VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH VĂN HÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ
TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LỰC LƯỢNG
QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH GIA LAI
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH VĂN HÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ
TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LỰC LƯỢNG
QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TỈNH GIA LAI
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐÀM THANH THẾ
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đàm Thanh Thế, Chánh Văn
phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và
hàng giả (BCĐ389QG).
Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Hà Nội, ngày
tháng
HỌC VIÊN
Đinh Văn Hà
năm 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ...............................................................5
7. Bố cục của luận văn ................................................................................................6
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ ..............................................................7
1.1. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về hàng giả ........................................................7
1.2. Công tác quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả ......................................19
1.3. Kinh nghiệm một số tỉnh về phòng chống sản xuất, buôn bán hàng giả ...........26
Kết luận Chương 1 ....................................................................................................30
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG
GIẢ TỪ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ
TRƯỜNG TỈNH GIA LAI .......................................................................................31
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .............................................................................31
2.2. Thực trạng chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai giai
đoạn 2014-2018 .........................................................................................................45
2.3. Đánh giá công tác phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT Gia
Lai..............................................................................................................................60
Kết luận Chương 2 ....................................................................................................66
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ TẠI CỤC QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
TỈNH GIA LAI .........................................................................................................68
3.1. Dự báo sản xuất, buôn bán hàng giả trong những năm tới ................................68
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước về phòng chống hàng
giả tại Cục Quản lý thị trường tỉnh Gia Lai ..............................................................70
Kết luận Chương 3 ....................................................................................................76
KẾT LUẬN ...............................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................80
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN:
ATTP:
BCĐ:
BCĐ389:
ĐP:
LĐ:
NĐ-CP:
QG:
QLTT:
SHTT:
UBND:
VPHC:
WTO:
Association of South East Asian Nations - Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á
An toàn thực phẩm
Ban Chỉ đạo
Ban Chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả
Địa phương
Lao động
Nghị định – Chính phủ
Quốc gia
Quản lý thị trường
Sở hữu trí tuệ
Uỷ ban nhân dân
Vi phạm hành chính
World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng/biểu
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Biểu đồ
2.6
Biểu đồ
2.7
Bảng 2.8
Tên bảng
Trang
Cơ cấu nguồn nhân lực theo giới tính, trình độ, độ tuổi
Phân phối nguồn nhân lực
Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chống
hàng giả cho công chức QLTT Gia Lai giai đoạn 2014-2018
Kết quả xử lý vi phạm hành chính về hàng giả (2014-2018)
Tỷ lệ xử lý và số tiền nộp ngân sách nhà nước về hàng giả
(2014-2018)
Tỷ lệ % vụ xử lý về hàng giả các đơn vị (giai đoạn 20142018)
Tỷ lệ % số tiền xử phạt VPHC về hàng giả của các đơn vị
(giai đoạn 2014-2018)
Hàng giả tịch thu giai đoạn 2014-2018
42
44
48
52
53
53
54
55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa đã
tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế
thế giới và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ
của cách mạnh công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại nhiều nước phát triển. Nó mang đến
cho nhân loại cơ hội để thay đổi bộ mặt các nền kinh tế, các quốc gia có nhiều cơ
hội thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ,
tạo thuận lợi giao thương hàng hóa ở mỗi quốc gia để phát triển đất nước và quá
trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khôn
lường, sự tồn tại mặt trái của nền kinh tế thị trường, hoạt động buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả cũng có “đất sống”. Nhất là từ khi nước ta đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế từ chế độ quản lý tập trung bao cấp sang quản lý hạch toán kinh
doanh, hệ thống chính sách pháp luật còn lỏng lẻo. Hàng giả đã có mặt hầu hết các
lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội với nhiều thủ đoạn, phương thức và quy mô;
hàng giả phong phú, đa dạng về chủng loại, mẫu mã đẹp với công nghệ kỹ thuật sản
xuất ngày càng hiện đại; sản xuất, buôn bán hàng giả ngày càng phát triển, diễn biến
phức tạp, tinh vi và khó kiểm soát.
Vấn nạn hàng giả đã trở thành một thực trạng nhức nhối, lây lan nhanh, ngày
càng tinh vi, tàn phá kinh tế xã hội, phá hoại cạnh tranh công bằng và gây ảnh
hưởng rất xấu đến quyền lợi của các nhà sản xuất. Nó cũng ảnh hưởng xấu đến đời
sống xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Chính vì vậy, công tác
phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường, bảo vệ người tiêu
dùng và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Tỉnh Gia Lai với dân số 1,37 triệu, có 34 dân tộc anh em sinh sống, trong đó
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 45%, diện tích 15.536,9 Km2, có 90 Km đường
1
biên giới giáp với nước Campuchia, ngoài ra giáp với các tỉnh Kon Tum, Đắk Lắk,
Bình Định, Phú Yên; các tuyến Quốc lộ 14 (nay là đường Hồ Chí Minh), 14C, 19,
19D, 25 và đường Trường Sơn Đông đi qua, có Cảng hàng không Pleiku, Cửa khẩu
quốc tế Lệ Thanh. Mặt dù không phải là địa bàn tập trung các đầu mối lớn về sản
xuất, buôn bán hàng giả, vận chuyển hàng cấm, hàng nhập lậu nhưng với địa bàn có
nhiều tuyến giao thông đia qua nên các đối tượng đầu nậu đã lợi dụng để vận
chuyển hàng giả, hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ vào
tiêu thụ tại địa bàn tỉnh và trung chuyển đi qua các tỉnh khác.
