Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NGỌC THUẬN

PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM DO NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NGỌC THUẬN

PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM DO NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số

: 8 38 01 05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ



HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Võ Ngọc Thuận


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN ............................................................8
1.1. Khái niệm, mục đích, nguyên tắc và ý nghĩa phòng ngừa tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện .................................................................................................8
1.2. Cơ sở pháp luật, nội dung và các biện pháp phòng ngừa tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện ........................................................................................................15
1.3. Chủ thể phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện ........................19
1.4. Các yếu tố tác động đến phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
...................................................................................................................................22
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ........................27
2.1. Thực trạng cơ sở pháp luật phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực

hiện ............................................................................................................................27
2.2. Thực trạng chủ thể phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại tỉnh
Quảng Nam ................................................................................................................29
2.3. Thực trạng các yếu tố tác động đến phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện tại tỉnh Quảng Nam ...................................................................................33
2.4. Thực trạng tình hình, diễn biến, cơ cấu và tính chất của tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện tại tỉnh Quảng Nam .......................................................................35
2.5. Thực trạng công tác phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực ............48
hiện tại tỉnh Quảng Nam ...........................................................................................48
2.6. Những hạn chế, thiếu sót trong công tác phòng ngừa tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện và nguyên nhân ..................................................................................52
CHƯƠNG 3. TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ........................56


3.1. Dự báo tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam trong những năm tới .............................................................................56
3.2. Mục đích, quan điểm tăng cường phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện trên địa bàn tình Quảng Nam trong thời gian tới ......................................59
3.3. Giải pháp tăng cường phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới ......................................................61
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

- BLHS

: Bộ luật hình sự


- BL TTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

- CAND

: Công an nhân dân

- CSND

: Cảnh sát nhân dân

- Nxb

: Nhà xuất bản

- PNTP

: Phòng ngừa tội phạm

- TAND

: Tòa án nhân dân

- ANTT

: An ninh trật tự

- THTP


: Tình hình tội phạm

- UBND

: Ủy ban nhân dân

- VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

- HĐND

: Hội đồng nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình tội phạm thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ....................37
Bảng 2.2. Số vụ án do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ
năm 2014 đến năm 2018 ...........................................................................................37
Bảng 2.3. Giới tính của người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
từ năm 2014 đến năm 2018 .......................................................................................40
Bảng 2.4. Cơ cấu người dưới 18 tuổi phạm tội theo độ tuổi .....................................40


DANH MỤC CÁC HÌNH
Biểu đồ 2.1. Số người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn Quảng Nam năm 2014 đến
năm 2018 ...................................................................................................................36
Biểu đồ 2.2. So sánh số người dưới 18 tuổi phạm tội bị khởi tố với tổng số người
phạm tội bị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018 ........38

Biểu đồ 2.3. So sánh nhóm tội danh .........................................................................41
Biểu đồ 2.4. So sánh tội danh cụ thể .........................................................................42


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật hình sự của
người dưới 18 tuổi luôn được Đảng, Nhà nước, các cơ quan, tổ chức, và toàn thể nhân
dân quan tâm. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và các Bộ, ngành ở Trung
ương đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách có liên quan đến công tác phòng ngừa
tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện như: Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22 tháng
10 năm 2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Nghị quyết 09/CP của Chính phủ,
Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 về Phê duyệt các đề án
của Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm, trong đó có Đề án IV “Đấu tranh
phòng, chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi vị thành
niên” giao cho Bộ Công an chủ trì có sự phối hợp tham gia của Bộ Giáo dục - Đào
tạo, Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt, gần đây nhất là
Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến
năm 2030 được phê duyệt bằng Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ
tướng Chính phủ, trong đó giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì thực hiện Đề án 11:
Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật trong học sinh, sinh viên.
Thông thường, người dưới 18 tuổi phạm tội do trải qua một quá trình hư dẫn đến
phạm tội, do vậy, ở người dưới 18 tuổi phạm tội thường có những sai lệch trong
tính cách thể hiện ở thái độ coi thường những chuẩn mực đạo đức xã hội, coi
thường pháp luật, coi khinh người lao động, lười lao động và không tôn trọng thành
quả lao động.
Người dưới 18 tuổi là những người đang phát triển về mọi mặt, đây là lứa

tuổi chưa đủ những kinh nghiệm trong cuộc sống, quá trình nhận thức bị hạn chế;
chủ quan, nông cạn khi phân tích, đánh giá hay nhìn nhận các sự việc, hiện tượng,
dễ bị tác động bởi các yếu tố của môi trường sống. Do đó người dưới 18 tuổi dễ bắt
chước, làm theo, dễ bị lôi kéo vào các môi trường tiêu cực. Hơn nữa với đặc tính
hiếu động, tính hiếu thắng, thích mạo hiểm và luôn tỏ ra mình là người can đảm,

