Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực hiện chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.57 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THU HUYỀN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THU HUYỀN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN THỊ AN

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách phát triển văn hóa cơ
sở trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố
gắng, tìm tòi và nghiên cứu của riêng bản thân tôi, cùng với sự hướng dẫn tận
tình của cô giáo PGS. TS. Trần Thị An. Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu
này chưa hề được công bố trong bất cứ công trình nào. Nếu có gì sai sót tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 02 năm 2019
Học viên

Trần Thị Thu Huyền


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA CƠ SỞ ........................................................................... 10
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách công ........................................... 10
1.2. Các lĩnh vực của đời sống văn hóa cơ sở ............................................. 11
1.3. Chu trình chính sách phát triển văn hóa cơ sở ..................................... 22
Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN ............................ 30
2.1. Khái quát về văn hóa cở sở tỉnh Lạng Sơn .......................................... 30
2.2. Công tác ban hành chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn ..................................................................................................... 33
2.3. Kết quả thực thi chính sách phát triển văn hóa cở sở trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn ..................................................................................................... 37
Chương 3 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THỰC THI CHÍNH
SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG

SƠN ................................................................................................................. 66
3.1. Quan điểm hoàn thiện chính sách xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn ................................................................................. 66
3.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn ................................................................................. 68
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách xây dựng và phát triển đời sống
văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ................................................... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Từ và cụm từ được viết tắt

ANTT

An ninh trật tự

BCĐ

Ban chỉ đạo

BCH

Ban chấp hành

CQĐVVH


Cơ quan, đơn vị văn hóa

GĐVH

Gia đình văn hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

LLVT

Lực lượng vũ trang

LVH

Làng văn hóa

TD ĐK XD ĐSVH

Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa

TDTT

Thể dục, thể thao

UB MTTQ

Ủy ban Mặt trận tổ quốc


UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT

Văn hóa thông tin

VHTT&DL

Văn hóa, thể thao và Du lịch


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Kết quả xây dựng Gia đình văn hóa giai đoạn 2013 - 2018 ........... 43
Bảng 2.2: Kết quả xây dựng Làng văn hóa giai đoạn 2013 - 2018: ............... 44
Bảng 2.3: Kết quả xây dựng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa
giai đoạn 2013 - 2018 ...................................................................................... 45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn quan tâm tới lĩnh vực văn hóa, sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ Đảng ta đã có bản Đề cương
văn hóa 1943, trong đó Đảng xác định 3 nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học
hóa và đại chúng hóa với mục tiêu xây dựng một nền văn hóa cho toàn thể
nhân dân. Bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, mục tiêu đó vẫn được giữ vững, phát huy và một trong những hoạt

động quan trọng để đạt đến mục tiêu đó là công tác xây dựng và phát triển
văn hóa ở cơ sở. Nội dung này đã luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
thể hiện trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các văn bản quản lý của Nhà
nước. Đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5 Ban chấp hành Trung ương khóa
VIII đảng ta đã đề ra chiến lược văn hóa cho cách mạng Việt Nam, đề ra
nhiệm vụ trọng tâm để: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”.
Xây dựng và phát triển văn hóa cơ sở là một bộ phận của đời sống xã
hội, bao gồm tổng thể các hoạt động sống nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất,
tinh thần của con người, hướng con người tới những giá trị chân - thiện - mỹ.
Trên thực tế các hoạt động văn hóa cơ sở đã tồn tại và đang diễn ra cùng với
sự tồn tại của con người trong đời sống văn hóa hàng ngày, vì vậy phát triển
văn hóa cơ sở là góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tất cả vì
con người, coi con người là động lực nội sinh của sự phát triển xã hội.
Quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện sự chỉ đạo của các ngành Trung ương
trên lĩnh vực văn hóa, trong những năm qua công tác xây dựng và phát triển
1


