Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị thị xã la gi, tỉnh bình thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.27 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔN THẤT MUỘN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC KHI ĐỔI MỚI, SẮP XẾP
TỔ CHỨC BỘ MÁY TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÔN THẤT MUỘN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC KHI ĐỔI MỚI, SẮP XẾP
TỔ CHỨC BỘ MÁY TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. BÙI NHẬT QUANG


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thực hiện chính sách đối với cán bộ, công
chức, viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính
trị thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận” là công trình nghiên cứu của riêng tôi,
những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách
quan. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và
chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông
tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm trước pháp luật.
Tác giả luận văn

Tôn Thất Muộn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI
VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC KHI ĐỔI MỚI, SẮP XẾP
TỔ CHỨC BỘ MÁY TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ......................... 9
1.1. Khái niệm cán bộ, công chức, viên chức ................................................... 9
1.2. Một số khái niệm về chính sách công và chính sách đối với cán bộ, công
chức, viên chức................................................................................................ 11
1.3. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị .................................................. 13
1.4. Những vấn đề cơ bản của việc thực hiện chính sách đối với cán bộ, công
chức, viên chức................................................................................................ 17
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN

BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC KHI ĐỔI MỚI, SẮP XẾP TỔ CHỨC
BỘ MÁY TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THỊ XÃ LA GI, TỈNH
BÌNH THUẬN ............................................................................................... 36
2.1. Khái quát về địa phương và thực trạng tổ chức, bộ máy trong hệ thống
chính trị thị xã La Gi ....................................................................................... 36
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên
chức ở thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận ............................................................. 39
2.3. Kết quả thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức khi
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị thị xã La Gi, tỉnh
Bình Thuận ...................................................................................................... 43
2.4. Đánh giá chung kết quả thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức
viên chức tại thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.................................................... 59
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
KHI ĐỔI MỚI, SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ MÁY TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN................................. 63


3.1. Định hướng tăng cường thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức,
viên chức tại thị xã La Gi ................................................................................ 63
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức,
viên chức tại thị xã La Gi ................................................................................ 64
3.3. Kiến nghị .................................................................................................. 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Kết quả thực hiện chính sách tuyển dụng công chức, viên chức .... 44

Bảng 2.2. Kết quả thực hiện chính sách bổ nhiệm, bầu cử, luân chuyển các
chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Thị ủy quản lý .................................... 46
Bảng 2.3. Kết quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng .......................... 48
Bảng 2.4. Kết quả thực hiện chính sách sử dụng cán bộ, công chức, viên chức
thuộc các chức danh do Ban Thường vụ Thị ủy quản lý................................. 50
Bảng 2.5. Kết quả thực hiện chính sách đánh giá cán bộ, công chức, viên
chức ................................................................................................................. 52
Bảng 2.6. Kết quả thực hiện chính sách tiền lương cho cán bộ, công chức,
viên chức.......................................................................................................... 54
Bảng 2.7. Kết quả thực hiện chính sách về hưu trước tuổi cho cán bộ, công
chức, viên chức ................................................................................................ 56
Bảng 2.8. Kết quả thực hiện chính sách khen thưởng đối với cán bộ, công
chức, viên chức ................................................................................................ 57
Bảng 2.9. Kết quả xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức ........... 58


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là lực lượng chính cấu thành
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị
- xã hội; có vai trò quyết định trong việc tham mưu, hoạch định các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm xây
dựng, phát triển đất nước, đồng thời cũng là người tham gia trực tiếp vào quá
trình quản lý xã hội, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước đi vào hiện thực cuộc sống.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 đã phân
định rõ về cán bộ, công chức, viên chức. Theo đó, Nhà nước đã ban hành khá
đầy đủ các quy định và các chính sách liên quan đến chức trách, quyền hạn,
nghĩa vụ, sử dụng, quản lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Đại hội XII của Đảng xác định các chủ trương, phương hướng đổi mới

