Mở Đầu
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Hơn nửa thế kỷ đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng, Nhà nớc ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác phòng ngừa tội phạm là vấn đề cơ
bản, có ý nghĩa chiến lợc. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, thành lập chính quyền cách mạng non trẻ, trong Sắc lệnh số 23/SL
ngày 21 tháng 2 năm 1946 của Chính phủ về việc hợp nhất Sở Cảnh sát, Sở
Liêm phóng thành Việt Nam Công an vụ, t tởng về phòng ngừa tội phạm đã đ-
ợc Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: "Đề nghị và thi hành các phơng pháp đề
phòng những sự hành động làm rối việc trị an và mất trật tự trong nớc ".
Trớc tình hình hiện nay quốc tế và khu vực đang diễn ra hết sức phức
tạp, dới sự lãnh đạo của Đảng, đất nớc ta vẫn đang tiếp tục thực hiện công
cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội, nhiều thời cơ thuận lợi mới nhng
xuất hiện cũng không ít những khó khăn, thách thức và cả những nguy cơ đan
xen, nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội đã trở
thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng, Nhà nớc, toàn quân và toàn
dân ta. Do vậy, để góp phần phục vụ thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã
hội, Nhà nớc ta đã đề ra nhiều chơng trình hành động phòng chống tội phạm,
trong đó có chơng trình hành động phòng chống tội phạm trong lứa tuổi vị
thành niên.
Thanh thiếu niên là nguồn nhân lực tơng lai của đất nớc, có vai trò
quan trọng, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy,
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ là một trong những mối quan tâm
hàng đầu, là vấn đề chiến lợc của Đảng và Nhà nớc ta; Chủ tịch Hồ Chí Minh
1
kính yêu của chúng ta đã căn dặn: "Bồi dỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
việc làm rất quan trọng và cần thiết".
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế tri thức đang chiếm
một vị trí quan trọng trong quá trình phát triển đất nớc thì lực lợng thanh,
thiếu niên là những ngời đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung này.
Tuy nhiên, bên cạnh lực lợng thanh, thiếu niên tích cực, còn một số
thanh, thiếu niên không chịu học tập, lao động, không có ý chí vơn lên, có
những nhận thức sai lệch, sa ngã vào các hoạt động tệ nạn xã hội, nguy hiểm
hơn là đi vào con đờng phạm tội, gây ra những hậu quả xấu cho xã hội và d
luận không tốt trong nhân dân. Báo cáo kết quả công tác giữ gìn trật tự an toàn
xã hội năm 2005 của lực lợng CSND nêu rõ: "Tội phạm trong lứa tuổi thanh
thiếu niên (lứa tuổi từ 14 đến 30 tuổi) chiếm khoảng 70% tổng số đối tợng
phạm tội". Trong đó tội phạm do ngời cha thành niên (lứa tuổi từ 14 đến dới
18) gây ra trong những năm gần đây có chiều hớng gia tăng và tập trung chủ
yếu ở địa bàn thành phố, thị xã, thị trấn; tỷ lệ trung bình từ 8% đến 9,2% trong
tổng số các vụ phạm tội xảy ra. Số tội phạm do ngời cha thành niên gây ra tại
địa bàn tỉnh Điện Biên chiếm tỷ lệ khá cao so với các địa phơng trong cả nớc;
tỷ lệ trung bình hàng năm là 8% tổng số đối tợng phạm tội.
Trớc tình hình trên để ngăn chặn kịp thời tình trạng tội phạm do ngời cha
thành niên gây ra, nhằm giáo dục các em phát triển toàn diện về mọi mặt, trong
Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP, ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ về
tăng cờng công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới và Quyết định
138/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Thủ tớng Chính phủ về phê
duyệt Chơng trình quốc gia phòng chống tội phạm; đề án thứ t đã chỉ rõ: "Đấu
tranh phòng chống các loại tội xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi cha thành
niên". Vì vậy, có thể khẳng định phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lứa
tuổi cha thành niên là một nội dung quan trọng trong Chơng trình quốc gia
phòng chống tội phạm.
2
Cho đến nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu đề cập về
vấn đề này nh: TS. Đỗ Bá Cở: Ngời cha thành niên phạm tội và các giải pháp
phòng ngừa của lực lợng Cảnh sát nhân dân trong tình hình hiện nay- Đề tài
khoa học cấp Bộ - Nxb CAND- Hà Nội, 2002; Bùi Ngọc Giáp: Hoạt động của
lực lợng Cảnh sát nhân dân trong phòng ngừa và điều tra tội phạm hình sự do
ngời cha thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa- Thực trạng và giải
pháp nâng cao hiệu quả - Đề tài luận văn thạc sĩ năm 2003.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu khoa học đó tiếp cận và đề cập ở
các phơng diện, cấp độ khác nhau. Nhìn chung, các công trình khoa học đã
đánh giá đợc thực trạng tội phạm nói chung và tội phạm do ngời cha thành
niên gây ra ở nớc ta trên các khía cạnh khác nhau, góc độ và địa bàn khác
nhau, đa ra các giải pháp phòng ngừa chung cho toàn xã hội và các giải pháp
riêng cho lực lợng Công an nhân dân. Riêng địa bàn tỉnh Điện Biên là một
trong những tỉnh miền núi phức tạp về ANTT, số vụ phạm tội xảy ra trên địa
bàn chiếm một tỷ lệ đáng kể so với cả nớc. Đặc biệt tình hình hoạt động của
tội phạm do ngời cha thành niên gây ra đang diễn biến phức tạp và chiếm một
tỷ lệ lớn so với tổng số đối tợng phạm tội trên địa bàn. Công tác phòng ngừa
tội phạm do ngời cha thành niên gây ra trong những năm qua của các lực lợng
nghiệp vụ Công an tỉnh đã thu đợc những kết quả khả quan, góp phần quan
trọng vào việc giữ vững và ổn định ANTT trên địa bàn, bên cạnh những kết
quả đã đạt đợc, công tác phòng ngừa loại tội phạm này vẫn bộc lộ những tồn
tại nhất định. Mặt khác ở địa phơng, cho đến nay vẫn cha có công trình khoa
học nào nghiên cứu về hoạt động của lực lợng CSND trong phòng ngừa tội
phạm do ngời cha thành niên gây ra một cách toàn diện, có hệ thống. Chính vì
vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: " Cụng tỏc phũng nga ti phm do ngi
cha thnh niờn gõy ra trờn a bn tnh in Biờn " là vấn đề có tính cấp
thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3
* Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn:
Đánh giá tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác phòng
ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên từ
năm 2001 đến tháng 6 năm 2006 từ đó rút ra những u điểm, nhợc điểm, những
sơ hở, thiếu sót và nguyên nhân của những tồn tại trong phòng ngừa tội phạm
do ngời cha thành niên gây ra, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về công tác phòng ngừa tội
phạm do ngời cha thành niên gây ra.