Lực lượng QLTT Gia Lai đã thường xuyên duy trì và đẩy mạnh công tác
kiểm tra, kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm trong sản xuất, buôn bán hàng giả,
đạt được nhiều kết quả khả quan, góp phần tích cực vào việc làm lành mạnh thị
trường. Tuy nhiên, tình hình buôn lậu, buôn bán hàng cấm, gian lận thương mại;
nhất là sản xuất, mua bán hàng giả vẫn diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, ảnh
hưởng rất lớn tới người tiêu dùng, các danh nghiệp và thị trường hàng hóa. Công
chức QLTT còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, nhiều vụ việc xử lý về hàng giả
còn lúng túng, văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều chồng chéo, bất cập.
Từ thực tế nêu trên, bản thân đang công tác tại Cơ quan QLTT tôi nhận thức
được vai trò to lớn của công tác đấu tranh phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả
hiện nay. Việc làm rõ bản thân khái niệm hàng giả, phân tích, đánh giá thực trạng
phòng, chống hàng giả của lực lượng QLTT, giải pháp nào để phát hiện và xử lý kịp
thời các hàng vi vi phạm trong sản xuất kinh doanh hàng giả; nhằm tạo dựng cơ sở
pháp lý đầy đủ cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, chế tài xử lý phù hợp là
một yêu cầu hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Đây là lý do tôi chọn đề tài:
“Quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả từ thực tiễn hoạt động của lực
lượng Quản lý thị trường tỉnh Gia Lai” để làm luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, vấn đề hàng giả và công tác quản lý nhà nước về phòng, chống
hàng giả đã được Ban chỉ đạo chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả
2
Quốc gia (BCĐ389QG) và nhiều Ban chỉ đạo 389 bộ, ngành, địa phương chỉ đạo
thực hiện, bản thân đã nghiên cứu và thu thập trong nhiều báo cáo khoa học, các
báo, tạp chí như:
- Luận án Tiến sĩ Luật học của nghiên cứu sinh Trần Ngọc Việt với đề tài
“Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả thực trạng và biện pháp phòng, chống”,
năm 2001 tại Viện nguyên cứu Nhà nước và Pháp luật. Luận án đi vào nghiên cứu
thực trạng, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm làm hàng giả, buôn bán
hàng giả, chính sách hình sự của Nhà nước ta về quy định xử lý các tội làm hàng
giả, buôn bán hàng giả, thực tiến hướng dẫn áp dụng các quy định này.
- Một số công trình nghiên cứu khoa học dưới dạng Luận văn thạc sĩ có thể
kể đến như: Đấu tranh phòng chống tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả ở Việt
Nam hiện nay (Luận văn thạc sĩ Luật học của Đỗ Thị Lan, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 1998); Đánh giá yếu tố xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của hàng giả trong
hoạt động của quản lý thị trường (Luận văn thạc sĩ Luật học của Chu Thị Thu
Hương, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006); Xử phạt vi phạm hành chính về buôn
bán hàng giả - từ thực tiễn Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội (Luận văn thạc sĩ
Luật học của Nguyễn Trường Sơn, Học Viện Hành chính Quốc Gia, 2016).
- Một số nghiên cứu khoa học dưới dạng bài viết có liên quan đến đề tài của
tác giả có thể kể đến như: Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về hàng giả
và về đấu tranh phòng, chống sản xuất và buôn bán hàng giả của Trần Ngọc Việt
đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 08/2011; Một vài suy nghĩ về khái niệm
hàng giả trong bối cảnh cuộc chiến chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
tại Việt Nam của Nguyễn Thị Quế Anh đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc
gia Hà Nội, Luật học, tập 30, số 1 (2014) 44-53 và một số đề tài nghiên cứu khoa
học các cấp của các cơ quan có chức năng đấu tranh phòng, chống hàng giả. Các
công trình nghiên cứu trên đã làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn trong công tác
phòng, chống hàng giả, hoặc đề cập đến công tác đấu tranh chống hàng giả của một
lực lượng, chưa nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện trong công tác quản lý nhà
3
nước về phòng, chống hàng giả của lực lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh
Gia Lai, cũng như giải pháp để phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế đến mức thấp nhất
các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hàng giả. Vì vậy đề tài tiếp tục kế thừa từ những
giá trị khoa học của các công trình đã được nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống sản xuất, buôn bán
hàng giả của lực lượng QLTT tỉnh Gia Lai, đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đấu tranh phòng,
chống sản xuất, buôn bán hàng giả góp phần ổn định thị trường, thúc đẩy phát triển
thương mại của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sản xuất, buôn bán hàng giả và
các yếu tố tác động làm gia tăng hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả và đấu tranh
phòng chống sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng công tác quản lý nhà nước về phòng, chống sản xuất,
buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014-2018; Đánh giá
những kết quả đạt được, hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
đấu tranh phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai;
giúp cho công chức và người lao động tại Cục làm tốt trách nhiệm của mình trong
thời gian đến.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là công tác quản lý nhà nước về đấu tranh phòng,
chống sản xuất, buôn bán hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai giai đoạn 2014-2018.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước trong
công tác kiểm tra, kiểm soát và xử lý hành vi vi phạm đối với hoạt động sản xuất,
buôn bán hàng giả của Cục QLTT tỉnh Gia Lai. Từ đó đề xuất các biện pháp, kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác này trên địa bàn tỉnh, bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng, doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích chung trong xã hội.
