Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi – qua nghiên cứu trường hợp phường phú diễn, quận bắc từ liêm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (912.45 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ KIM DUNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAO TUỔI
Qua nghiên cứu trường hợp phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ KIM DUNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI
NGƯỜI CAO TUỔI
Qua nghiên cứu trường hợp phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Trần Thị Minh Thi


HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách bảo hiểm y
tế đối với người cao tuổi – Qua nghiên cứu trường hợp phường Phú Diễn,
quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Thị Minh Thi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Thị Kim Dung


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của hai năm học tập theo chương trình đào tạo Thạc
sỹ của Học viện Khoa học xã hội, chuyên ngành Chính sách công. Trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản
thân, tôi luôn nhận được sự quan tâm, chỉ bảo và giảng dạy của các quý thầy cô
trong và ngoài nhà trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo trong và ngoài Học viện
Khoa học xã hội đã động viên, hết lòng giúp đỡ, truyền đạt cho tôi những kiến
thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới cô giáo PGS.TS. Trần Thị Minh Thi – người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Khoa Chính sách công, các phòng ban trong nhà
trường đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn các Lãnh đạo, đồng nghiệp ở Viện Xã hội học đã tạo
điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.

Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cám ơn tới cán bộ phòng LĐ, TB & XH
phường Phú Diễn, cán bộ Trung tâm Y tế quận Bắc Từ Liêm, Lãnh đạo Hội
người cao tuổi và người cao tuổi phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành
phố Hà Nội đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong việc tìm hiểu một số thông tin
về người cao tuổi tại địa phương nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè thân thiết đã động
viên, khích lệ tinh thần và tạo mọ i điều kiện về thời gian cũng như vật chất
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian có hạn cũng như còn hạn chế về chuyên môn, nên luận văn
này không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của quý thầy cô để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng 02 năm 2019

Tác giả luận văn

Lê Thị Kim Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 ........................................................................................................ 13
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH .....................
13
BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI .................................... 13
1.1. Một số khái niệm ................................................................................... 13
1.2. Lý thuyết thực thi chính sách công ..................................................... 15
1.3. Đặc điểm về hoạt động chăm sóc người cao tuổi của gia đình và xã
hội20
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia và sử dụng thẻ BHYT

của NCT ......................................................................................................... 23
1.5. Kinh nghiệm bảo hiểm y tế của một số quốc gia châu Á................... 25
Chương 2 ........................................................................................................ 30
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI
VỚI NGƯỜI CAO TUỔI TẠI PHƯỜNG PHÚ DIỄN,............................. 30
QUẬN BẮC TỪ LIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................ 30
2.1. Đặc điểm của người cao tuổi ở phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội .......................................................................................... 30
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi
ở phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội .................... 40
2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách BHYT từ thực tiễn phường
Phú Diễn ......................................................................................................... 46
Chương 3 ........................................................................................................ 55
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI ........................ 55
3.1. Quan điểm, định hướng và giải pháp của cấp Ủy và chính quyền
phường Phú Diễn trong công tác thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế đối
với người cao tuổi ở phường ........................................................................ 55
3.2. Giải pháp chính sách bảo hiểm y tế và chăm sóc sức khỏe người cao
tuổi
57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 68
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 76


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
A
S
B

H
B
H
C
L
C
S
D
V
K
C
K
C
L
Đ
N
C
N
S

A
n
B
ảo
B
ảo
C
âu
C


D
ịc
K

K

L
ao
N
g
N



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Giới tính ........................................................................................ 34
Bảng 2.2: Độ tuổi ........................................................................................... 34
Bảng 2.3: Tương quan giữ giới tính và độ tuổi .......................................... 34
Bảng 2.4: Nghề nghiệp trước đây ................................................................ 35
Bảng 2.5: Tương quan giữa giới tính và nghề nghiệp trước đây.............. 36
Bảng 2.6: Nguồn thu nhập hiện nay ............................................................ 36
Bảng 2.7: Tương quan giữa giới tính và nguồn thu nhập hiện nay ......... 37
Bảng 2.8: Kinh tế hộ gia đình....................................................................... 38
Bảng 2.9: Tương quan giữa giới tính và kinh tế hộ gia đình .................... 38
Bảng 2.10: Số NCT có BHYT của Phường ................................................. 40
Bảng 2.11: NCT biết về chính sách Nhà nước cấp BHYT miễn phí cho
NCT từ đủ 80 tuổi trở lên ............................................................................. 41
Bảng 2.12: Tương quan giữa giới tính và NCT biết về chính sách NN cấp
BHYT miễn phí cho NCT từ đủ 80 tuổi trở lên ......................................... 42
Bảng 2.13: Số NCT có BHYT trong mẫu khảo sát .................................... 42