- Khảo sát đánh giá thực trạng tình hình tội phạm hình sự do ngời cha
thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Từ đó rút ra những nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm do ngời cha thành niên gây ra.
- Đánh giá thực trạng công tác phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành
niên gây ra của lực lợng CSND Công an tỉnh Điện Biên. Những kết quả đạt đ-
ợc, tồn tại nguyên nhân cần khắc phục.
- Dự báo về tình hình tội phạm do ngời cha thành niên gây ra trong thời
gian tới, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa
tội phạm do ngời cha thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tợng nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm do ngời cha thành niên
gây ra và hoạt động phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra của
lực lợng CSND Công an tỉnh Điện Biên.
4
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu công tác phòng ngừa tội
phạm do ngời cha thành niên gây ra theo chức năng của lực lợng CSND từ
năm 2001 đến tháng 6 năm 2006, trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn đợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phơng pháp
luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, t
tởng Hồ Chí Minh và những chủ trơng, đờng lối, quan điểm của Đảng và Nhà
nớc, phơng châm, nguyên tắc hoạt động của lực lợng CAND trong phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ ANTT.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tùy theo yêu cầu đặt ra của từng vấn
đề nghiên cứu, tác giả sử dụng các phơng pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Tổng kết thực tiễn công tác phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành
niên gây ra.
- Thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu liên quan đến tội phạm
do ngời cha thành niên gây ra.
- Nghiên cứu điển hình các trờng hợp phạm tội cụ thể kết hợp các ph-
ơng pháp tọa đàm, trao đổi với những cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong công
tác phòng ngừa tội phạm này ở địa phơng.
- Phơng pháp điều tra xã hội học khác.
5. Những điểm mới của đề tài luận văn
- Bằng những phơng pháp nghiên cứu khoa học, luận văn đã phân tích
đánh giá một cách tổng thể khách quan trên cả hai phơng diện là lý luận và
thực tiễn về phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra, chỉ rõ những
5
u điểm, kết quả đã đạt đợc, tồn tại, nguyên nhân. Đây là căn cứ khoa học quan
trọng, làm cơ sở để đề xuất, bổ sung hoàn thiện công tác này.
- Quá trình khảo sát nghiên cứu luận văn làm rõ đợc những dấu hiệu
đặc trng cơ bản của tội phạm do ngời cha thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh
Điện Biên và những nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển của tội phạm
do ngời cha thành niên gây ra.
- Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn đã đa ra dự báo về tình hình tội phạm
do ngời cha thành niên gây ra trong thời gian tới. Căn cứ vào khả năng điều kiện
trong công tác phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra của lực lợng
CSND tỉnh Điện Biên, từ đó đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học và có tính
khả thi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa do ngời cha
thành niên gây ra.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về lý luận: Kết quả của đề tài luận văn góp phần bổ sung lý luận, từng
bớc đổi mới hoàn thiện hệ thống lý luận về phòng ngừa tội phạm do ngời cha
thành niên gây ra và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ ANTT trong thời gian
tới.
Về thực tiễn: Giúp cho cán bộ chiến sĩ trong lực lợng CSND nói
chung, trớc hết là lực lợng CSND Công an tỉnh Điện Biên nói riêng từng bớc
khắc phục những thiếu sót, tồn tại, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa
tội phạm do ngời cha thành niên gây ra, đồng thời là tài liệu phục vụ nghiên
cứu, giảng dạy, học tập trong các trờng CAND.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn đợc cấu trúc thành 3 chơng, 9 tiết.
6
7
Chơng 1
Nhận thức về phòng ngừa tội phạm
do ngời cha thành niên gây ra
1.1. Nhận thức tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
1.1.1. Khái niệm về ngời cha thành niên và tội phạm do ngời cha
thành niên gây ra
* Ngời cha thành niên và các đặc điểm nhận biết
Theo cách gọi thông thờng một chu kỳ sống của con ngời thờng đợc
chia thành nhiều giai đoạn lứa tuổi khác nhau: trẻ em, nhi đồng, thiếu niên,
thanh niên, trung niên, cao niên còn theo cách gọi của thuật ngữ pháp lý thì
đợc chia thành các tên gọi: trẻ em, ngời cha thành niên và thành niên.
Tuy nhiên việc phân định độ tuổi đến nay cũng cha có một quy định
nào thống nhất về lứa tuổi của trẻ em và ngời cha thành niên. Cụ thể là: trong
Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em (đợc Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 8 năm
1991) đã quy định: "Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dới
16 tuổi". Luật Lao động quy định trẻ em là ngời dới 15 tuổi. Bộ luật Dân sự đ-
ợc Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, tại
Điều 20 quy định: "Ngời từ đủ 18 tuổi trở lên là ngời thành niên. Ngời cha đủ
18 tuổi là ngời cha thành niên". Trong Bộ luật Hình sự đợc Quốc hội khóa X
kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 và đợc Chủ tịch nớc ký
lệnh số 01/L/CTN công bố ngày 04 tháng 01 năm 2000, tại Chơng X, Điều 68
quy định việc áp dụng Bộ luật Hình sự đối với ngời cha thành niên phạm tội:
"Ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự theo những quy định của chơng này, đồng thời theo những quy
8
định khác của phần chung Bộ luật không trái với những quy định của chơng
này".