- Phạm vi thời gian: Các số liệu và thông tin nghiên cứu trong luận văn được
tổng hợp trong thời gian 5 năm (2014 - 2018), giải pháp đến năm 2022.
- Phạm vi không gian: Tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng làm cơ sở, phương pháp luận cho việc
nghiên cứu để giải quyết những vấn đề về lý luận tình hình sản xuất, kinh doanh
hàng giả; thực trạng, nguyên nhân của các hành vi vi phạm về sản xuất, buôn bán
hàng giả tại Cục QLTT tỉnh Gia Lai, từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa sản xuất,
bán bán hàng giả trên địa bàn tỉnh Gia Lai làm cơ sở thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống
kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp
diễn giải.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ nhiều vấn đề lý luận quản
lý nhà nước về phòng, chống hàng giả; hệ thống hóa và làm rõ về hàng giả, nhấn
5
mạnh về tác hại của hàng giả đến sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, tổn hại
đến lợi ích của cộng đồng.
Đánh giá và phân tích rõ thực trạng đấu tranh phòng, chống hàng giả tại Cục
QLTT tỉnh Gia Lai.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể giúp các cơ quan tổ chức tham khảo
để vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức và ý thức
pháp luật cho nhân dân trong hoạt động sản xuất kinh doanh; góp phần đổi mới tổ
chức hoạt động của Cục QLTT; đề ra phương án cụ thể, trước mắt và lâu dài nhằm
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả, tăng cường quản lý nhà nước trong đấu
tranh phòng, chống hàng giả trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
Đề tài này góp phần xây dựng phương án cho toàn Cục QLTT tỉnh Gia Lai;
đồng thời làm cơ sở để vận dụng chỉ đạo cho các Đội trong Cục QLTT về đấu tranh
phòng, chống hàng giả trong tình hình mới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung trong quản lý nhà nước về phòng,
chống hàng giả.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả từ thực
tiễn hoạt động của lực lượng Quản lý thị trường tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước về phòng,
chống hàng giả tại Cục Quản lý thị trường tỉnh Gia Lai.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÒNG, CHỐNG HÀNG GIẢ
1.1. Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về hàng giả
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về hàng giả
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực
Nhà nước đối với các quá trình phát triển xã hội và hành vi hoạt động của con người
để duy trì, phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện
những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hàng giả là hiện tượng kinh tế xã hội, là một thuật ngữ để phân biệt với hàng
thật. Ở Việt Nam theo mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, hàng giả
là vấn đề luôn phải được quan tâm, giải quyết do nền kinh tế thị trường với mục tiêu
lợi nhuận, mà hàng giả với lợi nhuận lớn tồn tại cùng với sự phát triển của nền kinh
tế hàng hóa.
Trước nhu cầu tăng cường hiệu quả cuộc đấu tranh chống hàng giả và bảo vệ
quyền SHTT, việc làm rõ bản thân khái niệm hàng giả nhằm tạo dựng cơ sở pháp lý
đầy đủ cho việc áp dụng các biện pháp chế tài xử lý phù hợp là một yêu cầu hết sức
cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Trong lý luận và thực tiễn hiện tồn tại nhiều quan niệm về hàng giả. Trước
hết, tìm hiểu khái niệm về hàng hoá và thế nào là giả: “Hàng hoá là sản phẩm dùng
để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào quá trình tiêu dùng thông qua
trao đổi” [34, tr.214], còn “Giả có nghĩa không phải là thật mà được làm với bề
ngoài giống như cái thật để người khác tưởng là thật” [35, tr.405].
Theo từ điển Bách khoa toàn thư: “Hàng giả là hàng làm bắt chước theo mẫu
mã của loại hàng thật nào đó đang được lưu hành, nhưng không bảo đảm đủ tiêu
chuẩn về phẩm chất hoặc không có giá trị sử dụng, hoặc không có giá trị sử dụng
đầy đủ, nhất là đối với mặt hàng thông dụng và có nhu cầu lớn. Về hình thức, các
loại hàng giả rất giống hàng thật, vì kĩ thuật làm hàng giả ngày càng tinh vi. Người
7
làm hàng giả cũng có khi sử dụng một phần nguyên liệu, các loại bao bì, tem nhãn
của hàng thật để lừa gạt người mua” [36]. Khái niệm này chỉ giải thích về mặt ngôn
ngữ, mà chưa phải là khái niệm mang tính pháp lý, thể hiện bản chất của hàng giả.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm hàng giả lần đầu tiên được sử dụng kể từ khi
đất nước được thống nhất là trong Pháp lệnh Trừng trị tội đầu lậu cơ, buôn, làm
hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982 [18]. Điều 5 của Pháp lệnh này quy định
về Tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả, với hình phạt có thể lên đến tù chung
thân. Tuy nhiên, đến thời điểm ban hành văn bản này, khái niệm hàng giả vẫn chưa
được làm rõ.
Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất ban hành năm 1985
quy định Tội làm hàng giả, Tội buôn bán hàng giả tại Điều 176, thuộc nhóm Tội
kinh tế. Mặc dù có quy định chi tiết hơn, có chế tài nghiêm khắc hơn Điều 5 của
Pháp lệnh năm 1982, Điều 176 của Bộ luật hình sự năm 1985 không đưa ra định
nghĩa về hàng giả.
Văn bản pháp luật đầu tiên định nghĩa về hàng giả là Nghị định 140/HĐBT
ngày 25/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về việc kiểm tra, xử lý hoạt động
sản xuất buôn bán hàng giả. Điều 3, Nghị định quy định: “Hàng giả theo Nghị định
này, là những sản phẩm, hàng hoá được sản xuất ra trái pháp luật có hình dáng
giống như những sản phẩm, hàng hoá được Nhà nước cho phép sản xuất, nhập
khẩu và tiêu thụ trên thị trường; hoặc những sản phẩm, hàng hoá không có giá trị
sử dụng đúng với nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó”.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, đến ngày 15/11/2013, Chính phủ đã ban hành
Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng [9]
đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của
Chính phủ [10]. Khái niệm về hàng giả được quy định chi tiết tại khoản 8 Điều 3.
Cụ thể gồm:
8
a) Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công
dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị
sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc
đăng ký;
b) Hàng hóa có ít nhất một trong các chỉ tiêu chất lượng hoặc đặc tính kỹ
thuật cơ bản tạo nên giá trị sử dụng, công dụng của hàng hóa chỉ đạt mức từ 70%
trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công
bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
c) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, vật nuôi không có dược chất; có
dược chất nhưng không đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ loại dược chất
đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa;
d) Thuốc bảo vệ thực vật không có hoạt chất; hàm lượng hoạt chất chỉ đạt từ
70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công
bố áp dụng; không đủ loại hoạt chất đã đăng ký; có hoạt chất khác với hoạt chất ghi
trên nhãn, bao bì hàng hóa;
đ) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa
chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa;
giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của
thương nhân khác;
e) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về
nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa;
g) Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005;
h) Tem, nhãn, bao bì giả gồm: đề can, nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa, các
loại tem chất lượng, phiếu bảo hành, niêm màng co hàng hóa hoặc vật phẩm khác
của cá nhân, tổ chức kinh doanh có chỉ dẫn giả mạo tên và địa chỉ của thương nhân
9
khác; giả mạo tên thương mại, tên thương phẩm hàng hóa, mã số đăng ký lưu hành,
mã vạch hoặc bao bì hàng hóa của thương nhân khác.
Như vậy, tùy trong từng thời kỳ, từng bối cảnh của nền kinh tế, để phù hợp
với nhu cầu đầu tranh chống hàng giả trong từng lĩnh vực mà khái niệm hàng giả có
thể được hiểu theo nghĩa khác nhau. Hơn nữa, qua các giai đoạn, khái niệm hàng
giả trong pháp luật Việt Nam cũng đã có sự phát triển, hoàn thiện đáng kể.
Từ sự nghiên cứu tổng hợp dưới góc độ pháp lý và khoa học hàng hóa, có thể
đưa ra khái niệm: Quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả là hoạt động thực thi
pháp luật của Nhà nước, đó là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp
luật đối với các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả của các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh và hoạt động thương mại thông qua hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về chất lượng, nhãn hiệu hàng hóa, quyền SHTT, sở hữu
công nghiệp, về đăng ký kinh doanh, xử lý các hành vi vi phạm trong sản xuất kinh
doanh hàng hóa… được tổ chức thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước đối với hàng hóa, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm
tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả. Pháp luật quy định về trình tự, thủ tục,
kinh phí cho công tác điều tra, xác minh, giám định, xử lý các vụ việc về hàng giả.
1.1.2. Hàng giả trong Luật Sở hữu trí tuệ
Luật SHTT ngày 29/11/2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) có điều 4 và
điều 213 quy định về quyền SHTT và hàng hóa xâm phạm quyền SHTT. Trong đó
Quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền
tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền
đối với giống cây trồng.
Trong các loại hình hàng giả, hàng hóa giả mạo về SHTT chiếm một phần
tương đối lớn và phổ biến. Khái niệm về chúng được quy định tại Điều 213 Luật
SHTT năm 2005 như sau:
10
- Hàng hoá giả mạo về SHTT theo quy định của Luật này bao gồm hàng hoá
giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý quy định tại khoản 2 Điều này và hàng
hoá sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này.
- Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn
hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo
hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu
hoặc của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý.
- Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của
chủ thể quyền tác giả hoặc quyền liên quan.
