luận rất sâu sắc. Triết học hiện sinh
là một phong trào triết học nở rộ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai. Trào lưu
triết học này đã ảnh hưởng to lớn đến nhiều khuynh hướng triết học cũng như
văn học nghệ thuật hiện đại của các nước phương Tây. Không những thế, triết

học hiện sinh còn thâm nhập vào đời sống tạo nên một lối sống mang tên trào
lưu này rất được ưa chuộng ở nhiều nước phương Tây.
Có thể đánh giá những năm 50 và những năm 60 của thế kỷ XX là giai
đoạn thịnh vượng của triết học hiện sinh. Tuy nhiên, nói về nguồn gốc lý luận
của triết học hiện sinh cần phải ngược về thời kỳ Hy Lạp cổ đại với những
mảnh tư tưởng hiện sinh còn đọng lại trong văn hóa Hy Lạp, đặc biệt ở
Socrates (470 - 399 TCN) và Auguistin (354 - 430 SCN).
Nếu như đa phần các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là các nhà khoa
học tự nhiên và hướng sự nghiên cứu vào việc đi sâu tìm tòi yếu tố bản
nguyên đầu tiên của thế giới là gì thì Socrates đã sớm nhận ra sự không toàn
diện của triết học thời kỳ đó. Ông đã đưa ra lời kêu gọi: Triết học phải quay
17


18
về tìm hiểu con người, đó là nhiệm vụ trước tiên. Khẩu hiệu mà Socrates đưa
ra đã được khắc trên cửa đền Delphi, đó là: “Connais - toi, toi - même” (Con
người hãy tự biết chính mình). Như vậy, với khẩu hiệu đó, ông đã xác định
đối tượng nghiên cứu của triết học phải là bản thân con người, mọi ứng xử
của con người, mọi qui tắc đạo đức đều phải xuất phát từ đó. Tư tưởng đó của
Socrates đã mở ra một bước ngoặt cho triết học phương Tây và đặt nền móng
cho sự hình thành triết học hiện sinh. Cuộc đời và cái chết của Socrates cũng
là một sự hiện sinh. Kierkegaar đã viết như sau: “Cái làm cho Socrates trở nên
cao cả không phải do ông đưa chứng cứ về sự bất tử, mà vì ông đã thách thức
nó và dám đảm nhận nguy hiểm đó” [19, tr.21-22].
Auguistin là triết gia và nhà thần học Kitô giáo, người Bắc Phi. Ông
hay viết về cuộc sống con người với những vấn đề như ý nghĩa của đời sống
con người, cuộc sống tạm bợ của con người trên trần thế, đời sống tâm linh
của con người… Tri thức luận của Auguistin chủ yếu dựa vào bản tính con
người. Ngài cho rằng con người là một tạo vật từ Thiên Chúa, được tạo ra với

mục đích là trở về với Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc và chân lý vĩnh cửu.
Trong con người phần nào đó đã có Thiên Chúa, nên con người có khả năng
nhận thức được chân lý tuyệt đối. Đó là Thiên Chúa.
Ông cho rằng, giá trị của con người không tùy thuộc và thời gian sống
rong ruổi, trôi nổi, mà phụ thuộc vào những giây phút hiện tại hoàn hảo mà
con người được sống qua, là giây phút con người làm điều thiện, hay con
người gặp được Chúa… Augustin chính là một trong những người đầu tiên đề
cập đến con người cá nhân. Ông cũng là một trong những người đầu tiên thăm
dò cái tôi bí ẩn của con người, coi đó là cách tìm kiếm chính mình. Tư tưởng
sâu sắc ấy của Augustin có sức sống kỳ lạ dù đã trải qua hàng nghìn năm với
những thăng trầm của lịch sử.
Như vậy, các nhà triết học trong quá khứ đã không hề quên đi việc tìm
hiểu, nghiên cứu về con người. Các học thuyết triết học ít nhiều cũng đều nói
18