mạnh mẽ công tác cán bộ, trong đó xác định rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
[32, tr. 205]. “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ” [32, tr. 207]. Vì
vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược có số lượng, chất lượng, cơ cấu phù
hợp, đủ năng lực và phẩm chất, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thị xã La Gi là một trong 10 đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh
Bình Thuận, được chia tách, thành lập mới từ cuối năm 2005, hiện nay là đô
thị loại III, có 9 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm có 5 phường và 04 xã;
được xem là đô thị động lực phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội phía nam của
tỉnh Bình Thuận.
Thực hiện chủ trương sắp xếp, kiện toàn tổ chức các cơ quan, đơn vị
1


của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; mục tiêu “Tinh giản
biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức” [12], “góp phần nâng cao
năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị” [12]. Trên cơ sở các
chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức của Trung ương, của Tỉnh,
thời gian qua các cấp ủy đảng, chính quyền trong thị xã đã quan tâm xây dựng
và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ thị xã đến phường, xã
tạo được những chuyển biến tích cực so với yêu cầu nhiệm vụ.
Tuy nhiên, thực tiễn tinh giản biên chế; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy trong hệ thống chính trị ở thị xã La Gi chưa đạt được kết quả như mong
muốn, chưa đáp ứng yêu cầu tinh gọn tổ chức, bộ máy, nâng cao năng lực,
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Thực trạng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức ở thị xã La Gi trong từng cấp, từng ngành chưa có sự bố trí
phù hợp so với yêu cầu vị trí việc làm (có nơi thừa, có nơi thiếu). Những năm

gần đây, việc tuyển dụng bổ sung công chức, viên chức theo biên chế được
giao chưa đầy đủ, do phải tuân thủ chặt chẽ quy trình tuyển dụng. Việc thực
hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thị xã thời
gian qua có những hạn chế nhất định, chưa tạo được động lực mạnh mẽ để
đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của thị xã có chất
lượng nâng cao với cơ cấu phù hợp. Từ những vấn đề trên, cần có những giải
pháp chính sách nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức đáp ứng yêu cầu đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính
trị ở thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận trong những năm tiếp theo, tôi đã chọn đề
tài “Thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức khi đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị thị xã La Gi, tỉnh Bình
Thuận” là Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên
chức cho thấy vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo đã quan
tâm nghiên cứu ở những cấp độ khác nhau. Hiện nay, có khá nhiều bài viết,
công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách đối với cán bộ, công chức,
viên chức, là cơ sở lý luận và thực tiễn, kinh nghiệm quý báu cho việc nghiên
cứu và thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức ở từng địa
phương. Gần đây có một số nghiên cứu, bài viết như:
- “Xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ trong thời kỳ mới” [1] của
TS. Nguyễn Ngọc Ánh (2018), đã phân tích thực trạng qua 30 năm đổi mới,
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, đề án liên quan đến
chính sách cán bộ. Đề ra các giải pháp cải cách tiền lương, khoán quỹ lương
và chi hành chính phí; trọng dụng, đãi ngộ người có tài năng; phát huy tác
dụng thật sự của chế độ khen thưởng và kỷ luật dựa vào hiệu quả công tác và

thành tích cống hiến trên cơ sở tăng thẩm quyền cho người đứng đầu đơn vị.
- “Nhận diện những bất cập, hạn chế qua 20 năm thực hiện chiến lược
cán bộ” [54] của Xuân Vinh (2018), chỉ ra những bất cập, hạn chế trong thực
hiện chiến lược cán bộ 20 năm qua, rút ra những bài học kinh nghiệm, để từ
đó có giải pháp tốt hơn trong từng khâu công tác cán bộ và thực hiện chính
sách cán bộ. Hiện nay việc làm này là yêu cầu khách quan, bức thiết.
- “Thực hiện tốt chính sách cán bộ - giải pháp động lực góp phần đẩy
lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” [10] của GS. TS. Hoàng
Chí Bảo (2012), Nêu lên vấn đề chính sách và cơ chế, trong đó có chính sách
cán bộ như một giải pháp chiến lược. Phải đặt chính sách cán bộ trong hệ
thống các chính sách phát triển, trực tiếp nhất là chính sách phát triển kinh tế,
chính sách phát triển xã hội, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường. Hạt nhân của các chính sách là vấn đề lợi ích. Phải đổi mới, cải cách
3