Từ những quy định trong các văn bản pháp luật, đã cho chúng ta khái
quát sơ bộ đợc độ tuổi của trẻ em và ngời cha thành niên:
- Trẻ em là ngời cha phát triển đầy đủ về tinh thần và thể chất, cần có
sự bảo hộ của ngời lớn và ở độ tuổi dới 16 tuổi. Việc bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trờng, cơ quan, nhà nớc, tổ chức
xã hội và công dân.
- Về thể chất: trẻ em phát triển rất nhanh về chiều cao và cơ thể, đặc
biệt ở lứa tuổi 13 của các em gái và lứa tuổi 15 ở các em trai, các em phát
triển về xơng, cơ bắp và tăng nhanh trọng lợng cơ thể. Điều đáng lu ý về mặt
sinh lý phát triển trong giai đoạn này là khá hoàn chỉnh về giới tính. Điều này
có ảnh hởng đến đời sống tâm lý của các em, là cơ sở gây ra tính mất cân đối
chung, tính dễ kích thích, tính hiếu động, tính nổi nóng, đặc biệt trên lĩnh vực
tình cảm.
ở một góc độ nhất định, khái niệm về trẻ em và ngời cha thành niên t-
ơng đối đồng nhất về độ tuổi từ 16 đến dới 18 tuổi; nh vậy khái niệm về ngời
cha thành niên bao gồm cả những ngời phát triển cha đầy đủ và cả những ngời
đã phát triển đầy đủ nhng cha hoàn thiện về mọi mặt. Do vậy cần có sự nhận
thức, quan tâm, bảo vệ, giáo dục, tạo điều kiện để họ trở thành ngời có ích cho
xã hội.
Từ những đặc điểm đó, ta có thể rút ra khái niệm về ngời cha thành
niên: "Ngời cha thành niên là ngời ở lứa tuổi dới 18 và cha phát triển đầy đủ về
thể chất cũng nh về tâm sinh lý, kinh nghiệm sống và trình độ nhận thức của họ
còn bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế cha
cao, dễ bị kích động, lôi kéo vào những hoạt động phiêu lu, mạo hiểm ".
* Khái niệm tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
9
Trong xã hội loài ngời, tội phạm là hiện tợng tiêu cực xã hội và đấu
tranh phòng chống tội phạm đợc coi là một tất yếu khách quan không thể
thiếu đợc của mọi nhà nớc.
Nh mọi ngời đều biết, xã hội càng phát triển thì con ngời càng nhận
thức rằng: tất cả mọi công việc dù giản đơn hay phức tạp đều phải suy nghĩ
làm sao giải quyết công việc đó đạt hiệu quả nhanh nhất, chi phí ít nhất sức
lao động của mình; những hành động để đạt kết quả đó không vi phạm pháp
luật, không xâm phạm đến quyền lợi ích của nhà nớc, của ngời khác thì đợc
xem là mặt tích cực của xã hội và đợc Nhà nớc khuyến khích, ngợc lại những
hành vi vi phạm phạm pháp luật, bất chấp thủ đoạn, gây thiệt hại về vật chất,
tinh thần cho Nhà n ớc và nhân dân nhằm đạt mục đích có lợi cho bản thân
thì đợc xem là mặt trái của xã hội và bị xã hội đấu tranh, lên án và nghiêm
cấm; do đó những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật
hình sự nói riêng là những hành vi độc ác cần loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội.
Tội phạm là một hiện tợng xã hội tiêu cực, nguy hiểm cho xã hội. Tội
phạm có tính chất xã hội vì nó hình thành do chính hành vi của con ngời, nó
chống lại toàn thể xã hội, làm ảnh hởng đến sự phát triển của xã hội. Dới chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nớc ta xem tội phạm là một nhân tố bảo thủ và cản trở
sự tiến bộ của loài ngời.
Do vậy Nhà nớc ta đã có quy định cụ thể về tội phạm, Điều 8 Bộ luật
Hình sự nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đợc Quốc hội khóa X thông
qua ngày 21 tháng 12 năm 1999 quy định cụ thể nh sau: "Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội đợc quy định trong Bộ luật Hình sự, do ngời có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự
10
do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa".
Nh vậy với khái niệm trên, nhà làm luật đã đa ra khái niệm tội phạm
dựa trên cơ sở những đặc tính pháp lý của từng hành vi cụ thể hoặc nhóm hành
vi do những cá nhân nhất định thực hiện một cách có ý thức. Chính phơng
pháp nghiên cứu này của khoa học luật hình sự đã đa ra một mô hình pháp lý
hay chính là những quy phạm pháp luật hoàn chỉnh về các mối quan hệ xã hội
đợc luật hình sự bảo vệ và những hành vi ứng xử bắt buộc của con ngời. Do
đó, đối tợng nghiên cứu của khoa học luật hình sự là hành vi của cá nhân con
ngời. Vì vậy, phòng ngừa và điều tra tội phạm, trớc hết là phòng ngừa những
hành vi phạm tội và điều tra làm rõ quá trình diễn biến những hành vi phạm
tội đã xảy ra để xác định có hay không có tội phạm xảy ra, ngời thực hiện
hành vi phạm tội, trên cơ sở đó giúp cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp xử lý phù hợp.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ hành vi nào gây ra nguy hiểm cho xã hội
đều đợc coi là tội phạm, mà tại khoản 4 Điều 8 BLHS xác định: "Những hành
vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhng tính chất nguy hiểm cho xã hội không
đáng kể, thì không phải là tội phạm và đợc xử lý bằng các biện pháp khác".