19
về sự tồn tại của con người, suy tư về đời sống con người, số phận con người,
đặc biệt thường thấy trong các học thuyết tôn giáo… Triết học hiện sinh chỉ là
sự tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu con người nhưng theo một hướng khác, mang
một tinh thần khác.
Song song với việc tìm hiểu cái gì tạo nên thế giới, các nhà triết học
cũng luôn trăn trở về khả năng nhận thức của con người. Chính vì vậy, quá
trình phát triển các lý thuyết về nhận thức luận của triết học với khuynh
hướng phi duy lý là một nguồn gốc cơ sở khác đã gợi mở, thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của triết học hiện sinh.
Khuynh hướng triết học phi duy lý là khuynh hướng có thái độ hoài
nghi vào khả năng của khoa học, kỹ thuật trong việc giải quyết những vấn đề
do con người đặt ra. Khuynh hướng triết học này chống lại hoặc hạ thấp tư
duy duy lý, trái với quan điểm của những nhà triết học duy lý thuần túy như

Hegel, với câu nói: Cái gì tồn tại thì hợp lý và cái gì hợp lý thì tồn tại. Các
nhà triết học theo khuynh hướng phi duy lý đã đi sâu tìm hiểu khả năng nhận
thức rất đặc biệt và độc đáo của những tư duy phản duy lý: Tư duy cảm tính, tư
duy duy cảm, tư duy kinh nghiệm… Chân lý mà nhà triết học Pháp Pascal đã
nói ở thế kỷ XVII là một minh chứng: “Con tim có những lý lẽ mà lý trí không
thể hiểu được”(“Le coeur a sa raison que la raison ne conait pas”). Pascal tư
duy về con người trong tình trạng bất an với tư cách một cá nhân cụ thể và một
toàn thể khi con người ý thức về sự liên quan của nó trong những cực đoan đối
lập trong thế giới.
Thomas Hobbes (1588 - 1679), đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy
vật Anh thế kỷ XVII - XVIII, xuất phát từ quan niệm duy vật cho rằng, không
có khái niệm nào trong tâm trí con người mà từ đầu lại không phát sinh - hoàn
toàn hay một phần - từ các cơ quan cảm giác. Như vậy, ông đã đánh giá rất
cao vai trò của cảm giác trong quá trình nhận thức của con người. Một số nhà
19


20
triết học cùng thời như Locke, Hobbes, Berkeley và Hume... cũng đã nêu ra
sự hạn chế của lý trí đồng thời ghi nhận những giá trị chân lý chủ quan.
Ở thế kỷ thứ XVIII, việc đề cao tính nhân bản trong triết học đã được
Kant xây dựng một cách hoàn hảo và hết sức sâu sắc, phong phú. Bằng những
lý thuyết của mình, Kant đã thể hiện quan điểm đề cao tri thức khoa học được
xây dựng từ những phán đoán duy lý. Phương pháp của khoa học thực nghiệm
là rất hiệu nghiệm, tuyệt vời nhưng nó chỉ hiệu nghiệm, tuyệt vời khi dùng
đúng chỗ, bởi vì tư duy duy lý không phải là tất cả mà nó cũng có những hạn
chế. Ông đã nói: Lý trí ta cũng hạn hẹp, biết sao hết mọi nguyên lý của vũ trụ.
Ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện một học
thuyết mới có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khuynh hướng chống chủ nghĩa duy lý
trong triết học và bổ sung cơ sở cho sự hình thành triết học hiện sinh, đó là

thuyết trực giác của Henri Bergson (1859 - 1941). Triết gia người Pháp này
cho rằng, mọi vật đều không ngừng biến dịch, vì vậy dòng chảy thời gian là
bản chất của mọi thực tại. Chúng ta nhận thức về dòng chảy đó trực tiếp và
ngay tức khắc, không qua ý niệm và không qua các giác quan của chúng ta.
Ông gọi thứ tri thức trực tiếp đó là “trực giác”. Ông tin rằng chúng ta cũng có
tri thức trực giác đó trong những quyết định hành động của chúng ta.
Trong học thuyết của mình, Bergson không hạ thấp vai trò của trí tuệ,
nhưng lại vạch ra những hạn chế của phương pháp nhận thức chỉ dựa vào duy
lý. Theo ông, nhận thức bằng trực giác là hoạt động nhận thức trên cơ sở trở
về với những kinh nghiệm trực tiếp, chú ý nhằm vào đối tượng để nắm bắt,
phát hiện những điều sâu kín của chúng. Do vậy, nhận thức bằng trực giác
đem lại sự chính xác, phong phú, sắc sảo, độc đáo mà nhiều lúc trí tuệ không
đạt tới được. Cách nhận thức bằng trực giác có thể đi sâu vào bên trong, tìm
hiểu được những gì là duy nhất, bản chất nhất, nhận thức được cái phong phú,
sinh động sự tồn tại của sự vật, đối tượng. Ông gọi tư duy duy lý là “chủ
20