1


dũng cảm, không chịu thua kém bất cứ ai, xem thường các nội quy, yêu cầu đặt ra
của gia đình, nhà trường và xã hội Trong tư duy của người ở độ tuổi này bắt đầu
hình thành ý thức độc lập trong việc quyết định cuộc sống riêng của mình, bắt đầu
tự độc lập trong hành động, suy nghĩ, ứng xử và thiết lập các mối quan hệ riêng
biệt, nhưng còn dễ bị người khác kích động, dụ dỗ, lôi kéo vào việc thực hiện
những hành vi trái pháp luật. Hiện tượng người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ là
vấn đề quan tâm của từng cá nhân, gia đình mà là vấn đề chung của toàn xã hội, vì
nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến thế hệ tương lai của đất nước.
Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng duyên hải miền Trung, cách
thủ đô Hà Nội 883 km về hướng Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 887 km về
hướng Nam theo đường quốc lộ 1A, phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa
Thiên Huế, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía Tây giáp tỉnh
Xê Kông (Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào) và tỉnh Kon tum, phía Đông giáp Biển
Đông. Quảng Nam có diện tích: 1.057.474 ha, dân số gần 1,5 triệu người (số liệu
thống kê năm 2018) và có 18 đơn vị hành chính cấp huyện: 2 thành phố, 1 thị xã và
15 huyện với 244 xã/ phường/ thị trấn. Thành phố Tam Kỳ là trung tâm hành chính
của tỉnh Quảng Nam.
Bên cạnh những mặt tích cực đó là tình hình kinh tế, chính trị - xã hội đi vào
ổn định và phát triển, các ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn và tốc độ
phát triển cao, mức sống của người dân không ngừng được nâng lên. Tuy nhiện, do
ảnh huởng của mặt trái nền kinh tế thị trường và từ những luồng tư tưởng văn hoá

độc hại xâm nhập thông qua các con đường khác nhau trong quá trình mở cửa hội
nhập, nhất là sự phát triển mạnh của Công nghệ thông tin, đã tác động tiêu cực đến
tư tưởng, lối sống của không ít người, đặc biệt là người dưới 18 tuổi. Ảnh huởng
của sự tác động tiêu cực đó cùng với sự thiếu quan tâm của gia đình, xã hội đã
nhanh chóng đưa một bộ phận người dưới 18 tuổi không nghề nghiệp ở tỉnh Quảng
Nam sống buông thả, lêu lổng, dễ dàng đi vào con đường phạm tội. Tình hình tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện tại tỉnh Quảng Nam ngày càng có chiều
hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Nhận thức được thực trạng này, các cơ quan, ban ngành của tỉnh Quảng Nam
đã có nhiều cố gắng trong việc tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền địa

2


phương xây dựng nhiều phương án, đề ra nhiều giải pháp nhằm làm tốt công tác
quản lý, giáo dục, phòng ngừa và ngăn chặn tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội
trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh
thời gian gần đây vẫn có chiều hướng gia tăng, tiềm ẩn nhiều yếu tố tác động xấu
đến quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công tác đảm bảo
ANTT của tỉnh nói riêng. Báo cáo tổng kết tình hình, công tác năm 2018 của Công
an tỉnh Quảng Nam đã đánh giá: “… Hoạt động của tội phạm còn diễn biến phức
tạp, manh động và liều lĩnh hơn, đặc biệt tội phạm theo băng nhóm, tội phạm trong
độ tuổi thanh, thiếu niên có xu hướng gia tăng, số vụ án giết người, trộm cắp, cướp,
cướp giật tài sản ... còn xảy ra nhiều”.
Xác định đúng đắn vị trí, vai trò của công tác PNTP trong những năm qua, các
cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã đề ra nhiều chủ trương, thực hiện
nhiều chính sách, kế hoạch PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện, qua đó đã góp
phần làm giảm THTP trên toàn tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động phòng ngừa vẫn bộc lộ
một số tồn tại, hạn chế như: Công tác phòng ngừa chung chưa mang lại hiệu quả cao;
việc thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến công tác điều tra, xử lý tội phạm

do người dưới 18 tuổi thực hiện còn những hạn chế nhất định; công tác phối hợp giữa
các lực lượng và các đơn vị, địa phương trong phòng ngừa nhóm tội phạm này chưa
chặt chẽ, nhất là việc quản lý, giáo dục đối tượng có nguy cơ trở thành người phạm
tội và nạn nhân của tội phạm... Từ đó cho thấy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận
và đánh giá đúng thực tiễn công tác phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện, tìm ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của chúng nhằm đề xuất giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa nhóm tội phạm này trở nên vô cùng cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Phòng ngừa tội phạm do người
dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn tốt nghiệp
cao học luật, chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội và tình hình tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện từ trước đến nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên
nhân, điều kiện phạm tội để từ đó tăng cường hoạt động phòng ngừa xã hội cũng
như phòng ngừa nghiệp vụ với mục đích kiềm chế, ngăn chặn, tiến tới loại trừ loại