căn bản chế độ tiền lương. Phải dùng công cụ này để góp phần đẩy lùi tham
nhũng. Lương không chỉ là lợi ích vật chất mà còn là các giá trị tinh thần.
Lương phải có sự phân hoá, phải chú trọng vào tính chất, đặc thù lao động
nghề nghiệp, phải tỏ rõ sự quý trọng, tôn vinh tài năng.
- “Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ” [13] của Mai Văn Chính (2017),
nêu lên vấn đề cơ chế, chính sách và tổ chức đào tạo chưa theo kịp yêu cầu
thực tiễn; chính sách sử dụng cán bộ sau đào tạo còn nhiều bất hợp lý ... Đề ra
một số nhiệm vụ giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong
đó có đổi mới cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
- “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong quá trình cải cách hành
chính” [37] của Nguyễn Thị La (2015), nghiên cứu đánh giá thực trạng, nêu
lên những tồn tại, hạn chế trong công tác đào tạo bồi dưỡng, đề cập đến chế
độ chính sách cho cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng tuy đã
được nâng cao hơn so với trước, song còn thấp và chưa phù hợp. Đưa ra các

giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng; đề xuất có
chính sách phù hợp cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- “Cải cách chính sách tiền lương để nâng cao đời sống cho cán bộ,
công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh
nghiệp” [36] của Vương Đình Huệ (2018), xem chính sách tiền lương là một
bộ phận đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Cải cách
chính sách tiền lương là yêu cầu khách quan. Đề ra giải pháp mang tính đột
phá: “Bảo đảm đời sống cho người lao động và gia đình họ; tạo động lực nâng
cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động” [36], góp
phần “xây dựng hệ thống chính trị ổn định, tinh gọn, trong sạch, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng; thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội, thúc đẩy, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội
bền vững” [36].
4


- “Quan điểm, chủ trương của Đảng về đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả” [47] của PGS, TS
Nguyễn Minh Tuấn (2017), nêu lên vấn đề đổi mới hệ thống chính trị, trong
đó tập trung chủ yếu vào việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi
mới, kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Có nói đến vấn đề
đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ như: tuyển dụng,
thi tuyển, quy hoạch, bố trí, phân công nhiệm vụ, đào tạo, bồi dưỡng, đánh
giá, tiền lương và các chế độ chính sách khác đối với cán bộ, công chức.
- “Phú Yên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” [40] của Nguyễn
Đình Phúc (2017), phân tích thực trạng, chỉ ra cơ cấu, chất lượng nguồn nhân
lực của Phú Yên còn nhiều hạn chế, bất cập. Đề ra giải pháp sửa đổi, bổ sung
cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng trí thức; thu hút nguồn cán bộ; thí điểm
thực hiện trả lương theo năng lực và kết quả công tác tại một số đơn vị sự
nghiệp công lập. Hoàn thiện các quy chế, quy định trong công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; luân chuyển; trách nhiệm, xử lý trách
nhiệm; phân cấp quản lý cán bộ; bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, tuyển dụng.
- “Chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn quận Ba Đình,
thành phố Hà Nội” [39], Luận văn thạc sĩ Chính sách công Học viện Khoa
học xã hội năm 2017 của tác giả Đỗ Trang Nhung. Tác giả luận văn đã nghiên
cứu và làm rõ những cơ sở lý luận cũng như thực trạng thực hiện chính sách phát
triển cán bộ, công chức tại quận Ba Đình; định hướng và các giải pháp hoàn thiện
chính sách phát triển cán bộ, công chức ở quận Ba Đình thành phố Hà Nội.
- “Chính sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn Quận 11, thành
phố Hồ Chí Minh” [48], Luận văn thạc sĩ Chính sách công Học viện Khoa
học xã hội năm 2017 của tác giả Nguyễn Minh Tùng. Tác giả luận văn đã
nghiên cứu và làm rõ những cơ sở lý luận cũng như thực trạng thực hiện chính
sách phát triển cán bộ, công chức từ thực tiễn quận 11, thành phố Hồ Chí Minh; đưa
5