21
nghĩa giáo điều khoa học”, làm cho những nhà duy vật và các quan điểm của
họ cứng nhắc hơn. Ông cũng phê phán những tham vọng, ảo tưởng về sự tinh
thông vạn năng của trí tuệ con người.
Thuyết trực giác của Bergson đã ảnh hưởng trực tiếp tới triết học hiện
sinh. Các nhà triết học hiện sinh coi thuyết trực giác của ông như một sự minh
chứng cho con đường triết học mà họ đang đi theo.
Hiện tượng học của Husserl (1859 - 1938)cũng có vai trò hết sức quan
trọng với sự hình thành và phát triển của triết học hiện sinh. Hiện tượng học là
một học thuyết có tham vọng điều hòa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật
trong lĩnh vực nhận thức luận. Đây là một trào lưu triết học thuộc khuynh
hướng triết học phi duy lý. Ra đời ở nước Đức nhưng không lâu sau, hiện

tượng học đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới và ảnh hưởng đến nhiều trào
lưu triết học khác từ cuối thế kỷ XIX cho đến tận ngày nay. Được coi là một
trào lưu triết học độc đáo khi khám phá ra phương pháp luận mới, hiện tượng
học là cơ sở lý luận cơ bản để hình thành triết học hiện sinh.
Người khai sinh ra hiện tượng học là Franz Brentano (1838 - 1917)
nhưng Husserl mới thực sự làm cho hiện tượng học trở thành một trào lưu
triết học. Ông là người đề xướng “phương pháp hiện tượng học” hay “giản
lược hiện tượng học”. Đây là phương pháp mà nhiều nhà triết học đã dùng để
chỉ đạo cho việc trình bày các triết thuyết của mình. Từ việc nghiên cứu có
phê phán triết học truyền thống, Husserl cho rằng cần phải giải phóng nhận
thức chúng ta ra khỏi những “hệ tư tưởng” đã được làm sẵn và “đặt vào trong
ngoặc” những triết học trước đó. Xác định mục đích của nhận thức là “trở về
với chính những sự vật”, ông đã đưa ra hai thủ tục (procédure) quan trọng, đó
là quy giản bản chất và quy giản hiện tượng học. Husserl cho rằng trước khi ý
thức con người xuất hiện, thế giới chỉ là tiền thế giới, chưa có bản chất nào,
nhưng khi ý thức nhận thức thì nó trở thành thế giới mà ý thức đón nhận như
21


22
hiện tượng, tức là nó tự lộ ra. Nói một cách ngắn gọn, phương pháp quy giản
của Husserl được hiểu là: “Tôi tư duy những cái mà tôi tư duy như những cái
mà tôi đã tư duy như thế” [53, tr.166].
Ý thức con người luôn mang một đặc tính, đó là tính ý hướng. Ý thức
có tính ý hướng bởi nó biến đổi tất cả những gì nó gặp thành những bản thể
với tư cách là hiện tượng đối với ý thức ý hướng. Do đó, thế giới ngoại tại
như được bao hàm, được ẩn chứa trong ý thức. Những sự vật trong thế giới
trong quan hệ với chủ thể không phải tự hiện hữu nữa, mà chúng được cấu
thành ý thức đối với ý thức ý hướng. Bởi vậy, ý nghĩa của thế giới được hiểu
như là những gì mà tôi đưa lại cho thế giới, những thứ đã nghiệm sinh như