Với quy định này, Luật SHTT cũng đã xác định rõ các hành vi sản xuất, nhập
khẩu, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ để bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu về SHTT
theo quy định tại Điều 213 thì bị xử phạt vi phạm hành chính. Nếu cá nhân thực
hiện hành vi xâm phạm quyền SHTT có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
1.1.3. Bản chất và đặc điểm về sản xuất, buôn bán hàng giả
1.1.3.1. Bản chất của việc sản xuất, buôn bán hàng giả
Bản chất của sản xuất và buôn bán hàng giả là hành vi cướp đoạt giá trị vật
chất và tinh thần của người khác, lừa dối người tiêu dùng để thu lợi bất chính, điều
này được thể hiện rất rõ đối với mọi loại hàng giả.
Với mục tiêu đặt lợi nhuận trên hết, bất chấp mọi quy định của pháp luật. Để
đạt được mục tiêu của mình, các đối tượng sản xuất và buôn bán hàng giả dùng rất
nhiều thủ đoạn tinh vi để lừa dối, che mắt người tiêu dùng để thu lợi bất chính, chủ
yếu dựa vào sự thiếu hiểu biết của khách hàng để lừa dối; thu hút khách hàng qua
chi tiết giống hàng thật; chúng thường tập trung vào sản xuất, buôn bán một số mặt
hàng có thương hiệu, sản phẩm nỗi tiếng được thị trường tín nhiệm và người tiêu
dùng ưa chuộng, nhằm dễ tiêu thụ sản phẩm của mình với khối lượng lớn, bán hàng
nhanh và thu lợi nhuận cao, tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất bỏ ra cho sản phẩm,
11
hàng hóa. Thậm chí siêu lợi nhuận thông qua việc sử dụng nguyên liệu cấp thấp,
công nghệ sản xuất thủ công, trốn tránh trách nhiệm nộp thuế.
Đã là hàng giả thì bao giờ chất lượng cũng kém hơn so với hàng thật, thậm
chí có những loại hàng giả có độc tố ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng
của người tiêu dùng. Bên cạnh đó có loại hàng giả sử dụng nhãn mác bao bì của
hàng thật, loại hàng giả này rất nguy hiểm với người tiêu dùng vì khi sử dụng rồi
mới biết là hàng thật hay giả.
Tuy nhiên, trong việc sản xuất, buôn bán hàng giả cũng phải kể đến sự thiếu
hiểu biết, thiếu thông tin, kỹ năng nhận biết của khách hàng đối với sản phẩm và
còn có cả sự chấp nhận của người tiêu dùng. Do đó, số tiền mà người tiêu dùng bỏ
ra không đúng với giá trị vật chất và tinh thần thụ hưởng, ảnh hưởng đến sức khỏe,
thuần phong tập quán, môi trường sống của con người và xã hội.
1.1.3.2. Đặc điểm về sản xuất, buôn bán hàng giả
Cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường và sự phát triển mạnh mẽ của
cách mạnh công nghiệp 4.0, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại làm cho hàng giả cũng ngày
càng đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã với công nghệ sản xuất ngày càng
tinh vi, hiện đại. Từ những sản phẩm hàng hóa tiêu dùng thông thường đến những
hàng hóa công nghệ cao rất khó phân biệt với hàng thật. Tuy nhiên, ở bất kỳ giai
đoạn phát triển nào thì hàng giả vẫn có một số đặc điểm chủ yếu, đó là: thường có
chất lượng thấp, hình thức gần giống, tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hàng thật,
không đảm bảo các chỉ tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đặc điểm của sản xuất, buôn bán hàng giả phụ thuộc rất nhiều vào loại hàng
hóa bị làm giả bởi đối với mỗi loại hàng hóa khác nhau thì phương thức sản xuất,
buôn bán hàng giả khác nhau, được thể hiện cụ thể qua các đặc điểm như sau: Hoạt
động trái với quy định của pháp luật; thường được thực hiện lén lút, không công
khai, lẩn tránh sự quan sát của cơ quan chức năng; thường hoạt động trong điều
kiện thiếu thốn về không gian, không đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn, kỹ
thuật, môi trường; sử dụng công nghệ sản xuất thô sơ, rẻ tiền, nguyên vật liệu không
12
đảm bảo yêu cầu chất lượng, kỹ thuật; tập trung nhiều ở các vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, miền núi vì lợi dụng ở những nơi này trình độ dân trí thấp, kém hiểu
biết, lại có tâm lý thích hàng ngoại, giá rẻ; hơn nữa ở đây sự kiểm tra, kiểm soát của
các cơ quan chức năng thường chưa thường xuyên, chặt chẽ.
1.1.4. Đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả
Tham gia vào hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả có đủ loại đối tượng
thuộc tất cả các thành phần kinh tế, nhưng phần đông và phổ biến hơn cả là các
doanh nghiệp tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể. Hầu hết những người sản xuất
hàng giả đều tìm hiểu các đặc điểm loại hàng hóa mình sản xuất và thị trường sẽ
tiêu thụ. Họ tự làm hoặc thuê người khác làm, thường tập trung vào các đối tượng
như: Những người nghèo, thu nhập thấp, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, hoặc
biết vi phạm pháp luật nhưng vì cuộc sống mưu sinh; những người am hiểu luật
pháp, có trình độ về chuyên môn nhưng vẫn làm hàng giả; những người chủ cơ sở
đăng ký sản xuất một mặt hàng nhưng lại làm giả mặt hàng đã có uy tín.