3


tội phạm này.
* Các công trình lý luận tội phạm học
- Học viện Cảnh sát nhân dân (2010), Giáo trình Tội phạm học, Nxb CAND,
Hà Nội;
- Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề về tội phạm học Việt
Nam, (tài liệu tham khảo dùng cho hệ đào tạo sau đại học);
- ĐH Luật Hà Nội, (2012), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội;
- Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm học Việt Nam, Nxb
CAND, Hà Nội;

- Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội;
TS. Đỗ Bá Cở (2002), Người chưa thành niên phạm tội và các giải pháp
phòng ngừa của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong tình hình hiện nay, Nxb
CAND, Hà Nội;
- PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn (2011), Tập bài giảng về tình hình tội phạm, nguyên
nhân và phòng ngừa tội phạm ở nước ta hiện nay;
- PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội
phạm ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam,
một số vần đề lý luận và thực tiễn, Nxb CAND, Hà Nội;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội;
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ
bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (2011), Giáo trình Quyền Con người - Nxb khoa
học xã hội, Hà Nội;
- Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, về nhân
thân người phạm tội, về PNTP được đăng tải trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tạp
chí Nhân lực khoa học xã hội, tạp chí Cảnh sát nhân dân, tạp chí Kiểm sát nhân dân,
tạp chí Tòa án nhân dân, CAND trong những năm gần đây.
* Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến phòng ngừa tình hình tội

4


phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
- Ở cấp độ luận văn thạc sĩ, có các công trình nghiên cứu:
+ Luận văn Thạc sỹ luật học: “Tình hình tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” của tác giả Nguyễn Văn Nhật, năm 2011;
+ Luận văn Thạc sỹ luật học: “Các tội xâm phạm sở hữu do người chưa

thành niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải
pháp phòng ngừa” của tác giả Trần Nhất Chí, năm 2015;
+ Luận văn Thạc sỹ luật học: “Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả
Nguyễn Thị Liên, năm 2015.
Thực tế hiện nay trong tổ chức và tiến hành các hoạt động phòng ngừa người
dưới 18 tuổi phạm tội ở nước ta có nhiều chủ thể cùng tham gia với các cấp độ trách
nhiệm và hệ thống biện pháp khác nhau. Từng loại tội phạm cụ thể do người dưới 18
tuổi thực hiện lại thuộc về trách nhiệm phòng ngừa của các lực lượng khác nhau trong
lực lượng CAND. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chi tiết,
hoàn chỉnh và chuyên sâu về hoạt động phòng ngừa của các chủ thể tại địa phương, Do
đó, việc nghiên cứu một cách tổng quan về hoạt động PNTP do người dưới 18 tuổi
thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là vấn đề luôn mang tính cấp thiết mà đề tài cần
tập trung giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Công tác PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam từ năm 2014 đến 2018 được đánh giá một cách tổng quan về những vấn đề lý
luận và thực tiễn từ đó rút ra những ưu điểm, thiếu sót, sơ hở, nhược điểm và
nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót đó; đề xuất những giải pháp phù hợp với
thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động PNTP này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khi nghiên cứu cần làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về công tác

PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện.
- Khảo sát đánh giá thực trạng THTP do người dưới 18 tuổi thực hiện trên

địa bàn tỉnh Quảng Nam, từ đó rút ra những nguyên nhân và điều kiện của THTP

5



do người dưới 18 tuổi thực hiện.
- Đánh giá thực trạng công tác PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện của

các chủ thể tại tỉnh Quảng Nam; những kết quả đạt được, tồn tại và nguyên nhân
cần khắc phục.
- Dự báo về THTP do người dưới 18 tuổi thực hiện ra trong thời gian tới, đề

xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác PNTP do người dưới 18
tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quan điểm khoa học, quy định của pháp luật và thực trạng PNTP do
người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thời gian vừa qua là đối
tượng nghiên cứu của luận văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm.
- Luận văn lấy địa bàn tỉnh Quảng Nam làm phạm vi về không gian và lấy
thời hạn 05 năm, từ năm 2014 đến 2018 làm phạm vi nghiên cứu về thời gian, theo
đó số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của TAND tỉnh Quảng Nam về các tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện cũng nằm trong khoảng thời gian nói trên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng;
chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về PNTP nói chung và PNTP do người dưới
18 tuổi thực hiện nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm như tổng kết thực tiễn, khảo sát, thống kê hình
sự, điều tra điển hình, nghiên cứu hồ sơ vụ án, phân tích, so sánh, hệ thống… Để
làm rõ những vấn đề thuộc nội dung của luận văn.