ra quan điểm, định hướng và các giải pháp tiếp tục tăng cường thực hiện chính
sách.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, các bài viết đã được công bố đều
đề cập đến vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách đối với cán bộ, công
chức ở nước ta, hoặc phân tích, đánh giá tình hình cụ thể của một địa phương.
Đến nay chưa có công trình nghiên cứu thực tiễn nào được công bố về thực
hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức từ thực tiễn thị xã La Gi,
tỉnh Bình Thuận; nhất là trong giai đoạn hiện nay, đang thực hiện Nghị quyết
Trung ương sáu (Khóa XII), về một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Việc phân tích, đánh giá những quá trình thực hiện chính sách đối với cán bộ,
công chức, viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống
chính trị thị xã La Gi là vấn đề cần phải được nghiên cứu để có giải pháp phù
hợp, nhằm thực hiện tốt hơn vấn đề này ở thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về chính sách
đối với cán bộ, công chức, viên chức; phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện
chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức ở thị xã La Gi, tỉnh Bình
Thuận hiện nay; qua đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện
tốt chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thị xã.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thứ nhất, nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận về thực hiện chính sách
đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, vận dụng lý thuyết về chính sách công để khảo sát, phân tích,
đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách đối với cán bộ,
công chức, viên chức từ thực tiễn thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
Thứ ba, phân tích quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp chủ
6


yếu nhằm thực hiện đạt hiệu quả tốt nhất chính sách đối với cán bộ, công
chức, viên chức ở thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề liên quan đến thực hiện chính
sách đối với cán bộ, công chức, viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy trong hệ thống chính trị thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối cán
bộ, công chức, viên chức trên địa bàn thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách đối
với cán bộ, công chức, viên chức của thị xã từ năm 2015 – 2018 (theo thời
gian thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã La Gi lần thứ X, nhiệm kỳ
2015 - 2020).
+ Phạm vi về đối tượng: Nghiên cứu, khảo sát đối với cán bộ, công

chức, viên chức thuộc thị xã La Gi trực tiếp quản lý và thực hiện chính sách.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Để thực hiện được đề tài, cần vận dụng cách tiếp cận
đa chiều, gắn với tư duy, chủ trương, quan điểm chiến lược xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức của Đảng và Nhà nước nói chung và của Tỉnh
Bình Thuận, thị xã La Gi nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp luận khoa học để
nghiên cứu cho luận văn.
+ Thu thập dữ liệu thứ cấp: Các văn bản, báo cáo liên quan đến công
tác cán bộ của thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận, từ năm 2012 đến năm 2018. Kế
thừa, sử dụng kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu trước, các
thông tin liên quan đến đề tài trên sách báo, tạp chí khoa học, các trang web....
+ Thu thập dữ liệu sơ cấp: Sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi và
7


chọn mẫu ngẫu nhiên, đối tượng là cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức của
thị xã; khảo sát ý kiến về thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên
chức. Phân tích số liệu thu thập theo từng nội dung chính sách.
- Phương pháp xử lý dữ liệu: Sử dụng phương pháp thống kê và tính
toán tỷ lệ để xử lý kết quả dữ liệu thu thập; phân tích, so sánh dữ liệu khảo sát
điều tra với kết quả đánh giá của địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn nghiên cứu và vận dụng các lý thuyết về
thực hiện chính sách công để phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách.
Kết quả đánh giá góp phần làm sáng tỏ các lý thuyết về chính sách công đối
với cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Làm rõ, đánh giá được thực trạng, phân tích được
nguyên nhân, đề ra được giải pháp góp phần cung cấp những căn cứ thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên

chức khi thực hiện đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị
thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 03 chương, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục. Về tiêu đề cụ thể của 03 chương là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với cán bộ, công
chức, viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức,
viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị thị xã
La Gi, tỉnh Bình Thuận.
Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường thực hiện chính sách
đối với cán bộ, công chức, viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
trong hệ thống chính trị thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận.
8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC KHI ĐỔI MỚI, SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ
MÁY TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1.1. Khái niệm cán bộ, công chức, viên chức
1.1.1. Khái niệm cán bộ
Trước đây, thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng ở nước ta bao hàm một
phạm vi rất rộng để chỉ những người làm việc trong Nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội. Cán bộ cũng là từ thường được người dân sử
dụng để nói về những người có quyền hành trong các cơ quan, tổ chức của
Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể; hay đang thụ lý giải quyết một công
việc cho tổ chức, công dân. Cụm từ thông dụng khi đó là “cán bộ, công nhân
viên chức”, bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức
được hưởng lương từ Nhà nước. Sự đánh đồng như vậy dẫn tới việc không

phân biệt rõ giữa những người thực thi chức năng lãnh đạo, quản lý và những
người tham mưu chuyên môn trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị.
Pháp lệnh cán bộ, công chức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa
X) đã thông qua ngày 26/02/1998 là cơ sở pháp lý quan trọng để nước ta xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp trong thời kỳ đổi mới. Sau đó, tuy Pháp
lệnh được sửa đổi, bổ sung, quy định cụ thể hơn đối tượng là cán bộ, công
chức, nhưng cũng chưa phân định rõ giữa cán bộ và công chức.
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2010, tại Khoản 1 và Khoản 3 Điều 4 quy định về cán bộ: “Cán bộ là
công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
9


tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước” [42]. “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp
xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng
ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân
Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước” [42].
1.1.2. Khái niệm công chức
Cùng với khái niệm cán bộ, tại Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ, công
chức quy định về công chức: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là

sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi
chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [42].
1.1.3. Khái niệm viên chức
Pháp lệnh số 11/2003/PL-UBTVQH11, ngày 29/4/2003 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội (khóa XI) về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
cán bộ, công chức có đề cập đến ngạch viên chức. Theo đó, Nghị định số
116/2003/NĐ-CP, ngày 10/10/2003 của Chính phủ đã nêu khái niệm về viên
10


chức. Tại Điều 1 và Điều 2 Nghị định này.
Luật Viên chức năm 2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012, tại
Điều 2 và khoản 1, Điều 3 đã quy định rõ về viên chức: “Viên chức là công
dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự
nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [43]. “Viên chức
quản lý là người được bổ nhiệm giữ chức vụ quản lý có thời hạn, chịu trách
nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện một hoặc một số công việc trong đơn vị sự
nghiệp công lập nhưng không phải là công chức và được hưởng phụ cấp chức
vụ quản lý” [43].
1.2. Một số khái niệm về chính sách công và chính sách đối với cán
bộ, công chức, viên chức
1.2.1. Khái niệm chính sách công
Khái niệm chính sách công được các nhà khoa học phân tích theo nhiều

quan điểm. Cho đến nay, một số nhà khoa học đã đưa ra các quan điểm và
định nghĩa về chính sách công; cơ bản nói đến 3 vấn đề: chủ thể ban hành
chính sách; mục đích của chính sách; vấn đề chính sách hướng tới giải quyết.
Chính sách công ở Việt Nam có thể khái niệm: "Chính sách công là
một tập hợp các quyết định có liên quan để "lựa chọn" mục tiêu và những giải
pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề chính sách theo mục
tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền" [35, tr.16].
Tại Việt Nam, chính sách công được thể hiện qua nhiều loại văn bản
khác nhau, như: luật, các văn bản dưới luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chương trình, dự án, các quyết định của các cơ quan trung ương, địa phương.
Có thể hiểu chính sách công là tất cả những công việc mà chính quyền
thi hành đến dân; là ý chí của nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước
nhằm thực hiện mục tiêu theo định hướng chính trị; tác động mang tính cộng
11