đời sống văn hóa cơ sở mà trọng tâm là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” trên phạm vi cả nước đã thu được những kết quả tốt
đẹp. Đời sống văn hóa của người dân ngày càng được nâng cao, tinh thần
đoàn kết được phát huy, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo văn
hóa cho người dân, phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ và đạt
được nhiều kết quả thiết thực.
Tuy nhiên trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thị trường
những năm gần đây, nền văn hóa của nước ta chịu những tác động đa chiều,
trong đó có những ảnh hưởng tiêu cực như sự du nhập văn hóa phẩm độc hại,
ảnh hưởng lối sống thực dụng của phương tây vào cuộc sống nhất là giới trẻ

bị ảnh hưởng lối sống thực dụng, đang làm băng hoại giá trị đạo đức con
người, nhiều giá trị tinh thần bị đảo lộn, xuống cấp. Tình hình đó đặt ra cho
các cấp các ngành quản lý văn hóa nói riêng và toàn xã hội nói chung nhiều
băn khoăn, trăn trở. Việc đặt công tác phát triển “văn hóa ngang bằng với
phát triển kinh tế” như Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII chỉ rõ
đang là yêu cầu cần thiết, để người dân có điều kiện trở thành chủ thể sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa đích thực, lành mạnh.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, trong những năm qua công
tác xây dựng văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã đạt được nhiều kết
quả đáng khích lệ, cụ thể là: xây dựng con người với những đức tính tốt đẹp,
giá trị văn hóa truyền thống trong gia đình và cộng đồng được phát huy, ý
thức của người dân tốt hơn, phong trào văn hóa được phát triển sâu rộng, lễ
hội truyền thống được duy trì, công tác bảo tồn di sản văn hóa dân tộc được
quan tâm, quan hệ hợp tác hữu nghị quốc tế về văn hóa được tăng cường, các
thiết chế văn hóa được củng cố, công tác xã hội hóa văn hóa được đẩy mạnh.
Tuy nhiên bên cạnh đó Lạng Sơn cũng còn gặp không ít khó khăn do những
hạn chế chủ quan và những tác động khách quan, do vậy việc tiếp tục nghiên
2


cứu tìm ra những giải pháp trong chỉ đạo, làm rõ những vướng mắc về mặt
nhận thức lý luận và những bất cập trong hoạt động thực tiễn đang là vấn đề
cần giải quyết hiện nay.
Từ thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa hiện nay của
tỉnh Lạng Sơn, với mong muốn vận dụng những kiến thức học tập vào thực
tiễn tại cơ sở, tôi chọn đề tài: “Thực hiện chính sách phát triển văn hóa cơ
sở trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu xây dựng phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn cả nước
không phải là một vấn đề mới. Trong những năm vừa qua Đảng ta đã rất quan

tâm và ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết nhằm phát triển đời sống văn hóa
cơ sở, đồng thời đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các cơ quan
chuyên môn đã nghiên cứu và tiếp cận theo từng lĩnh vực văn hóa bằng nhiều
cách với những cấp độ khác nhau:
- Trong bài “Phát triển văn hóa Việt Nam theo tinh thần Đại hội XII
của Đảng” đăng trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tác giả Đỗ Hồng Lâm đã
tập trung bàn về các nội dung phát triển văn hóa được nêu trong các văn kiện
của Đảng trước và trong Đại hội XII của Đảng. Bài viết đã nhấn mạnh tư
tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, để tư tưởng chỉ đạo phát triển
văn hóa của Đảng đi vào cuộc sống cần tích cực quán triệt, thống nhất nhận
thức, đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện. (Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, số ra thứ sáu ngày 10/02/2017).[22]
- Trong bài “Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam” của tác
giả Đinh Xuân Dũng đăng trên báo Nhân dân đã viết: phát triển văn hóa, xây
dựng con người là nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội, thể hiện trình độ
3


chung của phát triển đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị,
sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống, tạo điều kiện để văn hóa phát triển đa
dạng, phong phú, gắn bó mật thiết với đời sống xã hội (Báo Nhân dân, số ra
thứ ba, ngày 05/01/2016). [15]
- Bài viết “Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam” của tác
giả Trần Thùy Linh - Đặng Kim Dung đăng trên Tạp chí Văn hóa - Nghệ
thuật viết: Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, văn hóa chính là nguồn lực
nội sinh của một dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam vươn tới những giá trị mới
của văn hóa đương đại, cùng với việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; Bên
cạnh đó để có sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững cần có yếu tố con