Bảng 2.14: Tương quan giữa giới tính và số NCT có BHYT trong mẫu
khảo sát........................................................................................................... 43
Bảng 2.15: Nơi đăng ký KCB BHYT........................................................... 43
Bảng 2.16: Lý do đăng ký nơi KCB BHYT ................................................ 44
Bảng 2.17: NCT sử dụng BHYT đi KCB .................................................... 44
Bảng 2.18: Tương quan giữa giới tính và mức độ sử dụng BHYT đi
KCB.. .............................................................................................................. 45
Bảng 2.19: Số lần sử dụng BHYT đi KCB của NCT ................................. 45
Bảng 2.20: Vì sao không sử dụng BHYT đi KCB ...................................... 45
Bảng 2.21: Đánh giá của NCT về chính sách BHYT hiện nay ................. 51
Bảng 2.22: Mong muốn của NCT về chính sách BHYT............................ 52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), trong giai đoạn 2015 - 2030,
số người cao tuổi (NCT) trên toàn cầu sẽ tăng lên 56% (từ 901 triệu lên 1,4 tỷ
người). Ở Việt Nam, số NCT chiếm 11,9% trong tổng dân số vào năm 2017.
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, đến năm 2038, nhóm dân số trên 60 tuổi
khoảng 21 triệu người, chiếm 20% tổng dân số. Đến năm 2050, cứ 4 người thì
có 1 người từ 60 tuổi trở lên (khoảng 27 triệu người). Cũng theo dự báo này,
từ năm 2038, dân số trong độ tuổi lao động bắt đầu giảm và sự biến động dân
số này sẽ tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế - xã hội nếu không có
chính sách thích ứng phù hợp.
Sức khỏe của NCT Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tuy tuổi thọ trung bình
cao (73 tuổi) nhưng gánh nặng bệnh tật kép của NCT Việt cũng cao. Nước ta
có khoảng 95% NCT có bệnh, chủ yếu là bệnh mãn tính không lây truyền.
Như vậy, trung bình 1 NCT Việt Nam mắc 3 bệnh. Gánh nặng bệnh tật kép
này sẽ đe dọa nguồn ngân sách vốn đã eo hẹp của Việt Nam. Trong khi đó, hệ
thống chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của

NCT. Năm 2014, cả nước chỉ có 49/63 tỉnh có khoa lão tại các bệnh viện tỉnh
và 60,8% NCT có bảo hiểm y tế [35]. Mặt khác, đời sống NCT tại Việt Nam
đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Chẳng hạn, tỷ lệ NCT thuộc hộ
nghèo cao (22,4% năm 2016). Số lượng NCT có lương hưu, bảo hiểm, trợ cấp
xã hội thấp cả về độ bao phủ và mức hưởng [50].
Về mặt chính sách, chăm sóc và trợ giúp NCT, Hiến pháp đầu tiên của
Việt Nam đã khẳng định: “Những người công dân già cả hoặc tàn tật thì được
giúp đỡ” (Điều 14); Hiến pháp năm 1992 tại Điều 67 cũng quy định rõ:
“Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và
xã hội giúp đỡ”. Đến năm 2009, Luật Người cao tuổi được Quốc hội khóa XII

1


thông qua ngày 23/11/2009, Luật đã quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của
người cao tuổi; trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc chăm
sóc, trợ giúp và phát huy vai trò người cao tuổi. Đến Hiến pháp năm 2013 tại
Điều 37 khẳng định: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn
trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” và Điều 59 cũng nêu rõ: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công
dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính
sách trợ giúp người cao tuổi…” [14, tr. 63].
Đối với NCT, chi phí điều trị thường cao gấp từ tám đến mười lần so với
người trẻ; mặc dù NCT chiếm hơn 10% số dân nhưng sử dụng tới hơn 50%
chi phí điều trị mỗi năm. Thực trạng đó cho thấy việc bao phủ BHYT toàn
dân là giải pháp hiệu quả để giải quyết vấn đề an sinh xã hội, chăm sóc sức
khỏe cho người dân nói chung và NCT hiện nay. […] Theo số liệu thống kê,
hiện nay tỷ lệ tham gia BHYT của NCT còn thấp, có khoảng 60% số NCT có
BHYT, thấp hơn khá nhiều so với tỷ lệ người tham gia BHYT. Như vậy, có
khoảng 40% NCT không có BHYT sẽ phải tự chi trả cho phí KCB ngày càng

gia tăng [61].
Xác định tham gia BHYT sẽ mang lại nhiều lợi ích cho NCT trong chăm
sóc sức khỏe, bớt đi rất nhiều khó khăn khi bị ốm đau bệnh tật nên Ban chấp
hành Trung ương đã đề ra mục tiêu đến năm 2030, 100% NCT có thẻ BHYT,
được quản lý sức khỏe, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình,
cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung [31].
BHYT là chính sách xã hội quan trọng hàng đầu, mang ý nghĩa nhân đạo
và có tính chia sẻ cộng đồng sâu sắc được Đảng và Nhà nước ta hết sức coi
trọng, luôn đề cao trong hệ thống chính sách ASXH. Chủ trương nhất quán
của Đảng và Nhà nước là xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, phát triển mạnh
hệ thống BHXH, BHYT, tiến tới BHYT toàn dân [36, tr. 94].