đồng vì lợi ích chung; mang tính hệ thống và đảm bảo thực thi bởi các cơ
quan quyền lực từ trung ương đến địa phương; thể hiện ý chí chính trị của chủ
thể ban hành và thường gắn với các Đảng phái chính trị lãnh đạo cầm quyền.
1.2.2. Chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức
Chính sách cán bộ được xây dựng và thực hiện trên cơ sở các quan
điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đối với cán bộ, công chức, viên
chức; là công cụ quan trọng để xây dựng, sử dụng, quản lý đội ngũ cán bộ ở
các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng ở nước
ta. Hệ thống chính sách này nhằm phục vụ cho công tác cán bộ, đồng thời
cũng nhằm đảm bảo quyền, lợi ích về vật chất và tinh thần, nghĩa vụ, trách
nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức. Do đó, chính sách cán bộ luôn gắn
liền với các khâu trong công tác cán bộ, khó có thể tách rời mối liên hệ này.
Chính sách cán bộ cũng như các chính sách khác, do con người tạo ra,
nhưng đồng thời chính sách cũng tác động trở lại đến hoạt động của con

người. Do vậy chính sách cán bộ phải có sự đồng bộ và tạo điều kiện cho mọi
cán bộ có thể phát huy hết năng lực sáng tạo của mình. Chính sách cán bộ là
một trong những công cụ quan trọng để Đảng, Nhà nước ta xây dựng chiến
lược cán bộ, tạo nguồn lực cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
của từng địa phương. Vì vậy, có thể khẳng định rằng muốn nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thì cần phải có hệ thống chính
sách đối với cán bộ, công chức, viên chức phù hợp.
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là yếu tố rất quan trọng trong tạo
động lực cho cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu học tập vươn lên; chính
sách bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ cũng đóng vai trò phát huy trách
nhiệm, trình độ, năng lực, hiệu quả hoạt động của cán bộ, công chức, viên
chức... Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay, đòi hỏi cán bộ, công chức, viên chức phải có kiến thức tương ứng mới đủ
12


trình độ đáp ứng yêu cầu công việc; đồng thời phải có chế độ quản lý chặt chẽ
cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều cán bộ, công
chức, viên chức không muốn học tập nâng cao trình độ, không chịu phấn đấu
vươn lên, làm việc cầm chừng… Điều đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân từ chính sách cán bộ chưa thỏa đáng, chưa hợp lý.
Hiện nay, đời sống và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức còn
thấp, do đó, để họ yên tâm công tác, cần có chính sách đãi ngộ vật chất, động
viên tinh thần một cách hợp lý và thỏa đáng. Điều này cũng góp phần làm
trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, là giải pháp tích cực trong
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Tóm lại, xây dựng và thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ, công
chức, viên chức chính là việc làm nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức, đủ năng lực công tác, công tâm, tận tụy với
nhân dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

1.2.3. Tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên
chức
Tổ chức thực hiện chính sách công là toàn bộ quá trình hiện thực hóa
mục tiêu chính sách công, đảm bảo cho mục tiêu chính sách công đạt kết quả
trong thực tiễn.
Việc tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức
có vị trí đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách cán bộ, là bước hiện
thực hoá đưa chính sách cán bộ đi vào đời sống xã hội. Tổ chức thực hiện
chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức là một khâu trong hệ thống
thống nhất của chu trình chính sách cán bộ.
1.3. Quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc đối với việc đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về hệ thống chính trị
13


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị
và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện” [30, tr.84-85].
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” [30, tr.88-89].
Mục tiêu xây dựng xã hội ở nước ta hiện nay là: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ” [30, tr.70]; “Nhân dân
thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện” [30, tr.85]. Vì
vậy, hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo là công cụ thực hiện quyền làm chủ

của nhân dân lao động; bao gồm các hệ thống tổ chức có vị trí, vai trò khác
nhau, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm
đảm bảo quyền lực của nhân dân.
Hệ thống chính trị ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; là
một chỉnh thể thống nhất, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 5 đoàn thể
chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
1.3.2. Quan điểm của Đảng ta về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
trong hệ thống chính trị
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi giành được
chính quyền, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng hệ thống chính trịvững
14