một mục tiêu mà tôi khám phá ra.
Bằng phương cách “quy giản bản chất”, Husserl đã bỏ qua sự hiện hữu
của sự vật trong tự nhiên và chỉ nhận thức cái bản chất mà con người đã ý
thức về nó. Theo ông, cái gì xuất hiện ra với ý thức đều với tư cách một tổng
thể, do vậy không qui giảm thành những nhân tố được mà chỉ có thể miêu tả,
chứ không thể phân tích.
Chính vì vậy phương pháp hiện tượng học là nhằm vào mô tả.Các nhà
triết học hiện sinh đã cho nó là phương pháp duy nhất, đúng đắn, hợp lý để
tìm hiểu đối tượng và đặc biệt là đối tượng hiện sinh. Hiện sinh theo quan
niệm của các nhà triết học trường phái này chính là kinh nghiệm sống cụ thể
của con người do chính con người tạo ra trong thời gian cũng như trong
không gian. Hiện sinh là một kiếp sống của một người có ý thức về nền tảng và
ý nghĩa của kiếp sống đó, và tự động thể hiện kiếp sống ấy theo ý mình - tức là
một động tác tự khẳng định về sự tồn tại cũng như bản ngã của mình. Và theo
các nhà triết hoc hiện sinh, để có thể lột trần được hiện sinh, chúng ta cần
phương pháp mô tả của hiện tượng học Husserl. Phương pháp ấy đóng vai trò
hàng đầu cho những nhận thức thế giới và đặc biệt nhận thức con người của
22


23
những nhà triết học hiện sinh, là điểm tựa cho triết học hiện sinh khi miêu tả
tính chủ quan của con người. Vì vậy có thể nói không có hiện tượng học thì
không có triết học hiện sinh.
Như vậy, có thể thấy triết học hiện sinh ra đời dựa trên cơ sở kế thừa tư
tưởng của các thế hệ đi trước. Triết học hiện sinh đã tìm thấy mình trong triết
học Hi Lạp cổ đại, tiếp thu qua triết học tôn giáo của Augustin, nảy sinh trong
việc chống chủ nghĩa duy lý của Kierkegaard và khai thác phương pháp hiện
tượng học của Husserl.
Đồng thời, triết học hiện sinh ra đời còn là sự phản ánh hiện thực xã hội

Châu Âu những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa
tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, ra sức bành trướng, xâm lược các
nước khác. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa duy lý và sự khủng hoảng
của xã hội coi trọng kỹ thuật, triết học hiện sinh ra đời đã phản ánh đúng tâm
trạng của con người. Các nhà hiện sinh đều tập trung bàn về những vấn đề
liên quan đến con người, nhằm cứu vớt con người.
1.1.1.2. Quá trình hình thành, phát triển của triết học hiện sinh
Là một trường phái triết học có ảnh hưởng tương đối lớn, triết học hiện
sinh được hình thành chính thức ở Đức sau đại chiến thế giới thứ nhất. Nhưng
S. Kierkegaard (1813 - 1855), người Đan mạch, lại được coi là ông tổ sáng
lập ra chủ nghĩa hiện sinh. Có quan điểm cho rằng: “hiện tượng học Đức +
Kierkegaad = chủ nghĩa hiện sinh” [19, tr.130]. Ông tiến hành phê phán chủ
nghĩa duy lý của A. Comte, đặc biệt của Hegel. Các tác phẩm chủ yếu của ông
đó là: Không thế này thì thế kia (1843), Sợ hãi và run rẩy (1843), Khái niệm
về hoảng sợ (1844), Các giai đoạn trên con đường nhân sinh (1845)… Mỗi
tác phẩm của Kierkegaard đều in rõ những đặc điểm của cuộc đời ông, những
nghịch lý ông gặp phải đều hằn sâu ở đó. Ý thức cá nhân để lại dấu ấn trong
những diễn tiến lịch sử, trong những sáng tác văn hóa nhưng nó không thể
23


24
xuất hiện ngoài ý thức xã hội mà tồn tại thống nhất trong sự biện chứng, chịu
sự qui định của tồn tại xã hội. Triết học của Kierkegaard là sự phản ứng của
con người trước sự bành trướng của chủ nghĩa duy lý đã và đang đưa chủ
nghĩa tư bản vào cuộc khủng hoảng làm tha hóa và phi nhân vị con người.
Ở Đức, Nietzsche, Heidegger, Jaspers là những nhà triết học hiện sinh
tiêu biểu. Trong đó F. Nietzsche (1844 - 1900) được coi là người thứ hai sáng
lập ra chủ nghĩa hiện sinh. Ông là một nhà hiện sinh vô thần, nhà đạo đức học
nhiệt liệt bác bỏ nền văn minh trưởng giả Tây phương. Câu nói nổi tiếng của