Nh vậy việc phân biệt một hành vi vi phạm pháp luật hình sự có phải là tội
phạm hay không cần phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội có đáng
kể hay không.
Đối với ngời cha thành niên phạm tội BLHS 1999 quy định về độ tuổi
từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi và chia ra hai độ tuổi khác nhau:
- Ngời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
- Ngời từ đủ 14 tuổi trở lên, nhng cha đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
11
Về việc áp dụng BLHS đối với ngời cha thành niên phạm tội đợc quy
định tại Điều 68 BLHS: Ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi
phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định tại Chơng X,
đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với
những quy định của Chơng X.
Theo phân định ở hai mức độ tuổi đợc quy định cụ thể nh trên cho
thấy: độ tuổi từ 16 đến dới 18 tuổi thì tâm sinh lý phát triển hơn, thể chất và
tinh thần hoàn thiện hơn ở đội tuổi dới 16, do đó việc quy định trên đã thể
hiện quan điểm, chính sách xử lý đúng đắn của Đảng, Nhà nớc ta đối với ngời
cha thành niên phạm tội.
Theo các chuyên gia nghiên cứu quy luật về sự phát triển của con ngời,
thì giai đoạn từ 13 tuổi đến dới 15 tuổi là giai đoạn thay đổi phát triển về chiều
cao, cơ thể và tính cách của con ngời, nhất là các em gái, các em phát triển về
xơng, cơ bắp, tăng trọng lợng cơ thể, đồng thời trong cơ thể lúc này nó xuất
hiện hormone đặc biệt về cảm giác về tình cảm với ngời khác giới. Chính
trong giai đoạn này là giai đoạn chuyển tiếp rất quan trọng trong việc bổ sung
và hoàn thiện dần tính cách của các em, do đó trong công tác giáo dục của gia
đình và nhà trờng hết sức lu ý để định hớng cho các em theo những chuẩn mực
đạo đức, chuẩn mực xã hội.
Tội phạm do ngời cha thành niên gây ra cũng có đầy đủ 4 dấu hiệu của
tội phạm nhng nó có điểm khác biệt cơ bản với tội phạm nói chung là chủ thể
thực hiện tội phạm. Tội phạm do ngời cha thành niên gây ra thì chủ thể có
phạm vi hẹp hơn, đó là những ngời từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi, đồng thời t-
ơng ứng với độ tuổi là tính chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này
cũng khác.
Căn cứ vào Điều 20 của Bộ luật Dân sự quy định: "Ngời từ đủ 18 tuổi
trở lên là ngời thành niên. Ngời cha đủ 18 tuổi là ngời cha thành niên"; và
12
quy định của BLHS có thể hiểu: chủ thể của tội phạm do ngời cha thành niên
thực hiện là những ngời từ đủ 14 tuổi nhng cha đủ 18 tuổi.
Từ phân tích trên có thể hiểu tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
nh sau: Tội phạm do ngời cha thành niên gây ra là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội đợc quy định trong Bộ luật Hình sự do những ngời cha
thành niên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm đến những quan hệ xã hội đợc luật hình sự bảo vệ.
1.1.2. Đặc điểm về tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
Từ khái niệm trên đã cho chúng ta định hình về độ tuổi của ngời cha
thành niên phạm tội, là những ngời từ đủ 14 tuổi nhng cha đủ 18 tuổi. Ngời
cha thành niên là những ngời đang ở lứa tuổi phát triển về mọi mặt. Đây là lứa
tuổi cha có đủ khả năng nhận thức, cha có đủ những kinh nghiệm trong cuộc
sống, quá trình nhận thức bị hạn chế; chủ quan nông cạn khi phân tích, đánh
giá hay nhìn nhận các sự việc, hiện tợng, dễ bị tác động bởi các yếu tố của môi
trờng sống. Mặt khác ở lứa tuổi này các em đang tò mò, tìm hiểu thế giới xung
quanh, ham thích khai thác cái mới lạ; do đó sự tác động của thế giới khách
quan tác động ngợc trở lại là điều tất yếu, tác động trực tiếp đến sự phát triển
tâm lý, nhận thức của ngời cha thành niên. Vậy việc quan tâm, bảo vệ, chăm
sóc của gia đình, nhà trờng là hết sức quan trọng.
Thực tế cho thấy đa số ngời cha thành niên thực hiện tội phạm thờng là
những ngời có trình độ văn hóa thấp, ít hiểu biết về đạo đức, pháp luật, thờng có
quan niệm sai lệch về nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân, nên thờng có những
phản ứng sai lệch hoặc các hành vi vi phạm pháp luật. Nhiều trờng hợp ngời cha
thành niên không ý thức đợc việc làm của mình là phạm tội, bởi vậy khi hiểu ra
họ rất hối hận về việc làm của mình và lúc đó mới biết đó là hành vi phạm tội.
Do vậy, chúng ta cần phải nhận biết các đặc điểm cụ thể về tội phạm do ngời
cha thành niên gây ra để có cơ sở phòng ngừa:
13
+ Trớc hết chúng ta phải xác định đợc độ tuổi của ngời cha thành niên
phạm tội. Bởi ngời cha thành niên là những ngời đang ở lứa tuổi phát triển về
mọi mặt. Đây là lứa tuổi cha có đủ những kinh nghiệm trong cuộc sống, quá
trình nhận thức bị hạn chế; chủ quan nông cạn khi phân tích, đánh giá hay
nhìn nhận các sự việc, hiện tợng, dễ bị tác động bởi các yếu tố của môi trờng
sống. Do đó dễ bị bắt chớc, làm theo, dễ bị lôi kéo vào các môi trờng sống
tiêu cực. Hơn nữa với đặc điểm tâm lý ở ngời cha thành niên, các em dễ bị xúc
động và hiếu động, có tính hiếu thắng, thích mạo hiểm và luôn tỏ ra mình là
ngời can đảm, dũng cảm, không chịu thua kém bất cứ ai, xem thờng các nội
quy, yêu cầu đặt ra của gia đình, nhà trờng và xã hội. Những đặc điểm này có
quan hệ chặt chẽ với những nguyên nhân điều kiện thực hiện tội phạm của ng-
ời cha thành niên.