người, do vậy Đảng ta luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình
phát triển, là đối tượng, mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
(Tạp chí văn hóa Nghệ thuật số 401 ra thứ năm ngày 09/11/2017). [23]
- Bài viết “ Tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở” của tác giả Hà Văn Tăng đã phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về xây dựng văn hóa cơ sở, nêu ra thực trạng thực hiện trong công
tác xây dựng văn hóa cơ sở nước ta. (Tạp chí Cộng sản ngày 26/02/2007).
[31]
- Trong bài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng đời sống
văn hóa cơ sở”, của tác giả Nguyễn Văn Đại cũng đã bàn về các giải pháp
nâng cao chất lượng phong trào văn hóa cơ sở, trong đó, ông nhấn mạnh đến
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và việc đẩy mạnh
thực hiện mục tiêu chương trình nông thôn mới ở cơ sở. ( website Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa) [16].
- Bài viết “Nâng cao chất lượng xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của tác giả
Trần Minh Chính viết: “Công tác tổ chức, quản lý các hoạt động văn hoá cơ
4


sở và phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã đáp ứng
được nguyện vọng của nhân dân. Các hoạt động văn hoá cơ sở đã thực sự
có chuyển biến tích cực làm cho văn hoá thấm sâu vào mỗi gia đình, cộng
đồng dân cư, tạo nên sự chuyển biến sâu sắc và trở thành thước đo giá trị
về chất lượng cuộc sống, về sự phát triển nhân cách con người, về nét đẹp
trong mỗi gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; góp phần xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh, ổn định, tạo đà cho sự gia tăng phát triển kinh tế
ở mỗi địa phương”. (website của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) [14].
- Bài viết “Văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống và hiện đại”
của tác giả Lê Thị Bích Hồng đã nêu cách tiếp cận về văn hóa, ứng xử văn

hóa truyền thống trong gia đình Việt Nam, Văn hóa ứng xử trong gia đình
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế Quốc tế, văn hóa
ứng xử đã có sự thay đổi so với ngày xưa, nhưng những khuôn phép gia đình
truyền thống vẫn còn nguyên giá trị, là nét đẹp lâu đời tạo nên nề nếp gia
phong trong văn hóa ứng xử. (Tài liệu tập huấn BCĐ phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tỉnh Lạng Sơn năm 2017). [30]
Trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã có nhiều đề tài khoa học, đề án triển
khai thực hiện các chính sách văn hóa, các hoạt động văn hóa, nhiều bài viết
đăng trên các phương tiện truyền thông về văn hóa của tỉnh, đưa tin về việc
thực hiện phong trào văn hóa cơ sở:
- Đề án “Xây dựng và phát triển các thiết chế văn hóa từ 2003 -2010
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn”. Dự án đầu tư mua sắm trang thiết bị cho thiết
chế văn hóa cơ sở năm 2010…
- Bài viết “Lạng Sơn chăm lo bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc” của
tác giả Thanh Huyền đã viết: Trong đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc,
mỗi dân tộc đều có một kho tàng di sản văn hóa truyền thống phong phú và
đặc sắc riêng, việc bản tồn và phát huy gia trị di sản văn hóa các dân tộc đã
5


tạo được nét sinh hoạt đa dạng, độc đáo trong đời sống nhân dân (Tạp chí
Tuyên giáo số ra thứ năm ngày 18/7/2013).[21]
Các bài viết về xây dựng và phát triển văn hóa cơ sở đã đề cập đến
nhiều nội dung hoạt động trên các lĩnh vực văn hóa cơ sở, song để có một
cách nhìn tổng quan về thực hiện chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn đến nay chưa có một công trình nghiên cứu về lý luận và
thực tiễn đối với chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đã có những gợi ý quý báu
cho tác giả trong việc thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt mục tiêu nghiên cứu thực trạng ban hành và thực thi chính
sách phát triển văn hóa cơ sở của tỉnh Lạng Sơn, vai trò của nó đối với sự
phát triển kinh tế xã hội địa phương, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu để
đem lại hiệu quả cao nhất cho việc thực hiện xây dựng và phát triển đời sống
văn hóa cơ sở của tỉnh Lạng Sơn nói riêng, cả nước nói chung trong thời gian
tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện chính sách phát triển văn
hóa cơ sở.
- Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển văn hóa
cơ sở ở Lạng Sơn trong những năm gần đây.
- Nghiên cứu thực trạng và các giải pháp, công cụ của chính sách phát
triển văn hóa cơ sở hiện nay từ thực tế tại tỉnh Lạng Sơn phù hợp với điều
kiện cụ thể trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
6