Đối với NCT phường Phú Diễn cũng không tránh khỏi quy luật tuổi già,
sức yếu, bệnh tật nhiều và nhu cầu được chăm sóc sức khỏe ngày một tăng.
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, nên tôi đã chọn đề tài “Thực
hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi – Qua nghiên cứu trường
hợp phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quá trình tổng quan tài liệu có liên quan đến tình hình nghiên cứu của đề
tài, tôi nhận thấy có nhiều tài liệu nghiên cứu về BHYT và NCT, những tài
liệu về BHYT thì thường nghiên cứu về nhiều đối tượng khác nhau, còn
nghiên cứu về BHYT đối với NCT chưa có nhiều. Vì vậy, trong phần tổng
quan này tôi chia thành 2 phần:
2.1. Các nghiên cứu chung về BHYT
“Bảo hiểm y tế trong hệ thống an sinh xã hội – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn hiện nay” (2005) và “Bảo hiểm y tế trong hệ thống an sinh xã hội:
Nhu cầu và khả năng mở rộng ở nông thôn” (2006) của Trịnh Hòa Bình, các
đề tài nghiên cứu về hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam nói chung và hoạt
động của chính sách bảo hiểm y tế nói riêng; nhu cầu và khả năng mở rộng

bảo hiểm y tế ở nông thôn, qua đó làm rõ được thực trạng an sinh xã hội trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
“Những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo hiểm y tế ở Việt Nam”
của Phòng Xã hội học dân số - Viện Xã hội học (2006), đề tài tìm hiểu thực
trạng tiếp cận bảo hiểm y tế ở nước ta, góp phần xây dựng cơ sở lý luận và
thực tiễn về bảo hiểm y tế cho những nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù, chỉ ra
một số định hướng chính sách nhằm nâng cao diện che phủ của chương trình
bảo hiểm y tế.
Trong nghiên cứu “Những yếu tố quyết định khả năng tiếp cận bảo
hiểm y tế ở Việt Nam”, kết quả phân tích cho thấy, trước mắt, người nghèo và


các nhóm thiệt thòi khác cần được đặc biệt quan tâm để có thể tiếp cận
BHYT. Gánh nặng bệnh tật và đặc biệt là nguồn lực eo hẹp mà người nghèo
hiện có không cho phép họ sử dụng các dịch vụ KCB có chất lượng đòi hỏi
chi trả lớn về tài chính. Chỉ có BHYT mới là phương thức lâu dài nhằm giải
quyết được vấn đề này [1].
“Tiến tới bao phủ Bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam: Đánh giá và giải
pháp” của Ngân hàng Thế giới (2014); Nghiên cứu này đi sâu vào nhiều trở
ngại mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình thực hiện mục tiêu bảo đảm
tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng và chi phí hợp lý cho người dân. Mục tiêu
là đánh giá việc thực hiện BHYT của Việt Nam và đưa ra các giải pháp tiến
tới mục tiêu bao phủ toàn dân với các quan điểm đóng góp cho tiến trình sửa
đổi bổ sung luật BHYT.
Đề tài cấp bộ “Nghiên cứu mức độ hài lòng của người dân Đồng bằng
sông Hồng đối với chính sách bảo hiểm y tế” của Trương Xuân Trường
(2016), khảo sát và phân tích mức độ hài lòng của người dân khu vực nông
thôn Đồng bằng sông Hồng về chính sách bảo hiểm y tế; ngoài ra còn đánh
giá mức độ hài lòng, phân tích các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng và
xây dựng hệ thống khuyến nghị thiết thực và có tính khả thi nhằm thúc đẩy

việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế.
Trong nghiên cứu “Khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ở Việt Nam” của Hà
Thị Minh Khương (2018) có đưa ra kết quả, đa số người dân đánh giá tích cực
về chất lượng, chi phí và hiệu quả khám chữa bệnh, điều kiện cơ sở vật chất
của các cơ sở y tế, thái độ phục vụ bệnh nhân và việc cấp phát thuốc. Nhưng
để đáp ứng nhu cầu KCB BHYT ngày càng cao và đa dạng của người dân, hệ
thống y tế, đặc biệt là các cơ sở y tế công lập, cần tiếp tục cải thiện quy trình
và thái độ phục vụ, cải thiện cơ sở vật chất và tăng cường trang thiết bị hiện
đại, giảm giá cả dịch vụ y tế cho phù hợp với mức sống của người dân ở Việt
Nam.