mạnh, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu.
Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/05/2013 Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), về một số vấn đề tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở đã nêu mục tiêu: “Đổi
mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm xây dựng tổ
chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ ngày càng
cao, đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và có tiền lương, thu
nhập bảo đảm cuộc sống” [31, tr.114 ].
Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII nêu rõ quan điểm: “...gắn đổi mới tổ
chức bộ máy với đổi mới phương thức lãnh đạo, tinh giản biên chế và cải
cách chế độ tiền lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức; thu hút người có đức, có tài; ...” [33, tr.44].
Theo đó, việc kiện toàn tổ chức, sắp xếp, thu gọn đầu mối các tổ chức
trong hệ thống chính trị và các đơn vị hành chính phải gắn với tinh giản biên
chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;
đồng thời, có cơ chế, chính sách phù hợp trong quá trình sắp xếp. Kết hợp hài
hòa giữa các yếu tố: có kế thừa, đảm bảo ổn định và phải luôn đổi mới.
1.3.3. Chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với cán bộ, công chức,
viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị
Việc sắp xếp tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị là nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong
đó việc cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Do đó, cần phải có chính sách thật
tốt để tạo động lực trong việc thực hiện chiến lược cán bộ.
15


Kết luận của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X,
nêu rõ “Cải cách hệ thống chính sách, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, công
bằng trong thực hiện chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành, các địa
phương, các đối tượng cán bộ; gắn chính sách cán bộ trong từng khâu của
công tác cán bộ gắn trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lợi; khuyến khích cán
bộ công tác ở địa bàn khó khăn, ở cơ sở; ...” [29, tr.276].
Đại hội XII của Đảng khẳng định tầm quan trọng của công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Một trong những vấn đề chủ yếu
về công tác cán bộ trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng là: “Rà soát, sửa
đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, công chức theo hướng khuyến khích
cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công
vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng
lực, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Xây
dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài. [32, tr.19].

Nhiều chính sách được ban hành từ đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng,
đãi ngộ cán bộ, tạo động lực khuyến khích tài năng, thu hút nhân tài; chính
sách về tiền lương luôn được cải cách và ngày càng phát huy hiệu quả rõ rệt.
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII, tiếp tục chỉ đạo
cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực
lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp, góp phần xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng,
chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đời sống của người hưởng lương và gia
đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Triển khai, thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước
đã ban hành nhiều chính sách thông qua các văn bản Luật, Nghị định, Thông
tư và các văn bản về các chế định trong việc thực hiện chế độ tiền lương, phụ
16


cấp, đãi ngộ, thu hút, về hưu trước tuổi ...; các chính sách trong công tác cán
bộ về tuyển dụng, quy hoạch, quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá
khen thưởng, kỷ luật ... đối với cán bộ, công chức viên chức.
1.4. Những vấn đề cơ bản của việc thực hiện chính sách đối với cán
bộ, công chức, viên chức
1.4.1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách đối với
cán bộ, công chức, viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ
thống chính trị
Hoạch định được chính sách đúng là rất quan trọng, nhưng thực hiện
đúng chính sách còn quan trọng hơn, vì nó thể hiện chất lượng, hiệu quả của
chính sách theo mục tiêu đề ra. Thực hiện chính sách là một khâu của chu
trình chính sách, nhưng đó là khâu trung tâm kết nối các khâu trong chu trình
chính sách; có vai trò rất quan trọng, là khâu hiện thực hoá mục tiêu chính
sách trong thực tiễn. Việc phân tích, đánh giá chính sách (mức độ tốt, xấu) chỉ

có thể đầy đủ, thấy rõ hiệu quả sau khi thực hiện chính sách.
Tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức
trong quá trình đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị sẽ
giúp bổ sung hoàn thiện chính sách. Đây là một quá trình phức tạp, có nhiều
vấn đề thực tiễn đặt ra cần phải giải quyết, các yếu tố tác động có thể thúc đẩy
hoặc cản trở việc thực thi chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức trong quá
trình đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Điều này thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, việc thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên
chức có vai trò chuyển hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đối
với cán bộ, công chức, viên chức thành hiện thực. Xuất phát từ các vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành các chính sách đãi ngộ
17