Chính sách phát triển văn hóa cơ sở, cụ thể là giải pháp và công cụ
chính sách.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Theo website của Bộ VHTTDL thì Cục Văn hóa Cơ sở có chức năng
sau: Cục Văn hóa cơ sở là tổ chức thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có
chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực
văn hóa cơ sở bao gồm:
- Thiết chế văn hóa cơ sở,
- Nếp sống văn hóa,
- Nghệ thuật quần chúng,

- Tuyên truyền cổ động,
- Quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực văn hóa cơ sở.
Trong Luận văn này nội dung nghiên cứu sẽ tập trung về việc ban hành
và thực hiện chính sách về các hoạt động được quy định nói trên tại tỉnh Lạng
Sơn trong 7 năm (2012-2018), tính từ sau nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng cách tiếp cận chính sách công và tiếp cận liên ngành.
Cách tiếp cận chính sách công sẽ nhìn nhận chính sách văn hóa cơ sở như một
chu trình. Cách tiếp cận liên ngành là sử dụng các cách tiếp cận văn hóa học,
xã hội học để phân tích các khía cạnh của thực thi chính sách văn hóa cơ sở
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích chính sách công theo chu
trình chính sách, từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính

7


sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách, so sánh dựa trên kết quả
thực tế từ đó dự báo xu hướng phát triển đề ra chính sách trong giai đoạn tới.
Luận văn sử dụng các thao tác: thống kê, phân tích và tổng hợp, so sánh
để thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra Cụ thể như sau:
- Phân tích: Được sử dụng nhiều trong luận văn như việc phân tích thực
trạng, các yếu tố môi trường bên trong và bên ngoài, phân tích các tác động
đến cơ hội và thách thức của chính sách xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Thống kê: Sử dụng nhiều các số liệu thống kê trong luận văn, đó thực
chất là việc liệt kê, tính toán đối tượng để có kết quả biểu thị bằng con số
nhằm làm nổi bật đối tượng nghiên cứu, cũng như sự cần thiết và tính thực

tiễn cao của đề tài nghiên cứu.
- Thu thập thông tin: Được sử dụng để thu thập và khai thác thông tin
từ các nguồn có sẵn liên quan đền đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện,
tài liệu, Nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, Bộ, ban, ngành ở Trung
ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê
của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức, cá nhân liên quan trực
tiếp, gián tiếp tới vấn đề chính sách xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nước
ta nói chung và chính sách phát triển văn hóa cơ sở từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn
nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng các lý thuyết về chính sách công để nghiên cứu thực
tiễn, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách. Kết quả đánh giá
nghiên cứu làm sáng tỏ, minh chứng cho các lý thuyết liên quan đến chính
sách công, từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp chính sách
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách đã ban hành, cung cấp những
nghiên cứu, tư liệu thực tế tại Lạng Sơn qua đó góp phần làm phong phú thêm
8


hệ thống lý luận của khoa học chính sách công. Kết quả của Luận văn sẽ có
giá trị tham khảo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc thiết lập hệ
thống quản lý và thực thi chính sách công, chính sách phát triển văn hóa cơ
sở.
Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực tiễn nghiên cứu việc ban hành và thực thi chính sách phát
triển văn hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, luận văn sẽ chỉ ra được những
bất cập trong việc tổ chức thực hiện chính sách ở một địa phương còn khó
khăn trong việc phát triển kinh tế - xã hội làm kinh nghiệm cho các nhà quản
lý văn hóa ở các địa phương khác tham khảo. Bên cạnh đó, Luận văn góp

phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành, đoàn
thể của tỉnh Lạng Sơn trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách một
cách hiệu quả trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được thể hiện qua 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách phát triển văn hóa cơ
sở.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Nâng cao hiệu quả của việc thực thi chính sách phát triển văn
hóa cơ sở trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CƠ SỞ
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách công
Trong cuốn sách Khoa học chính trị, Michael G.Roskin định nghĩa
"Chính trị học là khoa học về đấu tranh và cạnh tranh quyền lực chính trị".
Trong cuộc đấu tranh đó, công cụ chính sách đóng một vai trò hết sức quyết
định tới sự thành bại của đường lối chính trị. Từ đó, chúng ta có thể hiểu:
"Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó
của chính phủ. Nó bao gồm các mục tiêu kinh tế - văn hóa - xã hội - môi
trường mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu
đó”.
Theo từ điển tiếng Việt (1988) “Chính sách là những sách lược và kế
hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị và

tình hình thức tế mà đề ra” hay “Chính sách là các chủ trương và các biện
pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội".
[20]
Với các cách tiếp cận trên đây, có thể đi đến khái niệm tổng quát về
chính sách như sau: Chính sách là những hành động ứng xử của chủ thể với
các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu
nhất định.
Chính sách công là một trong những công cụ quan trọng của quản lý
nhà nước, thông qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu
của Nhà nước được hiện thực hóa. Chủ thể ban hành chính sách công chính là
Nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực và các cơ quan thực hiện chức
năng quản lý nhà nước. Cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về chính sách