ông là “Thượng đế đã chết”. Tư tưởng của Nietzsche về con người siêu nhân
đã đem lại những nhận định hoàn toàn mới về thiện, ác, đặt lại bảng giá trị
luân lý và xã hội. Ông muốn kiến tạo một lớp người tự do, biết tự chủ và tự
mình đặt lấy những giá trị cho mình, ông nêu cao tôn chỉ: “Hãy luôn luôn trở
nên chính mình anh, hãy là chủ ông và là nhà điêu khắc để tạc nên chính mình
anh” [23, tr.136].
Heidegger (1889 - 1976), tên đầy đủ là Martin Heidegger. Dù được đánh
giá rộng rãi là người hiện sinh chủ nghĩa, Heidegger quyết liệt bác bỏ danh vị
đó, cũng như ông bác bỏ hiện tượng học của Husserl. Quan tâm căn bản của
Heidegger, như đã được công bố trong cuốn Hữu thể và thời gian, và được
triển khai trong các tác phẩm sau đó là vấn đề hữu thể. Trong Hữu thể và thời
gian, hữu thể được chứng minh là nối kết mật thiết với sự tạm thời; mối quan
hệ này được thẩm tra bằng cách phân tích sự hiện hữu của con người.
Triết học hiện sinh của K. Jaspers (1883 - 1969) là hiện sinh công giáo
hướng đến “siêu việt”. Theo ông, một hiện sinh không vươn tới siêu việt là
một hiện sinh không trung thực. Khi vươn tới mức hiện sinh, bỏ cách sống
tầm thường của một người chỉ sống để mà sống như cầm thú, để từ nay sống
như một nhân vị tự ý thức và tự trách nhiệm về mình: Jaspers gọi đó là một
24


25
siêu việt, vì con người hiện sinh đã vươn lên trên con người sinh tồn. Chữ
siêu việt của Jaspers có thể hiểu là “vươn lên”, hướng tới cái hiện sinh, nhưng
cũng có thể hiểu đó là từ dùng để thay thế Thượng Đế.
Sau Đại chiến thế giới thứ hai, trung tâm của triết học hiện sinh chuyển
từ Đức sang Pháp. Các nhà hiện sinh tiêu biểu đó là J. Sartre, A. Camus, G.
Marcel, Merleau Ponty, Simone de Beauvoir… Phần lớn họ là các nhà triết
học kiêm nhà văn, nhà viết kịch hoặc nhà chính trị… Họ thường sử dụng
những hình thức sinh động và dễ hiểu như văn nghệ để trình bày quan điểm

triết học, nên triết học hiện sinh được truyền bá rộng rãi.
G.Marcel (1889 - 1978) là nhà hiện sinh hữu thần người Pháp. Hệ
thống triết học của ông gắn liền với huyền nhiệm. Nói một cách tổng quát, tất
cả những gì không thể xác định và không thể khách thể hóa đều là những
“Huyền nhiệm”. “Huyền nhiệm” không phải là đối tượng của tri thức hay một
suy tưởng, “Huyền nhiệm” là đối tượng của tin tưởng.Huyền nhiệm về tôi, về
anh, huyền nhiệm của vũ trụ, của Thượng Đế. Theo Marcel, hiện sinh là một
huyền nhiệm, vũ trụ hay Thiên Chúa cũng là một huyền nhiệm. Con người
không thể sống theo thuyết duy tâm vì chúng ta không có quyền gói ghém
hiện sinh của con người vào trong những quan niệm đơn giản. Cái ta quan
niệm được bao giờ cũng minh bạch và khúc chiết; nhưng không nên sa vào
cám dỗ của duy tâm; cần phải ý thức rằng những quan niệm khô khan kia đã
giết chết hiện sinh và làm mất hết giá trị sống của con người.
Đến Sartre (1905 - 1980), ông là triết gia hiện sinh vô thần nổi tiếng,
nhà văn và nhà viết kịch người Pháp, tên đầy đủ là Jean Paul Sartre. Trong khi
Heidegger bác bỏ nhãn hiệu “người hiện sinh chủ nghĩa” của mình, thì trong số
các nhà tư tưởng có liên quan tới phong trào ấy, chỉ có Sartre đích thân tuyên
bố mình là “người hiện sinh chủ nghĩa”.

25


×