Những đối tượng này có thể là:
- Doanh nghiệp trong nước: sản xuất giả mạo nhãn hoặc nhãn hiệu, xâm
phạm kiểu dáng công nghiệp, tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hàng thật hoặc
nhãn hiệu đã được bảo hộ tại Việt Nam; thậm chí đã có trường hợp xuất khẩu hàng
vi phạm nhãn hiệu ra nước ngoài, sản xuất giả hàng hóa của doanh nghiệp Việt
Nam có chất lượng tốt và tìm cách nhập khẩu vào Việt Nam để tiêu thụ.
- Các doanh nghiệp tại nước ngoài sản xuất hàng giả đưa vào Việt Nam tiêu
thụ: Chủ yếu là hàng cao cấp, có giá trị lớn như đồng hồ đeo tay, mỹ phẩm cao cấp,
thực phẩm, quần áo, thiết bị vệ sinh..., giả mạo nhãn hiệu hàng hóa của các hãng
nước ngoài có thương hiệu nổi tiếng như đồng hồ, máy tính Casio, Dove, Clear,
A_One, Adidas, Nike, Levi’s, Blue Exchange,... Tình trạng này đang xảy ra khá
phổ biến, loại hàng giả này đã và đang được bán công khai trên thị trường nước ta
mà phần lớn là nhập lậu từ nước láng giềng Trung Quốc.
- Hộ kinh doanh cá thể sản xuất, tiêu thụ hàng giả: đối tượng này sản xuất
13
chủ yếu dựa những mặt hàng tiêu dùng thông thường cho nhu cầu tiêu dùng hàng
ngày của người tiêu dùng: xà phòng, dầu gội đầu, muối Iốt, bột ngọt, bánh kẹo...
- Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng sản xuất và tiêu
thụ hàng giả. Việc sản xuất hàng giả của loại đối tượng này thường ở dạng vi phạm
quyền sở hữu công nghiệp, sử dụng nhãn hiệu của người khác mà không có sự đồng
ý của chủ thể quyền. Những sản phẩn hàng hóa giả, xâm phạm quyền SHTT này đi
vào thị trường Việt Nam bằng các con đường như: Nhập lậu; nhập tiểu ngạch; thậm
chí có cả nhập chính ngạch những hàng hóa có yếu tố vi phạm sở hữu công nghiệp.
Nhiều tổ chức, cá nhân sản xuất, buôn bán hàng giả gần như mang tính
chuyên nghiệp. Họ tổ chức hoạt động thành những kênh, những đường dây khép
kín, khá chặt chẽ trong việc sản xuất - giao nhận - vận chuyển - buôn bán - tiêu thụ
hàng giả, trong đó có những quan hệ móc nối với các đối tượng người nước ngoài
để sản xuất hàng giả và đưa vào tiêu thụ ở Việt Nam hoặc thậm chí sản xuất trong
nước rồi đưa qua biên giới gắn nhãn sản xuất tại nước ngoài, sau đó tìm cách nhập
trở lại Việt Nam để đánh lừa người tiêu dùng.
Từ các đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả nêu trên, chúng ta có thể chia
hàng giả thành các nhóm chính sau: Hàng nội giả hàng ngoại; hàng nội giả hàng
nội; hàng ngoại giả hàng ngoại và hàng ngoại giả hàng nội.
1.1.5. Phương thức sản xuất, buôn bán hàng giả
1.1.5.1. Phương thức sản xuất
Hoạt động sản xuất hàng giả được tiến hành lén lút là chủ yếu, có loại quy
trình đơn giản nhưng cũng có quy trình phức tạp. Hàng giả do nước ngoài hoặc
trong nước sản xuất đều có nhiều dạng khác nhau là:
- Sản xuất những loại hàng hóa đang khan hiếm, thị trường có nhu cầu tiêu
thụ lớn, lãi suất cao.
- Sản xuất hàng hóa mang tên thương mại, địa chỉ sản xuất, nhãn hiệu hoặc
một trong các yếu tố trên cơ sở các thương hiệu nổi tiếng hoặc có chất lượng tốt
14
hơn, thị trường tiêu thụ nhiều.
- Sản xuất hàng hóa cùng loại, cùng công dụng giả nhãn hiệu hàng hóa của
người khác đang được bảo hộ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, đây là tình trạng
vi phạm xảy ra khá nhiều hiện nay. Việc làm giả nhãn hiệu của người khác rất tinh
vi: có khi giả toàn bộ, có khi thay đổi một chi tiết nhỏ, thêm bớt một chút... làm cho
người tiêu dùng không để ý, dễ nhầm lẫn với hàng thật.
- Sản xuất hàng hóa có nhãn hàng hóa nhưng không ghi tên thương mại, địa
chỉ, chất lượng, thành phần cấu tạo hoặc có ghi nhưng không ghi đầy đủ, không rõ
ràng, ghi không đúng sự thật.
- Sử dụng lại bao bì, nhãn hiệu của hàng hóa chính phẩm đánh tráo ruột là
hàng giả, bao bì nhãn hiệu thật (A-One, dầu gội đầu).
- Tẩy xóa, sửa lại nhãn hàng đã quá hạn sử dụng, hàng chất lượng không
đảm bảo an toàn thành hàng còn trong thời hạn sử dụng... để tiêu thụ. Phương thức
này chủ yếu tiêu thụ hàng bao gói sẵn, đồ hộp đóng gói sẵn.