10


công được các học giả đưa ra. Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng
tất cả các định nghĩa đều thống nhất ở hai điểm cơ bản, đó là chính sách công
bắt nguồn từ các quyết định của Nhà nước và dùng để giải quyết những vấn
đề chung vì lợi ích của đời sống cộng đồng.
Thomas Dye đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công là:
“bất kỳ những gì mà nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm”[18]. Theo
William Jenkins chính sách công là: “Một tập hợp các quyết định có liên
quan với nhau được ban hành bởi một nhà hoạt động chính trị hoặc một
nhóm các nhà hoạt động chính trị liên quan đến lựa chọn các mục tiêu và các
phương tiện để đạt mục tiêu trong một tình huống cụ thể thuộc phạm vi thẩm
quyền của họ”[18].
Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể đi đến một khái niệm chung về
chính sách công như sau: “Chính sách công là những quyết định của chủ thể
được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của

cộng đồng” ”[18].
1.2. Các lĩnh vực của đời sống văn hóa cơ sở
Như đã nói ở trên, lĩnh vực văn hóa cơ sở bao gồm các nội dung sau: Thiết
chế văn hóa cơ sở, Nếp sống văn hóa, Nghệ thuật quần chúng, Tuyên truyền cổ
động, Quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực văn hóa cơ sở. Trong
mục này, luận văn sẽ giới thiệu nội dung của các khái niệm cơ bản trên.
1.2.1. Khái niệm đời sống văn hóa cơ sở
- Khái niệm "Văn hoá"
Cho đến nay thuật ngữ "văn hoá" vẫn được coi là một thuật ngữ khó xác
định và có nội dung rất phong phú. Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác
nhau các nhà khoa học đưa ra rất nhiều định nghĩa về văn hoá. Trong các khái
niệm, định nghĩa về văn hoá có 2 khái niệm, định nghĩa quan trọng sau:

11


Theo Ông Federico Mayor (nguyên Thư ký Tổ chức UNESCO) trong lễ
phát động Thập kỷ quốc tế phát triển văn hoá (1988) đã đưa ra định nghĩa:
“Văn hoá phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của
cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ và cũng như đang diễn ra trong
hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ, lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình”. (Báo Người đưa tin UNESCO số 10- 1994 trong bài Ban đầu
và cuối cùng là văn hóa).
Định nghĩa Văn hóa của Hồ Chí Minh thường được các nhà nghiên cứu
trích dẫn. Bác Hồ đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức

sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. [26]
Với ý nghĩa đó, văn hoá có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con
người, dù đó là hoạt động sản xuất, tinh thần hay trong quan hệ giao tiếp ứng
xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên...
- Khái niệm “Đời sống văn hóa”
Đời sống văn hóa là toàn thể các hoạt động sống của con người nhằm
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và phát triển của con người, đó là sự tích lũy, sáng
tạo trong quá trình lao động sản xuất, trong cuộc sống hàng ngày, trong mỗi
con người, trong mỗi gia đình và cộng đồng, nhằm định hướng cho lối sống,
đạo đức trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với
môi trường tự nhiên, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ và thúc
đẩy sự tiến bộ của xã hội.
12


- Khái niệm “Đơn vị cơ sở”
Đơn vị cơ sở là một kiểu tổ chức cơ bản của xã hội, là địa bàn mà
những cộng đồng dân cư liên kết với nhau trong các sinh hoạt về đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của con người diễn ra trong đời sống hằng ngày.
Đơn vị cơ sở có hai đặc điểm nhận biết chính là: địa bàn sống ổn định và có
tổ chức hành chính ổn định. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
V, đơn vị cơ sở được nhắc đến là: làng, xã, phường ấp, nhà máy, công trường,
nông trường, đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, cơ quan trường
học, bệnh viện, cửa hàng và cộng đồng xã hội tương đương. Đơn vị cơ sở là
nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội là nơi thể hiện sự
lãnh đạo, chỉ đạo mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước
và quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, đây cũng là nơi để nhân dân
xây dựng đời sống văn hóa và hưởng thụ các giá trị văn hóa, sáng tạo ra
những văn hóa mới.