+ Đối với những ngời cha thành niên gây ra các hành vi tội phạm nó
cũng mang nhiều đặc điểm riêng biệt so với các lứa tuổi khác. Theo báo cáo
Bộ Công an về tổng kết Đề án 4 cho thấy: song song với loại tội, nhóm tội,
tính chất táo bạo của việc thực hiện hành vi phạm tội ở ngời cha thành niên
còn thể hiện cả ý thức phạm tội là có sự chuẩn bị trớc; phạm tội có tổ chức
hoặc có dấu hiệu phạm tội theo phe nhóm (2 ngời trở lên) và có ngời cầm đầu,
tổ chức hoặc chỉ huy các nhóm để thực hiện tội phạm. Địa bàn gây án thờng
xảy ra phổ biến ở các thành phố, thị xã, thị trấn, nhất là các thành phố lớn. ở
mỗi địa bàn khác nhau, tội phạm đợc thực hiện cũng có những đặc trng khác
nhau, nếu nh ở các vùng nông thôn và miền núi, tội phạm chủ yếu và phổ biến
là trộm cắp tài sản, cố ý gây thơng tích và một số tội ít nghiêm trọng khác, thì
ở các đô thị, thành phố, ngoài những tội trên, các tội rất đặc trng còn là lừa
đảo, cớp, cớp giật, gây rối trật tự công cộng và chống ngời thi hành công vụ.
Khi thực hiện tội phạm thờng là ở những chỗ đông ngời nh các hội hè, các
chợ, bến tầu, bến xe, nhà ga, công viên, rạp hát Đối tợng xâm hại tập trung
14
chủ yếu vào những đồ vật gọn nhẹ có giá trị cao, sau đến tiền mặt rồi đến sức
khỏe và đến tính mạng, danh dự cũng nh những quan hệ khác.
Những thiệt hại của tội phạm do ngời cha thành niên gây ra tuy không
lớn so với tội phạm của ngời lớn, nhng ảnh hởng của nó về mặt xã hội thì không
thể lờng đợc, nó làm mất ổn định trật tự xã hội, gây ảnh hởng xấu đến cuộc sống
yên vui, hạnh phúc của con ngời. Nhiều vụ phạm tội có sự chỉ huy của ngời lớn,
hoạt động lu động, gây án nhanh, tiêu thụ tẩu tán tài sản nhanh và lẩn trốn gây
khó khăn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử.
+ Về năng lực chịu trách nhiệm hình sự, ngời cha thành niên chỉ đợc coi
là chủ thể của tội phạm khi ngời đó có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận
thức đợc hành vi, việc làm của mình, ý thức đợc việc làm đúng sai đối với luật
pháp hình sự, do vậy năng lực chịu trách nhiệm hình sự phải đạt đến một độ tuổi
nhất định và đợc pháp luật thừa nhận. Với độ tuổi của tội phạm do ngời cha
thành niên gây ra theo quy định của BLHS 1999 quy định là từ đủ 14 tuổi đến d-
ới 18 tuổi, trong độ tuổi đó lại đợc chia thành 2 độ tuổi để áp dụng các hình phạt
khác nhau; tuổi từ đủ 14 đến dới 16 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, còn từ đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội. Những quy định đó đòi hỏi các cơ quan
bảo vệ pháp luật phải thực sự lu ý đến ngời cha thành niên khi họ làm trái pháp
luật.
1.1.3. Nguyên tắc xử lý ngời cha thành niên phạm tội của pháp luật
hình sự Việt Nam
Ngời cha thành niên phạm tội đã đợc BLHS năm 1999 nớc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 68 là: từ đủ 14 tuổi đến dới 18
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự.
15
Do vậy để xác định tội phạm có xảy ra hay không, quá trình điều tra
làm rõ hành vi phạm tội cũng nh chứng minh tội phạm của cơ quan điều tra;
mặt khác, để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hình thức xử lý đối với
ngời phạm tội nói chung, ngời cha thành niên phạm tội nói riêng, phải căn cứ
vào các nguyên tắc đợc quy định tại BLHS. Riêng đối với ngời cha thành niên
khi đã xác định họ phạm tội thì việc xử lý các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền
phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Có nh vậy
mới giúp họ nhận thức ra đợc lỗi lầm và sửa chữa để trở thành công dân có ích
cho xã hội. Thể hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN, các biện pháp áp dụng với
ngời cha thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy đợc
tính chất của tội phạm, sự nghiêm minh của pháp luật, bản chất nhân đạo của
các biện pháp áp dụng.
- Khi xem xét hành vi của ngời cha thành niên có phải là tội phạm hay
không, thì nhất thiết phải lu ý đến những dấu hiệu cơ bản của tội phạm đợc
quy định tại Điều 8 của BLHS là:
+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc quy định trong BLHS.
+ Do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý
+ Xâm phạm đến những quan hệ xã hội đợc Luật hình sự nớc Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo vệ.
- Trách nhiệm pháp lý tội phạm của ngời cha thành niên gây ra, luôn
đợc Nhà nớc ta quan tâm bởi đây là lứa tuổi cha phát triển đầy đủ về nhận thức
và hành vi; chính vì vậy, việc xử lý hành vi phạm tội của ngời cha thành niên
đợc quy định rõ trong BLHS, vừa thể hiện tính nhân đạo của chế độ xã chủ
nghĩa Việt Nam vừa phù hợp với tinh thần công ớc của Liên Hiệp quốc đó là
những nguyên tắc sau đây:
16
+ Việc xử lý ngời cha thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ để nhận ra khuyết điểm, sai lầm để kịp thời sửa chữa, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Gia đình, nhà trờng và xã hội
có trách nhiệm tham gia tích cực vào thực hiện những biện pháp t pháp có tính
giáo dục, phòng ngừa ngời cha thành niên phạm tội.