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu PNTP do người dưới 18 tuổi
thực hiện một cách toàn diện, hệ thống và nhất quán dưới góc độ tội phạm học và
PNTP từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng
làm tài liệu tham khảo tại các trường CAND, các trường chuyên ngành luật và Học
viện Khoa học xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả PNTP nói chung
và PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện
Chương 2. Thực trạng phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Chương 3. Tăng cường phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

7



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA
TỘI PHẠM DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỰC HIỆN
1.1. Khái niệm, mục đích, nguyên tắc và ý nghĩa phòng ngừa tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Ở nước ta, ngay sau khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến công tác PNTP. Cụ thể, riêng trong công
tác tư pháp (xét xử), Người đã từng nói “Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử
thì càng tốt hơn”[16. tr,259]. Câu nói này của Người đã thể hiện phương châm rất
quan trọng trong đường lối xử lý tội phạm Nhà nước ta - lấy giáo dục, phòng ngừa
là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là phòng, chống tội phạm tốt.
BLHS năm 2015 thể hiện tinh thần “chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu
tranh chống tội phạm và thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa, cải tạo
người phạm tội trở thành người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi công dân
tinh thần, ý thức làm chủ xã hội. Ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia
phòng ngừa và chống tội phạm” [17, tr.245].
Quan niệm về PNTP được GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm dẫn ra như sau:
“Phòng ngừa tội phạm là tổng hợp các biện pháp có quan hệ tác động lẫn nhau,
được tiến hành bởi cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm mục đích ngăn
chặn tội phạm và hạn chế, loại trừ những nguyên nhân sinh ra tội phạm” [62,
tr.185-199].
Quan điểm khoa học trong sách báo pháp lý một số nước đều thống nhất cho
rằng: “Phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, thủ tiêu các nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm...” hay “không để cho tội phạm gây ra hậu quả nguy
hại cho xã hội, thủ tiêu nguyên nhân và kiểm soát được tội phạm, hoàn thiện hệ
thống pháp luật về đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật, cũng như có các
biện pháp cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích
cho xã hội và cho cộng đồng...” [18, tr. 143-156].

Một quan điểm khác cho rằng PNTP được hiểu theo hai nghĩa: “Theo nghĩa

8


rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để cho tội phạm xảy ra, thủ tiêu
nguyên nhân và điều kiện phạm tội và bằng mọi cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời
phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải
tạo, giáo dục người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Còn
theo nghĩa hẹp, phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, không để cho
tội phạm gây hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên nào của xã hội phải chịu
hình phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội” [19, tr.116-123].
Mong muốn của xã hội là không để cho bất kỳ người dưới 18 tuổi vi phạm
pháp luật, phạm tội, chính vì vậy cần phải thực hiện mọi biện pháp phòng ngừa, trong
đó phải hiểu được tâm – sinh lý của người dưới 18 tuổi nói chung và của người dưới
18 tuổi vi phạm pháp luật, phạm tội nói riêng. Mặt khác, nếu phòng ngừa tốt, làm
giảm tình trạng phạm tội, không để tội phạm xảy ra cũng là ngăn chặn được hậu quả
tiêu cực về mọi mặt do tội phạm gây ra, đồng thời góp phần làm giảm các chi phí cần
thiết của Nhà nước, của nhân dân trong việc điều tra làm rõ tội phạm, các chi phí
trong quá trình truy tố, xét xử tội phạm cũng như các chi phí khác cho công tác khắc
phục hậu quả do tội phạm gây ra, trong công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân...
Theo GS. TS. Võ Khánh Vinh: “Công tác đấu tranh với tình hình tội phạm
có hai phương hướng có tác động chặt chẽ với nhau: phòng ngừa và việc phát hiện,
điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm, việc bảo đảm không thoát khỏi hình phạt, giáo
dục lại, cải tạo những người phạm tội. Các biện pháp pháp lý - hình sự của cuộc đấu
tranh với tình hình tội phạm được đưa lên hàng đầu trong những trường hợp chuẩn
bị và thực hiện các tội phạm cụ thể. Việc phòng ngừa ở nghĩa đen, tức là việc khắc
phục hoặc làm vô hiệu các nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm trước khi nó
gây ra việc thực hiện tội phạm, đóng vai trò cơ bản, quan trọng trong công tác đấu

tranh với tình hình tội phạm” [58, tr.153].
PNTP là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp để ngăn chặn không cho
tội phạm phát sinh, phát triển nhằm xóa bỏ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
không để tội phạm xảy ra gây hậu quả thiệt hại cho con người và cho xã hội. Nghị
quyết 31/NQ-BCT của Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ: Một trong những nguyên tắc chỉ
đạo đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an