Vai trò của phát triển đời sống văn hoá cơ sở
Xây dựng và phát triển đời sống văn hoá cơ sở là một trong những chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta được đặt ra từ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ V (1981). Đây là một chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược
đối với sự nghiệp xây dựng văn hoá, lối sống và con người phù hợp với đòi
hỏi của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Văn kiện Đại hội
V Đảng ta đã nhấn mạnh: Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng văn hoá là
đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú
trọng xây dựng và phát triển đời sống văn hoá cơ sở. Văn kiện Hội nghị lần
thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCH
Trung ương khoá VIII, Văn kiện Đại hội XI và XII của Đảng ta nêu rõ: Phải
đảm bảo phần lớn cho đơn vị cơ sở đều có hoạt động văn hoá, nhân dân lao
động được đọc báo, nghe đài, xem phim, xem nghệ thuật. Đặc biệt chú ý đến
13


vùng cao và biên giới. Theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm,
cần củng cố và xây dựng các cơ sở ở cấp tỉnh và cấp huyện: Nhà văn hoá, thư
viện, rạp chiếu bóng, bảo tàng, triển lãm ở phường, xã hay cụm kinh tế, kỹ
thuật từng bước xây dựng cơ sở văn hoá tuỳ theo thực tế cơ sở.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và chủ trương của Nhà nước từ
sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương khoá XII (1993),
Bộ Văn hoá và Thông tin (nay là Bộ VHTT & DL) đã xây dựng 3 chương
trình quốc gia đó là: Bảo tồn tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá; chấn hưng
nền điện ảnh Việt Nam và xây dựng nền văn hoá cơ sở, trong đó chú trọng
vấn đề gia đình văn hóa, làng văn hoá, nếp sống văn minh đô thị. Điều đó
khẳng định thêm vai trò, vị trí quan trọng có ý nghĩa chiến lược lâu dài của
xây dựng đời sống văn hoá cơ sở đó là:
- Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trước hết là nhằm đáp ứng nhu cầu
văn hoá của nhân dân lao động, đồng thời thu hút đông đảo quần chúng tham

gia vào quá trình sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới.
- Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được coi như bước đi ban đầu của
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở là phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động trong hưởng thụ và sáng tạo ra các giá trị văn hoá mới, xây dựng
một lối sống văn minh, lịch sự, những thuần phong, mỹ tục tốt đẹp vừa đậm
đà bản sắc dân tộc vừa phù hợp tinh hoa văn hoá tiến bộ của nhân loại. Đấu
tranh chống những hiện tượng và hành vi thô bạo, lai căng, phản văn hoá, phi
đạo đức.

14


1.2.2. Thiết chế văn hóa cơ sở
Thiết chế văn hóa là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố: cơ sở
vật chất, bộ máy tổ chức, hệ thống biện pháp hoạt động và kinh phí hoạt động
cho các thiết chế đó”. Chủ trương của Đảng ta khẳng định, văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội. Vì vậy, việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong quá trình phát
triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Thiết chế văn hóa đóng một vai trò quan trọng,
là nơi triển khai những thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước đến với người dân; là cầu nối trực tiếp giữa đảng
bộ, chính quyền các cấp đến với quần chúng nhân dân.
Trong những năm qua, hệ thống thiết chế văn hóa các cấp trên cả nước
được quan tâm đầu tư và đã có những chuyển biến tích cực, trở thành các
trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, bồi dưỡng nghiệp vụ, hạt nhân cho
phong trào văn hóa, thể thao ở cơ sở; là địa chỉ thu hút đông đảo nhân dân đến
vui chơi, giải trí, hưởng thụ, sáng tạo văn hóa, rèn luyện thể lực, tuyên truyền,

phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Thiết chế văn hóa là một chỉnh thể hội tụ đầy đủ 4 yếu tố: cơ sở vật chất, bộ
máy tổ chức, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí. Xây dựng nội dung, tổ chức
hoạt động, phương thức quản lý hoạt động như thế nào để các thiết chế văn
hóa có thể phát huy tốt vai trò, ý nghĩa, làm phong phú thêm đời sống văn hóa
tinh thần, giữ gìn tốt hơn những giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa
văn hóa các dân tộc khác, đang là các vấn đề cần quan tâm của các cấp, các
ngành đối với thiết chế văn hóa ở nước ta hiện nay.
1.2.3. Nếp sống văn hóa
Nếp sống là những hành vi ứng xử của con người đã được lặp đi, lặp lại
nhiều lần thành nếp, thành thói quen, thành phong tục được xã hội công nhận.
15