+ Ngời cha thành niên phạm tội có thể đợc miễn trách nhiệm hình sự,
nếu ngời đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây nguy hại
không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và đợc gia đình hoặc cơ quan, tổ chức
nhận giám sát, giáo dục.
+ Việc truy cứu trách nhiệm hình sự ngời cha thành niên phạm tội và
áp dụng hình phạt đối với họ đợc thực hiện chỉ trong trờng hợp cần thiết và
phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, những đặc điểm về nhân thân
và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm đó là:
Ngời cha thành niên phạm tội có nhân thân xấu.
Tội phạm đã thực hiện có tính chất nghiêm trọng.
- Khi xét xử không đợc xử tù chung thân hoặc tử hình đối với ngời cha
thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn Tòa án cho ngời cha thành
niên phạm tội đợc hởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với ngời đã thành
niên phạm tội tơng ứng.
- Không áp dụng hình phạt tiền đối với ngời cha thành niên phạm tội ở
độ tuổi từ đủ 14 đến dới 16 tuổi.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung nh phạt tiền, cấm c trú đối với
ngời cha thành niên phạm tội.
- án đã tuyên đối với ngời cha thành niên phạm tội khi cha đủ 16 tuổi,
thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
17
- Ngoài ra, khi xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội, nhân thân ngời phạm tội có tình tiết giảm nhẹ và xét thấy
không cần thiết phải áp dụng hình phạt, thì áp dụng các biện pháp t pháp là
giáo dục tại xã phờng, thị trấn hoặc đa vào trờng giáo dỡng.
- Tòa án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp t pháp có
tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:
Giáo dục tại xã, phờng, thị trấn;
Đa vào trờng giáo dỡng.
Cùng với những quy định của BLHS về việc xử lý ngời cha thành niên
phạm tội. Để phù hợp với những quy định trên cũng nh mục đích của việc áp
dụng hình phạt là giáo dục, giúp đỡ ngời cha thành niên phạm tội sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh để trở thành ngời có ích cho xã hội. Vì vậy, Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 của nớc Cộng hòa XHCN Việt Nam đã quy định
thủ tục đặc biệt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với ngời cha thành
niên phạm tội.
1.2. Phòng ngừa tội phạm hình sự do ngời cha thành niên gây ra
1.2.1. Khái niệm phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra và
vai trò công tác phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
* Khái niệm phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
Trong nhiều thập kỷ qua nhiệm vụ đấu tranh, chống tội phạm đã đợc
Đảng và Nhà nớc ta quan tâm, chú trọng trong đó nhiệm vụ phòng ngừa tội
phạm đợc đặt lên hàng đầu, có vị trí hết sức quan trọng trong chơng trình
phòng chống tội phạm của quốc gia, do vậy công tác phòng ngừa tội phạm nói
chung và phòng ngừa tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên đã đợc Đảng và
Nhà nớc quan tâm ban hành nhiều văn bản chỉ đạo nhằm quản lý nhà nớc về
an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội.
18
Khi nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
cũng phải nhất quán quan điểm tiếp cận lịch sử, duy vật đối với quá trình phát
triển của xã hội. Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, việc phòng ngừa và khắc phục tình hình tội phạm phải
gắn với các nhiệm vụ biến đổi cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong Cơng lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Đại hội I
năm 1930 đã xác định nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm là đa trở lại cuộc sống
lao động những ai đã xa rời cuộc sống này. Theo phơng châm này ở nớc ta đã
tiến hành thủ tiêu sự bóc lột ngời, sự áp bức dân tộc và xã hội, đói khổ, bần
cùng của quần chúng, nạn thất nghiệp, nạn vô văn hóa mù chữ. Đến Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 8 đã thể hiện một sự quan tâm lớn đến công
tác phòng ngừa tội phạm. Đại hội yêu cầu phải phòng ngừa tội phạm để không
xảy các hiện tợng này. Đại hội đã yêu cầu phải xây dựng chơng trình quốc gia
về phòng chống tội phạm.
Theo Từ điển bách khoa CAND Việt Nam, Nhà xuất bản CAND, Hà
Nội - 2005 thì "Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của nhà nớc và
xã hội nhằm chủ động ngăn chặn không để cho tội phạm xảy ra, không để cho
các thành viên của xã hội phải gánh chịu hậu quả tiêu cực do hành vi phạm tội
gây nên. Nếu có tội phạm xảy ra thì phải kịp thời phát hiện, xử lý đúng ngời,
đúng tội, đúng pháp luật. Tiến hành giáo dục, cải tạo ngời phạm tội trở thành
công dân có ích cho xã hội. Phòng ngừa tội phạm mang tính hệ thống, đồng
bộ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nớc, tổ chức xã hội và
công dân".