- Hàng giả được sản xuất với mẫu mã bên ngoài rất giống, thậm chí nhìn bên
ngoài còn đẹp hơn hàng thật, nếu để 2 sản phẩm thật - giả cạnh nhau, thì người tiêu
dùng không phân biệt được.
1.1.5.2. Phương thức buôn bán
Lợi dụng tâm lý khách hàng luôn muốn mua hàng muốn giá rẻ mà hàng lại
tốt nhất nhằm mục tiêu đạt lợi nhuận cao nhất nên các đối tượng đã áp dụng những
phương thức tiêu thụ khác nhau đối với từng loại hàng hóa khác nhau, mang những
đặc trưng khác nhau, cụ thể như sau:
- Hàng có giá trị lớn, quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, thị trường tiêu
thụ rộng thì việc sản xuất và tiêu thụ rất tinh vi: hàng giả rất giống hàng thật, thậm
chí đẹp hơn hàng thật nhưng chất lượng kém hơn hàng thật. Những loại hàng hóa
trên nhiều khi là hàng nhập khẩu, hàng cao cấp, người tiêu dùng không am hiểu
nhiều về nhãn mác, xuất xứ, cấu tạo... đó là một yếu tố dẫn đến loại hàng giả này
15
nhiều khi được sản xuất và tiêu thụ công khai.
- Các loại hàng giả khác, phương thức tiêu thụ phổ biến ở các dạng sau:
+ Sử dụng nhiều hình thức, chiêu thức khuyến mãi đánh vào tâm lý, cuốn hút
người tiêu dùng để tiêu thụ hàng giả, hàng nhái như: giảm giá, mua 2 tặng 1, mua
hàng kèm theo phiếu trúng thưởng...
+ Giá bán nhiều loại hàng rẻ hơn hàng thật để người mua tham rẻ mà tiêu thụ
là phổ biến nhưng cũng có loại để tránh người tiêu dùng nghi ngờ thì hàng giả lại
được bán ngang giá hàng thật.
+ Nhiều loại hàng hóa khi bán phải kèm theo phiếu bảo hành, nhưng đối với
hàng giả không phiếu bảo hành hoặc có nhưng là phiếu bảo hành giả mạo.
+ Lừa dối người tiêu dùng bằng cách quảng cáo sai, quảng cáo quá sự thật về
công dụng, chất lượng hàng hóa, xuất xứ... hàng chất lượng thấp nhưng quảng cáo
và bán với giá như hàng có chất lượng cao.
+ Lợi dụng người tiêu dùng hiểu biết còn hạn chế về mặt hàng, về chất
lượng, nhãn hiệu hàng hóa... ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn để đưa hàng giả
đến tiêu thụ. Thậm chí có loại hàng, có trường hợp đưa cả hàng có công dụng khác
hàng thật nhưng giới thiệu, quảng cáo công dụng như hàng thật, tráo trộn hàng giả
lẫn vào hàng thật để tiêu thụ.
+ Có một số mặt hàng giả, nhìn hình thức tiêu thụ đa dạng hơn như sắt thép
giả, xi măng giả đưa vào các hộ kinh doanh bán lẻ tiêu thụ, đưa vào chính đại lý của
nhà sản xuất ra hàng hóa chính hiệu để tiêu thụ, các chủ thầu, chủ công trình lớn vì
lợi nhuận đã lợi dụng hoặc móc ngoặc, thông đồng với cơ quan quản lý, giám sát để
tiêu thụ hàng giả.
1.1.6. Các nguyên nhân thúc đẩy sản xuất, buôn bán hàng giả
Hàng giả tồn tại trong mọi lĩnh vực, thực sự là một tệ nạn xã hội, gây tác hại
to lớn đến lợi ích của người tiêu dùng. Song một trong những nguyên nhân chủ yếu
là từ phía người sản xuất nhằm thu lợi nhuận cao. Các cơ sở này đã tìm mọi cách
16
thay thế vật liệu dởm, rẻ tiền để sản xuất hàng hoá với chi phí thấp mà vẫn bán được
giá cao, thu lợi nhuận nhiều.
Nguyên nhân thứ hai là nền kinh tế nước ta đi vào xây dựng và phát triển
trên cơ sở một nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu kéo dài, trình độ dân trí
nói chung còn thấp, nhất là nhận thức về pháp luật. Đại bộ phận dân cư sống còn
mang nặng lối suy nghĩ cá nhân hẹp hòi chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt. Thêm vào
đó là cơ chế thị trường, nền kinh tế chuyển hướng dựa trên cơ sở phát triển nhiều
thành phần, chấp nhận sự cạnh tranh.
Nguyên nhân thứ ba là một số bộ phận người tiêu dùng có tâm lý chung là
thích dùng hàng ngoại, ham rẻ, dễ chấp nhận với hàng giả theo quan niệm “tiền nào
của ấy”, khi hàng hoá giá rẻ, phù hợp với thu nhập thì họ mua về để dùng. Đó là
nhân tố tiếp tay cho hàng hàng giả có điều kiện tồn tại và lưu thông trên thị trường.