Nếp sống là mặt ổn định của lối sống, nhờ có nếp sống mà xã hội và con
người không phải bắt đầu lại những quá trình lịch sử đã qua, nhờ có nếp sống
mà những kinh nghiệm quý báu trong lối sống của xã hội và con người được
giữ lại và phát triển. Nếp sống bao gồm những cách thức, những quy ước đã
thành thói quen, tập quán trong sản xuất trong sinh hoạt hàng ngày, cũng như
đã trở thành phong tục trong tổ chức đời sống xã hội.
Phạm vi nội dung của công tác xây dựng nếp sống văn hoá ở cơ sở tập
trung vào 3 vấn đề Nếp sống cá nhân; Nếp sống gia đình; Nếp sống xã hội. Ba
vấn đề trên liên quan chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng qua lại trong một thể
thống nhất.
Nếp sống cá nhân: Là lối sống của từng thành viên tác động đến lối
sống của gia đình và ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống của xã hội. Nếp sống
văn hoá của mỗi con người biểu hiện trong lao động sáng tạo, học tập và rèn
luyện, trong đạo đức và nhân cách, giao tiếp và ứng xử… Xây dựng nếp sống
cá nhân là thái độ, hành vi, cách ăn mặc, nói năng, phép ứng xử với mọi
người, kỷ luật lao động, ý thức chấp hành pháp luật, ý thức đối với cộng đồng

và đối với các thành viên gia đình (chăm sóc giáo dục con cái, nuôi dưỡng
cha mẹ, chăm sóc người cao tuổi), các mối quan hệ khác như bạn bè, hàng
xóm…
Nếp sống gia đình: Là cách thức tổ chức cuộc sống, là đặc điểm văn
hóa của gia đình, mỗi gia đình có một quan điểm về giá trị khác nhau, trên cơ
sở đó mà vận hành đời sống gia đình theo các cách thức khác nhau, qua đó
nếp sống gia đình được hình thành. Nếp sống gia đình có thể hiểu là bao gồm:
cách ứng xử, cách tổ chức cuộc sống, mối quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình, trách nhiệm của gia đình với cộng đồng, xã hội…gia đình có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quan
tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội
16


tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là
gia đình...”. Xây dựng Gia đình có nếp sống văn hóa, phải khai thác những
yếu tố tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt Nam, đề cao trách nhiệm của
từng thành viên trong gia đình, cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp.
Nếp sống xã hội: Là nếp sống cộng đồng (nếp sống ở làng, bản, thôn
xóm, trường học, cơ quan, bệnh viện, xí nghiệp, khu phố, tổ dân phố...).
Trong nếp sống xã hội, phải đặc biệt chú ý đến nếp sống nơi công cộng. Nếp
sống văn minh nơi công cộng chính là bộ mặt của xã hội, xây dựng nếp sống
xã hội là xây dựng phong tục tập quán tốt đẹp; Xây dựng phong tục quán là
sưu tầm, khai thác các phong tục, tập quán tốt đẹp của từng địa phương, từng
dân tộc, đưa các phong tục tập quán truyền thống hòa nhập với cuộc sống
hiện đại đồng thời với việc cải tạo những tập quán lạc hậu, xây dựng tập quán
mới, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hiện đại, văn minh, tiến bộ, thực hiện
nếp sống văn minh tập trung vào việc cưới, việc tang, lễ hội, bài trừ mê tín dị
đoan và các tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh nơi công cộng là ý
thức giữ gìn đường làng, ngõ xóm, nhà văn hóa, chợ, di tích, danh lam thắng