9


toàn xã hội là: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng, sử dụng đồng bộ
các biện pháp nhằm tích cực xây dựng, chủ động phòng ngừa, chủ động tấn công và
tiến công liên tục làm tan rã bọn phản cách mạng và bọn tội phạm khác”.
Thực tiễn công tác PNTP trong thời gian qua chỉ ra rằng không phải chỉ bắt
giam nhiều và xử phạt tù với mức án cao, kế cả mức án cao nhất thì tội phạm sẽ giảm
mà phải phát động cho được phong trào quần chúng đấu tranh phòng chống tội phạm,
huy động cho được sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, của toàn xã hội, của
từng hộ gia đình, của từng công dân tự giác tham gia và phải lấy phòng ngừa làm
chính, lấy giáo dục cảm hóa lao động cải tạo làm chính thì mới là nhân tố, giải pháp
cơ bản có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh phòng chống
tội phạm; Nghị quyết số 40-NQ/TW, ngày 08 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác công an trong tình hình mới cũng đã có
quan điểm chỉ đạo lực lượng CAND là “huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp
của hệ thống chính trị, sức mạnh của toàn dân, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh,
trật tự....”, “Trong đấu tranh chống các thế lực thù địch, các loại tội phạm, phải chủ
động tấn công và tích cực phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ; lấy giữ vững bên
trong là chính, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những nhân tố có thể dẫn đến những
đột biến bất lợi; không để hình thành tổ chức chính trị phản động, không để xảy ra
biến động chính trị - xã hội, bạo loạn”.
Người dưới 18 tuổi là những người đang ở lứa tuổi phát triển vể mọi mặt đây là

lứa tuổi chưa có đủ kinh nghiệm sống, quá trình nhận thức còn hạn chế; chủ quan nông
cạn khi phân tích, đánh giá hay nhìn nhận các sự việc hiện tượng, dễ bị tác động bởi các
yếu tố của môi trường sống. Hơn nữa với đặc điểm tâm lý ở người dưới 18 tuổi, các
em dễ bị xúc động và hiếu động, có tính hiếu thắng, thích mạo hiểm và luôn tỏ ra
mình là người can đảm, dũng cảm, không chịu thua kém bất cứ ai, xem thường các
nội quy, yêu cầu đặt ra của gia đình, nhà trường và xã hội.
Người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm là những người ở lứa tuổi mà khả
năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội còn bị hạn
chế, nhiều khi họ còn bị tác động mạnh của những điều kiện bên ngoài. Do vậy
chính sách hình sự của Nhà nước ta chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ họ sữa chữa sai

10


lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân có ích cho xã hội. Thủ tục tố tụng
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội
và tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà BLHS và BL TTHS đã quy định.
BLHS sửa đổi bổ sung năm 2015 quy định một chương riêng (Chương XII,
Những quy định chung) áp dụng đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều 90
BLHS năm 2015 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo những quy định khác của
Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với những quy định tại Chương này”. Như
vậy, người dưới 18 tuổi phạm tội chịu trách nhiệm hình sự không giống những người
trên 18 tuổi cùng thực hiện một hành vi phạm tội và mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội như nhau.
Trong độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi là những người đã có năng lực trách
nhiệm hình sự chưa đầy đủ, nhưng trên thực tế xét xử đối với những đối tượng
phạm tội, thì người ở độ tuổi này mới chỉ nhận thức được tính chất nguy hiểm đối
với một số hành vi nghiêm trọng như: Trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích, cướp
tài sản…còn đối với những hành vi đặc biệt nghiêm trọng thì nhận thức của họ còn

hạn chế, thậm chí nhiều khi chưa nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi
do mình thực hiện như: giết người, hiếp dâm....
Độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi thì tâm sinh lý phát triển hơn, thể chất và tinh
thần hoàn thiện hơn ở đội tuổi dưới 16. Tuy nhiên, ở độ tuổi này, so với người phạm
tội từ 18 tuổi trở lên thì họ vẫn còn nhận thức nông nổi, kinh nghiệm sống chưa
nhiều và do trình độ nhận thức còn hạn chế, họ còn nhiều cơ hội để làm lại cuộc
đời, nếu họ được giáo dục cải tạo tốt. Do đó những người trong độ tuổi đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình theo
các quy định tại Chương XII, Do quy định chung đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với khoa học hình sự, khoa học tâm lý tội phạm
và thực tiễn hiện nay.
Với tiếp cận những vấn đề như trên, có thể đưa ra khái niệm về PNTP do
người dưới 18 tuổi thực hiện như sau: “Phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi
thực hiện là hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và của mọi công
dân áp dụng tổng hợp các biện pháp khác nhau để xóa bỏ các nguyên nhân và điều