Phòng ngừa tội phạm là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp để
ngăn chặn không cho tội phạm phát sinh, phát triển nhằm xóa bỏ các nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, không để tội phạm xảy ra gây hậu quả thiệt hại
cho con ngời và cho xã hội. Nghị quyết 31/NQ-BCT của Bộ Chính trị cũng đã
chỉ rõ: Một trong những nguyên tắc chỉ đạo đấu tranh phòng chống tội phạm,
19
bảo đảm an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội là: "Phát huy sức
mạnh tổng hợp của mọi lực lợng, sử dụng đồng bộ các biện pháp nhằm tích
cực xây dựng, chủ động phòng ngừa, chủ động tấn công và tiến công liên tục
làm tan rã bọn phản cách mạng và bọn tội phạm khác". Đề cập đến công tác
phòng ngừa tội phạm, trớc đây BLHS đặt nhiệm vụ chống tội phạm lên trên
nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm nhng trong giai đoạn hiện nay để nhằm ngăn
chặn và hạn chế đến mức thấp nhất tội phạm xảy ra BLHS năm 1999 đã đặt
nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm lên trên nhiệm vụ chống tội phạm. Quan điểm
này cũng đợc thể hiện cụ thể trong Nghị quyết 09/1998/NQ-CP của Chính phủ
về tăng cờng công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Tại Hội
nghị toàn quốc triển khai Nghị quyết 09 của Chính phủ ngày 23 tháng 3 năm
1999 đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Phó Thủ tớng Thờng trực Chính phủ (nay
là Thủ tớng Chính phủ), Trởng ban chỉ đạo Chơng trình quốc gia phòng chống
tội phạm của Chính phủ đã chỉ rõ: "Thực tiễn công tác phòng chống tội phạm
trong thời gian qua chỉ ra rằng không phải chỉ bắt giam nhiều và xử phạt tù với
mức án cao, kế cả mức án cao nhất thì tội phạm sẽ giảm mà phải phát động
cho đợc phong trào quần chúng đấu tranh phòng chống tội phạm, huy động
cho đợc sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, của toàn xã hội, của từng
hộ gia đình, của từng công dân tự giác tham gia và phải lấy phòng ngừa làm
chính, lấy giáo dục cảm hóa lao động cải tạo làm chính thì mới là nhân tố, giải
pháp cơ bản có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh
phòng chống tội phạm"; Nghị quyết số 40-NQ/TW, ngày 08 tháng 11 năm
2004 của Bộ Chính trị về nâng cao chất lợng và hiệu quả công tác công an
trong tình hình mới cũng đã có quan điểm chỉ đạo lực lợng Công an nhân dân
là "huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức mạnh
của toàn dân, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự ", "Trong đấu tranh
chống các thế lực thù địch, các loại tội phạm, phải chủ động tấn công và tích
cực phòng ngừa, không để bị động, bất ngờ; lấy giữ vững bên trong là chính,
20
kịp thời phát hiện và ngăn chặn những nhân tố có thể dẫn đến những đột biến
bất lợi; không để hình thành tổ chức chính trị phản động, không để xảy ra biến
động chính trị - xã hội, bạo loạn"; Nghị quyết số 08 của Ban chấp hành trung
VIII khóa IX về chiến lợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã chỉ đạo
"Quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động tấn
công với chủ động phòng ngừa giữa "xây" và "chống" trong đó lấy phòng
ngừa là chính và xây dựng là chính. Từ ngày thành lập nớc và đến nay công
tác phòng ngừa tội phạm luôn đợc Đảng, Nhà nớc quan tâm và luôn xác định
là giải pháp cơ bản và hữu hiệu trong đấu tranh chống tội phạm của lực lợng
CAND Việt Nam.
Đối với tội phạm do ngời cha thành niên gây ra, thì phòng ngừa xã hội
có đặc điểm riêng biệt, ngoài việc phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, thể
thao, giải trí, các chính sách của Đảng, Nhà nớc về chăm sóc, giáo dục thanh,
thiếu niên còn phải phối kết hợp và huy động đợc các ban, ngành, đoàn thể
nh Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, ủy ban Bảo vệ - chăm sóc trẻ em tham
gia. Vì vậy, lực lợng CSND trong quá trình tiến hành cần chú ý phối hợp với
các cơ quan, ban ngành trên để tuyên truyền và giáo dục ý thức pháp luật cho
nhân dân nói chung, ngời cha thành niên nói riêng; trong đó cũng cần phải
gắn và lồng ghép việc thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nớc về thanh, thiếu
niên với việc vận động gia đình, nhà trờng, xã hội tham gia vào công tác quản
lý các em. Cũng qua đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi về nhiều mặt giúp các em
yên tâm học hành, sinh hoạt, vui chơi giải trí phù hợp với đặc điểm lứa tuổi
của các em.
Tuy nhiên, để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm hình sự do ngời cha
thành niên gây ra một cách chủ động và tích cực, chúng ta phải biết kết hợp
đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, từ phòng ngừa xã hội đến phòng ngừa
nghiệp vụ. Vì đây là hai mức độ tạo thành hệ thống phòng ngừa tội phạm có
mối quan hệ, tác động và hỗ trợ lẫn nhau. Từ làm tốt công tác phòng ngừa xã
21
hội, sẽ tạo cơ sở, nền tảng cho công tác phòng ngừa nghiệp vụ; ngợc lại phòng
ngừa nghiệp vụ tốt, giải quyết tốt các vấn đề cụ thể trong hoạt động phòng
ngừa nghiệp vụ sẽ giúp cho vấn đề phòng ngừa xã hội thuận lợi và có hiệu
quả.
Với cách thức tiếp cận những vấn đề trên, có thể đa ra khái niệm về
phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra: "Phòng ngừa tội phạm do
ngời cha thành niên gây ra là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp để
ngăn chặn không cho tội phạm phát sinh, phát triển nhằm xóa bỏ các nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, không để tội phạm do ngời cha thành niên xảy ra
gây hậu quả thiệt hại cho con ngời và cho xã hội".
Từ khái niệm trên cho thấy những đặc trng cơ bản về đối tợng của hoạt
động phòng ngừa, chủ thể tham gia phòng ngừa, các biện pháp tiến hành và
mục đích của công tác phòng ngừa tội phạm.
- Về đối tợng của hoạt động phòng ngừa ngời cha thành niên phạm tội
là những nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển tội phạm trong lứa tuổi
cha thành niên.
- Chủ thể tham gia phòng ngừa ngời cha thành niên phạm tội là: cơ
quan nhà nớc, tổ chức xã hội và mọi công dân trong đó cơ quan công an là chủ
thể trực tiếp và nòng cốt trong đấu tranh chống tội phạm do ngời cha thành
niên gây ra.