cảnh… để thực hiện tốt nếp sống văn minh trong xã hội cần xây dựng cho
mỗi người có hiểu biết và tôn trọng luật pháp, các quy tắc trật tự, vệ sinh môi
trường, an toàn giao thông...
1.2.4. Nghệ thuật quần chúng
Nghệ thuật quần chúng cơ sở là tổ chức tự nguyện, đặc thù, chuyên
biểu diễn phục vụ, hoạt động theo sở thích; được thành lập theo quyết định
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương, chịu sự quản lý nhà
nước của ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch, sự hướng dẫn về chuyên môn
nghiệp vụ của Trung tâm Văn hóa - Thể thao cơ sở; hoạt động nghệ thuật
quần chúng cơ sở là nơi hội tụ các hạt nhân tiêu biểu xuất sắc trong việc giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, sáng tạo nghệ thuật, tiếp thu tinh hoa
17


văn hóa tiên tiến, xây dựng chương trình nghệ thuật, tổ chức tập luyện và biểu
diễn phục vụ các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và
hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Nghệ thuật quần chúng ở cơ sở là một trong những nhu cầu tất yếu của
nhân dân, hoạt động nghệ thuật quần chúng đa dạng về nội dung lẫn hình
thức, thể loại như : Ca múa nhạc, sân khấu, hội họa, thơ ca, hò vè, các câu lạc
bộ nghệ thuật, các nhóm sở thích yêu văn học nghệ thuật của nhiều lứa tuổi
thành phần tham gia .... Để công tác tổ chức quản lý hoạt động văn nghệ quần
chúng lành mạnh, bổ ích góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân,
là một nhiệm vụ quan trọng ngành văn hoá thông tin cơ sở, thông qua hoạt
động đó các cán bộ chuyên môn được học hỏi, trao đổi nhiều kiến thức xã hội
như kiến thức về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, biện pháp phòng
chống bạo lực gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội, tuyên truyền chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến mọi tầng lớp
nhân dân.
Lạng Sơn là tỉnh miền núi phía bắc của tổ quốc, có nhiều dân tộc thiểu

số cùng sinh sống, mỗi dân tộc, mỗi vùng đều có nét đặc thù của truyền thống
văn hoá, mang sắc thái và vẻ đẹp riêng, do đó hoạt động nghệ thuật quần
chúng đối với từng cơ sở, cũng cần có những hình thức tổ chức khác nhau để
phù hợp với tâm lý, tình cảm, bản sắc của nhân dân. Trong các ngày lễ tết, lễ
hội, lễ kỷ niệm của địa phương, người làm công tác văn hóa ở cơ sở cần tổ
chức các chương trình nghệ thuật gọn nhẹ, có nội dung sâu sắc, sát thực phục
vụ cho nhiệm vụ chính trị của địa phương, cần nghiên cứu dàn dựng các loại
hình nghệ thuật tuyên truyền sân khấu mà địa phương có truyền thống như:
hát then, đàn tính, hát shi, lượn... phối hợp với các chương trình ca múa nhạc,
thu hút quần chúng tham gia.

18


1.2.5. Tuyên truyền cổ động
Tuyên truyền, cổ động là hoạt động có mục đích của một chủ thể nhằm
truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những tri
thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm, cổ vũ đối
tượng hành động theo những định hướng do chủ thể tuyên truyền đặt ra.
Cổ động là thông qua những hình thức, công cụ riêng chủ yếu là các
biện pháp trực quan, tác động trực tiếp vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của
quần chúng nhân dân, lôi cuốn họ vào những hoạt động theo mục tiêu đã định
như tuyên truyền bằng pa nô, áp phích, khẩu hiệu, cổ động bầu cử...
Tuyên truyền cổ động là phương tiện quan trọng để phổ biến, truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những vấn đề thời
sự lớn của đất nước, của quốc tế và của địa phương; qua đó nâng cao nhận
thức chính trị tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, động viên mọi
người thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ.
Tuyên truyền cổ động là công cụ để định hướng tư tưởng, hướng dẫn

suy nghĩ và hành động của toàn xã hội. Củng cố niềm tin, giáo dục lý luận,
đạo đức lối sống, góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa mới, con người
mới xã hội chủ nghĩa. Góp phần tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân
dân, xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường sự đồng
thuận trong xã hội, đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn "Diễn biến hòa
bình" của các thế lực thù địch và bọn phản động, cơ hội.
Hình thức tuyên truyền, cổ động
Tuyên truyền miệng: là một hình thức đặc biệt của tuyên truyền, được
tiến hành thông qua sự giao tiếp trực tiếp giữa người tuyên truyền với đối
tượng tuyên truyền, chủ yếu bằng lời nói trực tiếp. Tuyên truyền miệng được

19


×