2.2. Các nghiên cứu về BHYT đối với NCT
Trong các nghiên cứu về BHYT đối với NCT, có những vấn đề chính
như: 1) Những vấn đề của chính sách BHYT đối với NCT; 2) Vấn đề chăm
sóc sức khỏe của NCT; 3) Tình hình tiếp cận BHYT của NCT; 4) Khám chữa
bệnh bằng BHYT của NCT.
2.2.1. Những vấn đề của chính sách BHYT đối với NCT
Theo đánh giá của Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, việc cấp thẻ
BHYT cho người từ 90 tuổi trở lên (diện nghèo) mang tính động viên tinh
thần cho NCT nhiều hơn là hiệu quả thực tế, bởi vì có tỷ lệ khá cao người trên
90 tuổi dù có BHYT hầu như không đến được bệnh viện khi ốm đau. Đó là
chưa kể gần 1/3 số người từ 90 tuổi trở lên chưa được cấp thẻ BHYT. [Trích
theo 42, tr. 23]
Theo Báo cáo của Tổng Cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế),
chất lượng cuộc sống của người cao tuổi nhất là ở vùng nông thôn còn rất khó
khăn, tỷ lệ người nghèo ở người cao tuổi là 23,5%. Chỉ có khoảng 60% người
cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế.
Hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật BHYT được ban hành
tương đối đầy đủ và đồng bộ với sự chỉ đạo và phối hợp thực hiện của các ban

ngành nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHYT. Ngân sách Nhà
nước hỗ trợ 100% mức phí BHYT cho người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên. Phạm
vi quyền lợi và mức hưởng của các đối tượng tham gia BHYT được quy định
khá rõ trong Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật. Quy định
về quyền lợi của người tham gia BHYT là điểm mới [7, tr. 27].
Tính đến năm 2014, khoảng 70% tổng dân số đã có BHYT. Riêng
người cao tuổi, tỷ lệ bao phủ là 74%, nghĩa là 26% người cao tuổi không có
bất kì loại BHYT nào. Tỷ lệ này có xu hướng tăng lên trong những năm gần
đây, khi Việt Nam tuyên bố mục tiêu BHYT toàn dân vào năm 2020. Câu hỏi


đặt ra là việc tham gia BHYT của người cao tuổi đã có tiến triển như thế nào
trong những năm qua và người cao tuổi sử dụng BHYT trong các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe như thế nào? [29].
Các hoạt động khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi có thẻ BHYT
được thực hiện hiệu quả, chất lượng phục vụ tốt hơn, nhiều địa phương có chủ
trương thành lập quỹ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, hoạt động chăm sóc
sức khỏe cho người cao tuổi có nhiều điểm mới: chăm sóc tại nhà, chăm sóc
tại cơ sở tập trung và chăm sóc dựa vào cộng đồng… [10].
Từ ngày 01/01/2016, NCT có cơ hội được KCB cao hơn do chính sách
mở thông tuyến KCB BHYT giữa tuyến xã và tuyến huyện trên cùng địa bàn
tỉnh và được thanh toán 100% chi phí KCB [17, tr. 197].
2.2.2. Vấn đề chăm sóc sức khỏe của NCT
Tuổi già đi đôi với sức khỏe giảm và bệnh tật tăng, khám bệnh và điều
trị trở nên thường xuyên hơn và quan trọng hơn đối với NCT. Khuôn mẫu về
cách thức khám bệnh thường xuyên ở người già được phân bố: Tỷ lệ cao nhất
rơi vào “Không đi khám bệnh, tự uống thuốc”, trong đó nông thôn và thị xã
cao hơn Hà Nội. Trên thực tế, người ta hay thực hiện luôn một kiểu “khám
bệnh” tại quầy hay người bán thuốc, cũng thường mua thuốc theo “kinh
nghiệm” [9, tr. 28].

Quan điểm về CSSK cho NCT được thể hiện xuyên suốt trong hệ thống
văn bản chính sách, pháp luật. Nhìn chung, các chính sách CSSK NCT hiện có
tập trung vào các điểm: NCT được CSSK ban đầu tại nơi cứ trú; cấp thẻ
BHYT; tổ chức mạng lưới tình nguyện viên CSSK cho NCT tại nhà; giảm
hoặc miễn viện phí cho bệnh nhân là NCT không có BHYT; NCT được CSSK
ban đầu, được ưu tiên khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế [25, tr. 119-128].
Người cao tuổi là một trong những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương
nhất trong xã hội. Nếu như công tác CSSK cho NCT không được quản trị tốt


bằng những cơ chế chính sách rõ ràng, cụ thể, minh bạch phù hợp với điều
kiện thực tế của Việt Nam và khả năng chi trả của NCT thì kết quả không chỉ
là làm giảm chất lượng dân số mà còn làm cho chất lượng cuộc sống của NCT
vốn đã hạn chế lại càng thêm khó khăn [48, tr. 4].
Có thể nêu vắn tắt về chính sách CSSK người cao tuổi theo tinh thần
nội dung cơ bản của Luật và các Thông tư như sau: Tại các cơ sở khám, chữa
bệnh: NCT (>80 tuổi) được ưu tiên khám trước người khác (trừ bệnh nhân
cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi và người khuyết tật nặng); được bố trí giường nằm
phù hợp khi điều trị nội trú; các bệnh viện (trừ bệnh viện Nhi khoa) có trách
nhiệm tổ chức khoa lão khoa hoặc dành một số giường để điều trị người bệnh
là người cao tuổi; Tại nơi cư trú: Trạm y tế xã có trách nhiệm lập hồ sơ quản
lý sức khỏe người cao tuổi, lập sổ theo dõi các bệnh mạn tính; tuyên truyền
phổ biến kiến thức CSSK cho người cao tuổi; tổ chức kiểm tra sức khoẻ định
kỳ, khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với chuyên môn cho người cao tuổi; cử
cán bộ y tế đến khám bệnh, chữa bệnh tại nơi cư trú đối với người cao tuổi cô
đơn bị bệnh nặng không thể đến cơ sở khám bệnh được... [6].
Đối với NCT, chăm sóc y tế là điều quan trọng nhất. Nhiệm vụ này cần
được Nhà nước, gia đình và xã hội cùng quan tâm thực hiện. Bệnh tật ở NCT
chủ yếu là bệnh không lây nhiễm và mạn tính nên chi phí chăm sóc sức khỏe
ngày càng tăng cao. BHYT là phương thức hỗ trợ tối ưu cho NCT trong quá