11


kiện phát sinh, phát triển tội phạm, ngăn chặn không để người dưới 18 tuổi thực hiện
tội phạm gây hậu quả thiệt hại cho xã hội.
1.1.2. Mục đích phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Mục đích PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện nhằm kiềm chế sự gia tăng, hạn
chế dần mức độ và tính chất nghiêm trọng của tội phạm và ngăn ngừa tội phạm xảy ra.
- Hạn chế, từng bước xoá bỏ dần những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
do người dưới 18 tuổi thực hiện, không để phát sinh và phát triển loại tội phạm này; tác
động cụ thể đến đối tượng, môi trường, hoàn cảnh phạm tội do người dưới 18 tuổi thực
hiện làm cho đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội tự giác từ bỏ hoặc không thể thực
hiện được hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội do mình gây ra.
- Phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các loại tội phạm do người dưới 18


tuổi thực hiện không để xảy ra các hành vi phạm tội mới.
- Việc phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội phải đáp ứng được mục đích

chính là giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi sửa chữa sai lầm và trở thành người
có ích cho xã hội.
1.1.3. Nguyên tắc phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng:
Thực tiễn cho thấy Đảng ta luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao và đã hoạch định
những chủ chương, chiến lược PNTP hiệu quả như ban hành Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới… Bằng việc đề ra các chủ trương, đường
lối và thông qua công tác cán bộ, Đảng giao nhiệm vụ cụ thể cho từng tổ chức, cá
nhân trong Đảng, các ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, phát động cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm tới toàn thể xã hội, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong cuộc
chiến đầy cam go, lâu dài này.
- Nguyên tắc pháp chế:
Trong công tác xử lý tội phạm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là xử lý
nghiêm minh theo pháp luật, phát hiện, xử lý tội phạm kịp thời để không làm oan sai
người vô tội, không để lọt tội phạm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện
và xử lý theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp PNTP do người

12


dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định của Hiến pháp, BLHS, BL TTHS, các văn bản
luật và các quy phạm pháp luật khác có liên quan. Để nguyên tắc này phát huy hiệu
quả đòi hỏi hệ thống pháp luật về PNTP do người dưới 18 thực hiện phải không
ngừng được hoàn chỉnh để đáp ứng theo yêu cầu nhiệm vụ theo tình hình mới.
- Nguyên tắc nhân đạo:

Nguyên tắc nhân đạo là một trong những nguyên tắc cơ bản của BLHS. Mục
đích của quy định nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là nhằm bảo đảm những
lợi ích tối thiểu, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm và tính
mạng, quan điểm bao dung coi giáo dục thuyết phục nhân cách trong con người là
chủ yếu. Vì vậy, khi xem xét hành vi phạm tội của họ, Nhà nước luôn chú ý đến
nhiều khía cạnh như độ tuổi, tình trạng sức khỏe, tình trạng bản thân khi phạm tội
như mang thai, hoàn cảnh gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt để xác định
mức hình phạt phù hợp, điều đó xuất phát từ đạo đức, truyền thống dân tộc Việt
Nam và được thấm nhuần trong nguyên tắc nhân đạo của BLHS. Nguyên tắc này
tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo, có cơ hội để sớm hòa nhập vào cộng
đồng như: quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo và một số
hình phạt không tước quyền tự do như hình phạt cảnh cáo.
Vì mục đích của PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện là không để tội phạm
xảy ra, không để cho người dưới 18 tuổi nào phải chịu hình phạt, do đó nguyên tắc
nhân đạo cần phải được quán triệt trong quá trình và toàn bộ hoạt động PNTP do
người dưới 18 tuổi thực hiện. Nguyên tắc nhân đạo trong PNTP do người dưới 18
tuổi thực hiện vừa thể hiện sự mong muốn của xã hội, đồng thời thể hiện bản chất
tốt đẹp của chế độ ta, là bằng mọi biện pháp không để cho bất cứ người dưới 18 tuổi
nào của xã hội đi vào con đường tội phạm.
- Nguyên tắc phối hợp giữa các chủ thể:
Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ có sự phân công, phối hợp giữa các chủ thể
của hoạt động PNTP, tổ chức hệ thống phòng ngừa, các biện pháp phòng ngừa, hoạt
động PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện phải mang tính hệ thống, có sự điều
hành thống nhất, hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và các
cá nhân. Có như vậy thì hoạt động PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện mới có
thể đạt hiệu quả cao nhất.