Nguyên nhân thứ tư là sự phối hợp giữa nhà sản xuất và các ngành, các lực
lượng chức năng chưa thường xuyên, đồng bộ; chưa làm tốt công tác tuyên truyền
và cung cấp những kiến thức cơ bản cho người tiêu dùng từ đó nhận biết được hàng
thật - hàng giả đang lưu thông trên thị trường.
Nguyên nhân thứ năm là hệ thống quy định pháp lý về hàng giả và thực thi
quyền SHTT chưa đồng bộ, còn nhiều chồng chéo bất cập, chưa có sự thống nhất
trong công tác xử lý vi phạm giữa các cơ quan chức năng; công tác giám định còn
mất rất nhiều thời gian, chưa đáp ứng được nhu cầu đấu tranh trong phòng, chống
sản xuất, buôn bán hàng giả.
1.1.7. Tác hại của hàng giả đối với nền kinh tế - xã hội
1.1.7.1. Tác hại đối với người sản xuất
Nạn sản xuất và buôn bán hàng giả có ảnh hưởng rất xấu đối với đời sống
kinh tế và xã hội của một quốc gia. Đối với người sản xuất kinh doanh, nó có ảnh
hưởng vô cùng to lớn, cụ thể như sau:
17
Hàng giả giúp cho các đối tượng hoạt động thương mại trái pháp luật thu
được lợi nhuận cao, đồng thời hạ uy tín và làm giảm lợi nhuận của các doanh
nghiệp hoạt động đúng theo quy định của Pháp luật, làm giảm số thu của nhà nước
từ nguồn thu ngân sách.
Hàng giả có gắn nhãn mác, tên thương mại của các thương hiệu nổi tiếng,
các thương hiệu đã đăng ký bảo hộ sẽ làm hạ uy tín của các doanh nghiệp ấy, mất
uy tín đối với khách hàng, sản lượng bán ra không nhiều gây thất thu lớn đối với các
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải đầu tư một số lượng tiền khá lớn vào việc
chống hàng giả và việc cải tạo nhãn mác sản phẩm của mình sao cho hàng giả ít có
khả năng nhái theo nhãn hiệu của công ty mình.
1.1.7.2. Tác hại đối với người tiêu dùng
Tác hại của hàng giả đối với người tiêu dùng đặc biệt nghiêm trọng, tác động
đến không chỉ sức khỏe mà còn chất lượng cuộc sống của người tiêu dùng. Cụ thể:
Các doanh nghiệp sản xuất, buôn bán hàng giả chỉ quan tâm đến lợi nhuận
mà không quan tâm đến chất lượng của sản phẩm cũng như việc bảo vệ môi sinh,
môi trường trong quá trình sản xuất. Hành vi này của họ đã làm ô nhiễm môi
trường, nguồn nước, không khí, tiếng ồn... ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và chất
lượng cuộc sống của người dân.
Các mặt hàng mỹ phẩm, lương thực, thực phẩm chế biến, đồ uống giả các
loại thuốc, vắc xin giả có thể gây ảnh hưởng đến trực tiếp đến sức khoẻ và tính
mạng của người tiêu dùng.
Các loại vật tư nông nghiệp, cây giống, con giống giả có thể gây tác hại cho
cây trồng, vật nuôi, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, môi trường sinh thái và
thông qua đó ảnh hường đến sức khoẻ của con người.
Như vậy, có thể nói rằng hàng giả có thể gây đến thiệt hại rất lớn cho con
người và của cải vật chất cho xã hội.
18
1.1.7.3. Tác hại đối với xã hội
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá với nguồn lực
còn hạn hẹp và nghèo nàn, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là một yếu tố vô cùng
quan trọng. Hàng giả được buôn bán, lưu thông trên thị trường sẽ bóp méo giá cả
hàng hoá, gây ra hỗn loạn, mất trật tự kỷ cương trên thị trường. Thị trường không
ổn định, không lành mạnh thì không có bất cứ doanh nghiệp nào, tổ chức nào muốn
đầu tư vào nó, gây tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư; ảnh hưởng đến chính sách thu
hút vốn đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất, nhập khẩu. Không có vốn đầu tư từ
nước ngoài chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận công nghệ tiên
tiến, hiện đại trên thế giới để mở rộng sản xuất, tăng sản lượng trong nước. Việt
Nam sẽ không có cơ hội để rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Bên cạnh đó, tác hại của hàng giả còn ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh,
chất lượng công trình… ảnh hưởng đến toàn xã hội, kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế, thất thu ngân sách nhà nước làm rối loạn trật tự quản lý kinh tế.
Tóm lại: Nạn sản xuất và buôn bán hàng giả tạo ra rất nhiều mối nguy hại
cho nền kinh tế. Việt Nam muốn hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững thì phải kiên quyết đấu tranh
mạnh mẽ với tệ nạn này.
1.2. Công tác quản lý nhà nước về phòng, chống hàng giả
1.2.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và chính sách, pháp luật về đấu tranh
phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả
1.2.1.1. Cơ sở pháp lý
Trong những năm qua, công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; các Bộ,
ngành, địa phương, lực lượng chức năng và nhân dân tích cực thực hiện và đã đạt
được những kết quả quan trọng, góp phần ổn định và thúc đẩy sản xuất kinh doanh,
19