trình KCB. Đồng thời, cần quan tâm đến chính sách BHYT, dự báo chi phí
CSSK trong tương lai đối với NCT [17, tr.195], [21]; [35].
Mặc dù đa phần NCT có thể tự chăm sóc bản thân nhưng một bộ phận
NCT có nhu cầu được chăm sóc sức khỏe dài hạn. Vì vậy, cần tập trung ưu
tiên phát triển các loại dịch vụ chăm sóc dài hạn để đảm bảo nhu cầu của
NCT cũng như giúp họ sống vui, sống khỏe và tiếp tục đóng góp vào các hoạt
động kinh tế, xã hội của đất nước [50].


2.2.3. Tình hình tiếp cận BHYT của người cao tuổi
Theo báo cáo tổng quan của ngành y tế, số lượng NCT có thẻ BHYT
tăng từ 24,3% năm 2004 lên 63% năm 2006 [10, tr. 18].
Với các chính sách chăm sóc sức khỏe của Nhà nước hiện nay, có 72%
NCT ở địa phương được cấp thẻ BHYT để khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn 28% NCT chưa có thẻ BHYT để chăm sóc sức khỏe
khi có rủi ro về sức khỏe, bệnh tật xảy ra; trong số đó có không ít NCT đang
sống trong cảnh khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt [34, tr. 370].
Hiện nay tỷ lệ tham gia BHYT của NCT còn thấp, có khoảng 60% số
NCT có BHYT, thấp hơn khá nhiều so với tỷ lệ người tham gia BHYT. Như
vậy, có khoảng 40% NCT không có BHYT sẽ phải tự chi trả cho phí KCB
ngày càng gia tăng. Tỷ lệ NCT ở nhóm từ 60 đến 79 tuổi không thuộc hộ
nghèo, cận nghèo mua thẻ BHYT tự nguyện rất thấp chỉ chiếm từ 5% đến
10% [61].
Tính đến cuối năm 2018, cả nước có hơn 11,3 triệu người cao tuổi
(NCT), chiếm khoảng 11,95% dân số. Trong đó, hơn 10,8 triệu NCT có thẻ
bảo hiểm y tế (chiếm 96%) [33].
2.2.4. Khám chữa bệnh bằng BHYT của người cao tuổi
Còn tỷ lệ khá cao người tham gia BHYT chưa hài lòng với chất lượng
dịch vụ khám chữa bệnh hiện nay, nhất là đối tượng được cấp thẻ BHYT
miễn phí; còn có sự phân biệt về cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh giữa đối

tượng tham gia BHYT bắt buộc với đối tượng được cung cấp thẻ BHYT miễn
phí… Mức độ sử dụng DVYT có sự khác biệt giữa NCT có thẻ BHYT và
không có thẻ BHYT, giữa các vùng miền và đặc điểm kinh tế nên chưa đáp
ứng được yêu cầu về sự công bằng trong CSSK NCT [17, tr. 196, 198].
Thẻ BHYT có ý nghĩa quan trọng đối với việc CSSK NCT. Số liệu
khảo sát về thực hiện Luật Người cao tuổi năm 2015 cho thấy có 92,7% NCT


sử dụng thẻ BHYT cho lần ốm đau gần nhất và tỷ lệ này sử dụng khá đồng
đều theo giới tính và khu vực [18, tr.284].
Tỷ lệ sử dụng dịch vụ của NCT có BHYT tại tất cả các tuyến đều cao
hơn NCT không có BHYT, trong khi NCT không có BHYT lại có tỷ lệ sử
dụng các loại hình khám chữa bệnh khác (y tế tư nhân,… ) lại cao hơn hẳn
NCT có BHYT [28, tr. 49].
Chất lượng các loại dịch vụ y tế, khám chữa bệnh có thẻ BHYT, vấn đề
y đức, tiêu cực trong ngành y tế,… có tác động tiêu cực đến thực hiện quyền
được đảm bảo CSSK của NCT nếu xem đây là lực lượng yếu thế trong xã hội.
Tỉ lệ NCT đến khám, chữa bệnh và được lập hồ sơ quản lý sức khỏe định kỳ
tại tuyến cơ sở rất thấp, nhiều bệnh viện tuyến huyện chưa thành lập được
khoa lão khoa, công tác cải cách thủ tục hành chính của ngành y tế còn chậm
[10, tr 19].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 . Mục đích
Đề tài tìm hiểu thực trạng và phân tích tình hình thực hiện chính sách
bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi tại phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội. Qua đó, đề xuất những giải pháp cho việc thực hiện chính
sách bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi ở địa bàn nghiên cứu.
3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản; những yếu tố ảnh hưởng đến
việc thực thi chính sách BHYT cho NCT và những vấn đề của chính sách