13



1.1.4. Ý nghĩa phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Hoạt động PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện mang đầy đủ các đặc tính
hiệu quả, kinh tế và nhân đạo của PNTP nói chung theo lý luận của tội phạm học.
Tuy nhiên, với tư cách là hoạt động phòng ngừa nhắm đến một xã hội đặc biệt,
những người chưa trưởng thành, dễ bị tổn thương nhưng lại là những chủ nhân xã
hội trong tương lai gần cho nên hoạt động PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện
mang một ý nghĩa và nhân đạo đặc biệt.
PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện mang ý nghĩa chiến lược vì các
nghiên cứu về tái phạm ở nước ta chỉ ra rằng trên 75% những người phạm tội dưới
tuổi 18 sẽ tái diễn hành vi phạm tội trong tương lai nếu xã hội không có biện pháp
quản lý, giáo dục, tác động thích hợp và có hiệu quả. Do đó, nếu không có các biện
pháp phòng ngừa thích hợp và có hiệu quả thì người dưới 18 tuổi phạm tội hôm nay
sẽ là “nguồn bổ sung” tội phạm trưởng thành và có kinh nghiệm phạm tội ngày mai.
Phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ làm giảm THTP do người dưới
18 tuổi thực hiện trong hiện tại mà còn giúp làm giảm THTP của người dưới 18 tuổi
trong tương lai. Vì vậy, muốn giảm và hạn chế tội phạm trong tương lai, dù gần hay
xa, đều phải bắt đầu từ việc chú tâm đầu tư vào việc phòng ngừa người dưới 18 tuổi
đi vào con đường phạm tội trong hiện tại.
PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện là mang đầy đủ ý nghĩa nhân văn vì
nó chặn đứng sự phát triển lệch lạc, sự đức gãy trong quá trình phát triển một nhân
cách, giúp người dưới 18 tuổi phát triển lành mạnh cả thể chất và tinh thần, nhận
được sự quan tâm, chăm lo, giáo dục của gia đình và xã hội để phát triển toàn diện
và trở thành có ích. PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện là hạn chế số người dưới
18 tuổi bị pháp luật trừng phạt, xã hội cách ly để có điều kiện xây dựng thế hệ trẻ có
kiến thức, nhân cách tốt để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một khi người dưới 18
tuổi thực hiện hành vi phạm tội và phải chịu xử lý của pháp luật là quá trình băng
hoại, đứt gãy nhân cách bắt đầu. Nếu bị xử lý bằng hình thức cách ly khỏi xã hội thì
nhà tù và các trường giáo dưỡng chưa bao giờ là môi trường lý tưởng cho sự trưởng
thành của một con người cho dù nó được tổ chức tốt thế nào đi chăng nữa. Với sự
lệch lạc trong nhận thức và hành vi có sẵn cộng với mặc cảm tự ti “một lần nhúng

chàm, cả đời vấy bẩn”, có quá khứ vi phạm pháp luật hình sự, người dưới 18 tuổi sẽ

14


có nguy cơ trượt dài trong sự băng hoại nhân cách, quay vòng trong vòng xoáy của
tái phạm và cuối cùng trở thành một tội phạm trưởng thành với nhân cách tội phạm
hoàn thiện và tiếp tực giao rắc cái ác cho xã hội ở một mức độ ngày càng nghiêm
trọng hơn. PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện mang ý nghĩa kinh tế vì nó giúp
nhà nước và xã hội không phải tốn kém nguồn nhân lực và tài chính cho việc điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng cho người phạm tội hay
tạo lập, duy trì các cơ chế xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi vi phạm
pháp luật hoặc khắc phục hậu quả của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Thay vào đó, các nguồn lực này sẽ được đầu tư vào y tế, giáo dục và các mục đích
phúc lợi xã hội khác làm cho nhân dân có đời sống hạnh phúc.
1.2. Cơ sở pháp luật, nội dung và các biện pháp phòng ngừa tội phạm do
người dưới 18 tuổi thực hiện
1.2.1. Cơ sở pháp luật của công tác phòng ngừa tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện
Với quan điểm PNTP là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu Đảng, Nhà nước và
ngành CAND đã ban hành nhiều văn bản có liên quan đên công tác PNTP nói chung,
PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng. Đối với lực lượng CAND được quy
định tại Điều 67 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống
tội phạm” và nhiệm vụ chăm lo, giáo dục cho thế hệ trẻ cũng được quy định chặt chẽ
tại Điều 37 Hiến pháp năm 2013 “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại,
hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi
phạm quyền trẻ em”. Điều 61 Hiến pháp quy định: “Phát triển giáo dục là quốc sách

hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Như vậy ngay trong đạo luật có hiệu lực cao nhất của Nhà nước ta đó là Hiến
pháp đã thể hiện, xác định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân, gia đình và
xã hội có nhiệm vụ chăm lo, giáo dục cho thế hệ trẻ và nhiệm vụ đấu tranh, chống
tội phạm nói chung và tội phạm trong lứa tuổi dưới 18 nói riêng không của riêng ai.
BLHS năm 2015 quy định tại chương XII: Những quy định đối với người dưới