đối với cán bộ, công chức, viên chức, qua thực hiện đã tiếp tục bổ sung giải
pháp cho mục tiêu chính sách ngày càng hiệu quả hơn.
Thứ hai, nếu chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức được thực
hiện tốt sẽ tạo động lực tích cực cho cán bộ, công chức, viên chức nhận thức
rõ hơn về trách nhiệm của mình, không ngừng phấn đấu học tập, lao động,
sáng tạo, phát huy khả năng, trí tuệ để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
tích cực phục vụ nhân dân. Ngược lại, sẽ tác động tiêu cực, làm hạn chế động
lực phấn đấu của cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ ba, thông qua việc thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức,
viên chức khi đổi mới, sắp xếp tổ chức trong hệ thống chính trị, các nhà hoạch
định chính sách có thể phát hiện ra những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực
hiện, từ đó có chính sách tốt hơn trong việc tinh giản biên chế, cơ cấu lại, sắp
xếp, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phù hợp, nhưng vẫn đảm bảo
được quyền lợi vật chất, tinh thần cho cán bộ, công chức, viên chức.

Thứ tư, kết quả quá trình thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức,
viên chức là cơ sở quan trọng để tiếp tục nghiên cứu bổ sung hoàn thiện chính
sách này. Qua kết quả thực thi chính sách, các chủ thể phân tích và đánh giá chính
sách sẽ xem xét từ nhiều vấn đề, từ đó phát hiện các ưu, khuyết điểm của chính
sách, tác động trở lại hoạt động hoạch định chính sách và thực thi chính sách, là
cơ sở để tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, đáp
ứng được mục tiêu đổi mới, sắp xếp tổ chức trong hệ thống chính trị.
1.4.2. Chủ thể ban hành chính sách đối với cán bộ, công chức, viên
chức
- Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước thông qua các cơ quan
quyền lực của Nhà nước ở trung ương và ở địa phương.
Chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức là một trong những
chính sách công của Nhà nước ta, do đó, chủ thể ban hành chính sách là các
18


cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nội vụ.
Ngoài ra, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các đơn vị sự
nghiệp công lập cũng ban hành các văn bản phục vụ cho hoạt động quản lý
của đơn vị mình. Bộ Nội vụ là cơ quan đóng vai trò chính trong việc tham
mưu, tổng hợp và trực tiếp xây dựng chính sách cán bộ, công chức, viên chức.
Nghị định 58/2014/NĐ-CP, ngày 16/6/2014 của Chính phủ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu, tổ chức của Bộ Nội vụ, theo đó: Hướng
dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, chương trình xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; và việc thực hiện các quy định của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời,
Bộ Nội vụ cũng có nhiệm vụ và quyền hạn trong lĩnh vực quản lý công chức
được quy định tại Khoản 2 Điều 48 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày
15/3/2010 của Chính phủ, về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
- Chủ thể tham gia thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên

chức bao gồm:
+ Chủ thể trực tiếp là các cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thực
hiện chính sách cán bộ, công chức, viên chức (bao gồm những cơ quan, đơn
vị chủ quản quản lý cán bộ, công chức) và các đối tượng thụ hưởng của chính
sách là cán bộ, công chức, viên chức.
+ Chủ thể gián tiếp là các cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm phối
hợp trong việc thực hiện chính sách cán bộ, công chức, viên chức, bao gồm
các cơ quan cung cấp nguồn lực (Bộ Tài chính, Sở Tài chính, Phòng Tài
chính...) và các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về cán bộ, công chức,
viên chức (Bộ Nội vụ, Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ...) và các cơ quan như Ban
Tổ chức cấp ủy các cấp, cơ quan làm công tác thi đua - khen thưởng ...
Như vậy, có thể thấy rằng chủ thể tham gia thực hiện chính sách cán
bộ, công chức, viên chức ở nước ta khá đa dạng, có sự liên quan, phối hợp
19


×