BHYT đối với NCT nói chung để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình thực
hiện chính sách BHYT đối với NCT ở phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội.
- Phân tích thực trạng về cấp thẻ BHYT và phổ biến sử dụng thẻ BHYT
đối với NCT ở phường Phú Diễn; tình hình khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT


của người cao tuổi ở phường Phú Diễn; một số kết quả trong công tác triển
khai thực hiện chính sách BHYT ở phường Phú Diễn và đánh giá về việc thực
hiện chính sách BHYT từ thực tiễn phường Phú Diễn.
-

Nghiên cứu quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước trong công

tác thực hiện chính sách BHYT đối với NCT và giải pháp thực hiện chính
sách BHYT đối với NCT của Phường Phú Diễn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Tình hình thực hiện chính sách bảo hiểm y
tế đối với người cao tuổi.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian và thời gian: Không gian: phường Phú Diễn, quận
Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Thời gian: từ khi thành lập quận Bắc Từ
Liêm cho đến nay (01/4/2014 - nay) .
Về mặt nội dung: Đề tài nghiên cứu 2 vấn đề chính: Thực trạng thực hiện
chính sách Bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi; Quan điểm, định hướng và
một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với
người cao
tuổi.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 . Cơ sở lý luận:

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành chính sách công
và xã hội học để phân tích; nêu lên các khái niệm về NCT, về BHYT, về chính
sách công; sử dụng lý thuyết thực thi chính sách công; đặc điểm về hoạt động
chăm sóc NCT của gia đình và xã hội; những yếu tố ảnh hưởng đến việc tham
gia và sử dụng thẻ BHYT của NCT; kinh nghiệm về BHYT của một số quốc
gia châu Á, để đánh giá khái quát tình hình thực hiện chính sách bảo hiểm y tế
đối với NCT và bài học kinh nghiệm về BHYT đối với NCT.


5.2 . Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích tài liệu
Đề tài phân tích các tài liệu có sẵn về bảo hiểm y tế đối với người cao
tuổi ở Việt Nam khoảng 15 năm trở về đây; cụ thể, đề tài tập trung tổng hợp,
phân tích các bài viết, các công trình nghiên cứu, báo cáo từ các cuộc điều tra
khảo sát có liên quan đến NCT và BHYT ở Việt Nam.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi
Đề tài thực hiện 150 phiếu điều tra, đối tượng là những NCT, bao gồm
90 người cao tuổi nữ và 60 người cao tuổi nam, độ tuổi từ 60 tuổi trở lên.
Những người cao tuổi này hiện đang sinh sống trên địa bàn phường Phú Diễn,
quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Nhằm làm rõ hơn những nội dung liên quan tới chính sách BHYT đối
với người cao tuổi ở phường Phú Diễn, tôi tiến hành phương pháp thu thập
thông tin định tính thông qua phỏng vấn sâu. Tiến hành 06 cuộc phỏng vấn
sâu g h i ch ép trực tiếp đối với:
- 0 1 cán bộ phòng Lao động, Thương binh và Xã hội phường Phú Diễn;
- 01 cán bộ hội Người cao tuổi của phường Phú Diễn (hội trưởng hội
NCT của phường);
- 02 người cao tuổi của phường;
- 01 người là thành viên gia đình có người cao tuổi;

- 01 người là cán bộ trạm y tế quận Bắc Từ Liêm.
Nội dung cốt lõi của các cuộc phỏng vấn sâu tập trung vào những vấn
đề sau: (1) Số liệu về NCT có BHYT ở phường Phú Diễn; (2) Việc triển khai
BHYT cho NCT như thế nào?; (3) Tình hình kh ám ch ữa bệnh bằng
thẻ BHYT của NCT củ a ph ường Phú Diễn hi ện nay ; (4) Chính
sách BHYT đối với NCT có nh ững ưu , nhược điểm gì?


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1 . Ý nghĩa lý luận của đề tài:
Đề tài làm rõ các khái niệm nghiên cứu như: chính sách, bảo hiểm y tế,
người cao tuổi; góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận trong việc thực hiện chính
sách bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi ở phường Phú Diễn, quận Bắc Từ
Liêm, thành phố Hà Nội.
6.2 . Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Qua phân tích tình hình thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với
người cao tuổi ở phường Phú Diễn, đề tài đưa ra cái nhìn khái quát về những
thành tựu và hạn chế của chính sách bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi ở
phường Phú Diễn nói riêng và đối với người cao tuổi ở Việt Nam nói chung.
Đề xuất phương hướng, giải pháp thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với
người cao tuổi ở phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài bao gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế đối
với người cao tuổi
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với
người cao tuổi tại phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp thực hiện chính sách
Bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
1.1.