15


18 tuổi phạm tội, mục 1. Quy định chung về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Điều 90 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Điều 91 quy định
những nguyên tắc cơ bản về xử lý hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi; Điều 92
quy định điều kiện áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và Điều 93 quy định
về khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong đó áp dụng biện pháp tư
pháp có tính chất giáo dục phòng ngừa do Tòa án quyết định. Ngoài ra Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 cũng quy định về phòng ngừa trẻ em phạm
tội. Tại Điều 5 luật này quy định: “nghiêm cấm các hành vi ngược đãi, hành hạ, nhục
hình... nghiêm cấm lôi kéo trẻ em vào con đường hoạt động tệ nạn xã hội”...
Nghị quyết số 40-NQ/TW, ngày 08 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác Công an trong tình hình mới đã giao
nhiệm vụ cho lực lượng CAND là “huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị, sức mạnh của toàn dân, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật
tự...:, “Trong đấu tranh chống các thế lực thù địch, các loại tội phạm, phải chủ động
tấn công và tích cực phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ; lấy giữ vững bên trong
là chính, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những nhân tố có thể dẫn đến những đột
biến bất lợi; không để hình thành tổ chức chính trị phản động, không để xảy ra biến
động chính trị - xã hội, bạo loạn”.
Như vậy, quan điểm của Nhà nước Việt Nam trong phòng ngừa, điều tra tội
phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện là phải lấy phòng ngừa làm chính. Khi truy

cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi thì phải điều tra một cách tỉ mỉ, chính
xác để thu thập đầy đủ chứng cứ phạm tội và tính đến sự cần thiết phải áp dụng hình
phạt đối với họ. Các hình phạt, khi cần thiết áp dụng với họ, cũng ở mức nhẹ hơn so
với người trên 18 tuổi và nhằm mục đích răn đe, giáo dục là chính, coi trọng việc
tạo cơ hội cho họ sửa chữa sai lầm và tái hòa nhập xã hội.
1.2.2. Nội dung phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
- Tổ chức tốt công tác nắm THTP do người dưới 18 tuổi thực hiện trong xã
hội. Để nắm được tình hình cần thực hiện đồng bộ các biện pháp công khai, bí mật
để nghiên cứu thống kê làm rõ THTP do người dưới 18 tuổi thực hiện. Đây là một
trong các tiêu chí quan trọng trong nội dung PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện.
Thông qua các biện pháp trên lực lượng Công an chỉ ra được diễn biến, tình hình,

16


cơ cấu, tính chất, hậu quả, cơ số tội phạm; thông qua công tác tiếp nhận tin báo, tố
giác tội của nạn nhân, nhân dân, báo chí về tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện để có nhận thức sâu sắc về tình hình tội phạm tại địa phương.
- Nghiên cứu, xác định rõ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm do người dưới
18 tuổi thực hiện. Tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện là hiện tượng xã hội tiêu
cực xuất phát từ các nguyên nhân, điều kiện đan xen khác nhau, có sự tác động của
các yếu tố kinh tế - chính trị - xã hội ở mỗi giai đoạn và thời kỳ khác nhau. Một trong
những nội dung quan trọng cần xác định trong phòng ngừa loại tội phạm này cần phải
xác định nguyên nhân và điều kiện của nó. Lực lương Công an thông qua nghiên cứu,
đánh giá phải chỉ ra được các hiện tượng tiêu cực nào trong xã hội đã là nguyên nhân
và điều kiện của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện để có phương hướng, biện
pháp tập trung giải quyết, hạn chế, thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện đó.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch và tiến hành các biện pháp phát hiện, khắc
phục, xóa bỏ hoặc kiềm chế nguyên nhân, điều kiện của tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện. Bất kỳ loại tội phạm nào xảy ra trong xã hội đều có nguyên nhân, điều

kiện của nó. Việc xác định nguyên nhân, điều kiện của tội phạm là một trong những cơ
sở quan trọng cho các hoạt động khảo sát, đánh giá các biện pháp phòng ngừa của lực
lượng chức năng đã đúng đắn và phù hợp hay chưa. Từ việc xác định nguyên nhân,
điều kiện của tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện, trong phạm vi trách nhiệm, lực
lượng Công an xây dựng và tiến hành các biện pháp nhằm xóa bỏ hoặc hạn chế các
nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện.
- Phối hợp với các lực lượng chức năng trong và ngoài ngành Công an tổ
chức tiến hành các biện pháp phòng ngừa và trực tiếp tiến hành công tác phòng
ngừa, đấu tranh, ngăn chặn tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện theo chức
năng của đơn vị mình. Công tác PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện là một hoạt
động đòi hỏi sự tham gia của toàn xã hội. Lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt
phải tổ chức, huy động, kết hợp, phối hợp với các lực lượng chức năng nhằm có sức
mạnh tổng hợp, giải quyết căn bản các hiện tượng xã hội tiêu cực là nguyên nhân
trực tiếp và gián tiếp hiện tượng này.
1.2.3. Biện pháp phòng ngừa tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện
Biện pháp PNTP do người dưới 18 tuổi thực hiện là một hoạt động thực tế rất

17


×