Một số khái niệm
Chính sách
Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ;

chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực
cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc
tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... Muốn
định ra chính sách đúng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh
vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác
định trong đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh
và điều kiện cụ thể [19, tr. 475].
Theo từ điển tiếng Việt, chính sách là chủ trương và các biện pháp của
một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội [53, tr. 368].
Có thể coi chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một
mục đích nhất định. Theo đó, chính sách được ban hành bao giờ cũng nhắm
đến một mục đích nhất định; có sự tính toán và chủ đích rõ ràng [16, tr. 13].
Bảo hiểm y tế:
Bảo hiểm y tế là loại bảo hiểm do nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy
động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức
khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân dân [19, tr. 151].
Bảo hiểm y tế (BHYT) là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức
thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của cộng đồng, chia sẻ nguy cơ bệnh
tật và giảm bớt gánh nặng tài chính của mỗi người khi ốm đau, bệnh tật, tạo



nguồn tài chính hỗ trợ cho hoạt động y tế, thực hiện công bằng và nhân đạo
trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân [11, tr. 60].
Còn trong Luật Bảo hiểm y tế thì Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm
được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi
nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham
gia theo quy định của Luật này.
Chính sách bảo hiểm y tế là chủ trương, biện pháp, kế hoạch thực
hiện của chính phủ nhằm thực hiện đảm bảo công bằng và hiệu quả trong
chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Vậy có thể hiểu Chính sách bảo hiểm y tế đối với người cao tuổi là
chủ trương, biện pháp, kế hoạch thực hiện của chính phủ trong việc chăm sóc
sức khỏe cho người cao tuổi.
Người cao tuổi
Khái niệm Người cao tuổi cũng là khái niệm chưa có sự đồng nhất trên
thế giới. Nhiều quốc gia quy định người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở
lên, nhưng cũng có quốc gia quy định người ở độ tuổi 60 trở lên được xem là
người cao tuổi [48, tr. 6].
Xem xét từ góc độ sinh học, NCT là các cá nhân mà sự lão hóa của cơ
thể đã bộc lộ ở các mức khác nhau, thể hiện cụ thể ở tuổi thọ của họ. Tại Việt
Nam, Pháp lệnh về NCT (2000) và Luật về NCT Việt Nam được Quốc hội
thông qua năm 2009 quy định “những người từ 60 tuổi trở lên là người cao
tuổi”; Từ góc độ kinh tế, tuổi già là thời điểm mà người lao động ít còn khả
năng độc lập về kinh tế và do đó cần được hỗ trợ bởi các dịch vụ xã hội, có
nghĩa là họ trở thành những người phụ thuộc về mặt xã hội; Từ góc độ các
quan hệ xã hội, NCT được xác định dựa vào một trong các đặc điểm khá rõ
ràng là giảm dần các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội nói chung và tăng


dần sự phụ thuộc vào các thành viên xã hội khác để đáp ứng các nhu cầu cơ

bản của mình [25].
Hiện nay, theo tổ chức Liên Hợp Quốc, không có một chuẩn duy nhất về
định nghĩa người cao tuổi. Tuy nhiên, theo quan niệm của tổ chức này, một
người được coi là người cao tuổi khi họ bước vào tuổi 60.
Theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), độ tuổi trên 60 thì
được gọi là người cao tuổi.
Tại Việt Nam, theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009,
người cao tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên. Các nghiên cứu
của Việt Nam về người cao tuổi cũng thường sử dụng khái niệm người cao
tuổi theo quy định của Luật này.
Vì vậy, trong đề tài này tôi cũng sử dụng khái niệm người cao tuổi là
người đủ từ 60 tuổi trở lên như quy định trong Luật Người cao tuổi của
Việt Nam.
1.2.

Lý thuyết thực thi chính sách công

1.2.1. Khái niệm chính sách công, thực thi chính sách công
Hiện nay, thuật ngữ “chính sách công” được sử dụng rất phổ biến trên
các ấn phẩm ở các nước và Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có quan
điểm thống nhất về thuật ngữ này.
- Nhà kinh tế học Frank Ellis cho rằng, không có định nghĩa duy nhất
nào về thuật ngữ “chính sách” được thừa nhận bởi tất cả tác giả. Theo ông:
“Chính sách là một thuật ngữ chung vì nó ngụ ý sự can thiệp của nhà nước
vào nền kinh tế” và chính sách công được xác định như là đường lối hành
động mà chính phủ lựa chọn đối với một lĩnh vực nào đó của nền kinh tế, kể
cả các mục tiêu mà chính phủ tìm kiếm và sự lựa chọn các phương pháp để
theo đuổi các mục tiêu đó.



- James Anderson cho rằng: “Chính sách công là một quá trình hành
động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải
quyết những vấn đề lặp đi lặp lại”.
[55, tr. 38]
Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của nhà nước,
nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội theo phương thức nhất định, nhằm đảm bảo cho xã hội phát triển
ổn định và bền vững [13, tr.36].
Chính sách công là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau do
nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn
đề công nhằm đạt được các mục tiêu phát triển [46, tr. 10].
Khái niệm Thực thi chính sách công
Thực thi có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, theo
Daniel A.Mazmanian và Paul A.Sabatier: “Thực thi là thực hiện một quyết
định chính sách cơ sở, thường được thể hiện trong một đạo luật, nhưng cũng
có thể được thể hiện dưới hình thức các quyết định quan trọng của cơ quan
hành pháp hoặc các quyết định của tòa án. Theo lý tưởng, quyết định đó xác
định vấn đề cần được giải quyết, quy định các mục tiêu cần theo đuổi và rất
nhiều cách thức, định hình quá trình thực thi. Thông thường, quá trình này trải
qua nhiều giai đoạn, bắt đầu với việc thông qua đạo luật cơ bản, tiếp theo là
các quyết định của các cơ quan thực thi chính sách, sự tuân thủ của các nhóm
lợi ích với các quyết định đó, các tác động thực tế - cả chủ định và không chủ
định – của các đầu ra đó, những tác động nhận thức được của các quyết định,
và cuối cùng là những sửa đổi quan trọng trong đạo luật cơ bản”.
Theo Amy DeGroff, Margaret Cargo, “Thực thi chính sách công phản
ánh một quá trình thay đổi phức tạp mà các quyết định của nhà nước được


chuyển thành các chương trình, thủ tục, các quy định hoặc các hoạt động
nhằm đạt được những cải thiện xã hội”.

Theo Thomas Dye, “Thực thi bao gồm tất cả các hoạt động được thiết
kế để thực hiện các chính sách công đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp.
Vì các chính sách công có những tác động mong muốn hoặc có chủ định, nên
chúng phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà sau đó được
thực hiện để đạt được một tập hợp các mục tiêu hoặc mục đích”.
Vậy, có thể hiểu: “Thực thi chính sách công là quá trình đưa chính sách
công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản,
chương trình, dự án thực thi chính sách công và tổ chức thực hiện chúng
nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công”.
[46, tr. 93-97]
1.2.2. Quy trình triển khai thực thi chính sách công
Thực thi chính sách công là quá trình đưa chính sách công vào thực tiễn
đời sống xã hội nhằm hiện thực hóa các mục tiêu chính sách công. Quá trình
thực thi chính sách công được triển khai thông qua hệ thống tổ chức bộ máy
nhà nước, với sự tham gia của các đối tác. Tùy thuộc vào từng chính sách
công, mà các chủ thể thực thi chính sách công xác định các nhiệm vụ cụ thể
để triển khai thực thi. Ở góc độ chung nhất, quá trình triển khai thực thi chính
sách công được tổ chức gồm các bước:
Bước 1: Xây dựng và ban hành văn bản, chương trình, dự án thực thi chính
sách công
Để thực hiện nhiệm vụ này, các chủ thể thực thi chính sách công cần tiến
hành các hoạt động:
- Nghiên cứu nội dung chính sách công để xác định những văn bản,
chương trình hoặc dự án cần phải được ban hành hoặc phê duyệt.


- Xây dựng kế hoạch soạn thảo và ban hành các văn bản thực thi chính
sách công; xây dựng kế hoạch lập và phê duyệt các chương trình, dự án thực
thi chính sách công.
- Tổ chức triển khai thực hiện các kế hoạch nêu trên để bảo đảm ban

hành được các văn bản, chương trình, dự án có chất lượng, hợp pháp, đúng
thời gian, tiết kiệm và hiệu quả.
Bước 2: Tổ chức thực hiện văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách
công
Sau khi các văn bản, chương trình, dự án được ban hành và phê duyệt,
các chủ thể thực thi được giao trách nhiệm tổ chức thi hành văn bản, và triển
khai thực hiện chương trình, dự án này. Nội dung tổ chức thi hành văn bản và
chương trình, dự án cụ thể có khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát thành
các nội dung hoạt động dưới đây:
- Xây dựng kế hoạch tổ chức thi hành văn bản, hoặc lập kế hoạch thực
hiện chương trình, dự án;
- Tuyên truyền, phổ biến nội dung văn bản, chương trình, dự án;
- Tập huấn văn bản, bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng cần thiết để
triển khai văn bản, chương trình, dự án;
- Bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí, tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực
để triển khai thi hành văn bản, thực hiện chương trình, dự án;
- Chỉ đạo, tổ chức kiểm tra, đôn đốc việc thi hành văn bản, việc thực
hiện chương trình, dự án.
Bước 3: Sơ kết, tổng kết thực hiện văn bản, chương trình, dự án thực thi chính
sách công
Việc sơ kết, tổng kết thực hiện chính sách công được tiến hành theo
trình tự từ dưới lên trên.
- Trước hết, các cơ quan, tổ chức được giao thi hành văn bản thực thi
chính sách công nào thì tiến hành sơ kết, tổng kết việc thi hành văn bản đó, và


×