- Biện pháp tiến hành hoạt động phòng ngừa là: pháp luật, nghiệp vụ,
hành chính, tổ chức, giáo dục văn hóa, phẩm chất, đạo đức, thể chất, dạy
nghề.v.v
- Mục đích của phòng ngừa là: hạn chế đến mức thấp nhất các em vi
phạm pháp luật nói chung và phạm tội nói riêng.
22
Với những đặc điểm của phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên
gây ra nói trên đã cho thấy sự khác biệt với phòng ngừa các loại tội phạm khác
đó là các cơ quan, tổ chức xã hội và mọi công dân đều tập trung phòng ngừa
và xóa bỏ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm do ngời cha
thành niên gây ra.
* Vai trò công tác phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
- Việc phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm do ngời cha thành
niên gây nói riêng có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của một quốc gia. Đối với nhà nớc hiện nay đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc, mở cửa giao lu kinh tế - văn
hóa với các nớc trong khu vực, thế giới và đang có nhiều điều kiện và thời cơ
để thúc đẩy nền kinh tế nớc ta sánh kịp với các nớc trong khu vực. Bên cạnh
đó cũng có không ít những khó khăn, thách thức, nhất là tình hình các nớc đối
lập đang có những chủ trơng, biện pháp chống phá ta bằng mọi cách nh: "Dân
chủ", "Nhân quyền" hoặc chúng tác động vào đội ngũ cán bộ của ta làm cho ta
"Tự diễn biến", "Tự đổi màu"
Do vậy, công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tội
phạm trong lứa tuổi ngời cha thành niên nói riêng có một vị trí hết sức quan
trọng trong công tác đấu tranh chống tội phạm nhằm đảm bảo ANTT. Phòng
ngừa tội phạm là nhằm tìm ra nguyên nhân và điều kiện phát sinh, phát triển tội
phạm từ đó có sách lợc phù hợp để xóa bỏ những nguyên nhân và điều kiện tội
phạm đó. Đối với chính sách của Đảng và Nhà nớc ta hiện nay tăng việc cờng,
chú trọng đến công tác phòng ngừa tội phạm là phù hợp với đạo đức, lối sống
và mong muốn của mọi ngời trong xã hội Việt Nam, đồng thời nó cũng mang
lại lợi ích cho nền kinh tế còn chậm phát triển của nớc ta hiện nay.
Tội phạm là ngời cha thành niên là một bộ phận trong cơ cấu tội phạm
nói chung, vì vậy phòng ngừa tội phạm là ngời cha thành niên không thể tách
23
rời khỏi công tác phòng ngừa tội phạm. Do đó phòng ngừa ngời cha thành
niên phạm tội là góp phần vào việc bảo vệ ANTT. Đồng thời phòng ngừa ngời
cha thành niên phạm tội còn có vị trí rất quan trọng trong việc bảo vệ thế hệ t-
ơng lai cuộc sống có ích hơn để góp phần xây dựng đất nớc.
Theo PGS. TS Nguyễn Xuân Yêm đã viết: "Dới chế độ ta, tội phạm và
các vi phạm pháp luật đợc xem nh những nhân tố bảo thủ làm cản trở sự tiến
bộ của xã hội, kìm hãm việc hoàn thiện các quan hệ xã hội, chống lại nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa và là nhân tố chính gây nên sự bất ổn định về an ninh xã
hội. Bởi vì, bất kỳ một sự vi phạm pháp luật nào nhất là tội phạm đều gây ra
cho xã hội những thiệt hại nhất định, gây nên nỗi bất bình và tâm lý lo lắng
trong nhân dân, làm tổn hại đến tính mạng và tài sản, làm rạn nứt lòng tin của
nhân dân đối với uy tín của Đảng và chế độ nhà nớc".
- Từ những vấn đề nêu trên cho thấy công tác phòng ngừa tội phạm do
ngời cha thành niên gây ra là một việc hết sức quan trọng để từng bớc xây
dựng đất nớc phát triển; do đó nhiệm vụ phòng ngừa phải đợc tiến hành một
cách đồng bộ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp, các đoàn thể, tổ
chức xã hội và mọi công dân trong xã hội, mà CAND là lực lợng nòng cốt.
Tuy nhiên, để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm do ngời cha thành niên gây ra
một cách chủ động và tích cực, chúng ta phải biết kết hợp đồng bộ các biện
pháp phòng ngừa, từ phòng ngừa xã hội đến phòng ngừa nghiệp vụ. Vì đây là
hai mức độ tạo thành hệ thống phòng ngừa tội phạm có mối quan hệ, tác động
và hỗ trợ lẫn nhau. Từ làm tốt công tác phòng ngừa xã hội, sẽ tạo cơ sở, nền
tảng cho công tác phòng ngừa nghiệp vụ; ngợc lại phòng ngừa nghiệp vụ tốt,
giải quyết tốt các vấn đề cụ thể trong hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ sẽ giúp
cho vấn đề phòng ngừa xã hội thuận lợi và có hiệu quả.
+ Phòng ngừa xã hội, đây là biện pháp có tính chất chung, rộng rãi và
phòng ngừa từ xa, nh biện pháp phát triển kinh tế, chính trị, pháp luật, giáo
24
dục, văn hóa với sự tham gia của cả hệ thống chính trị từ trung ơng xuống
địa phơng. Từ đó làm xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện phạm tội của ngời cha
thành niên, góp phần hạn chế sự gia tăng của tội phạm.
+ Phòng ngừa nghiệp vụ là toàn bộ các biện pháp mang tính đặc trng
chuyên môn nghiệp vụ đợc sử dụng để tập trung phòng ngừa tội phạm nói
chung, một nhóm tội phạm hoặc những hành vi phạm tội cụ thể.
Đặc trng của phòng ngừa nghiệp vụ là quy mô sử dụng các biện pháp
thu hẹp hơn, chủ thể tiến hành hẹp hơn so với phòng ngừa xã hội, các biện
pháp áp dụng mang tính thiết thực và nghiệp vụ chuyên môn có tính đặc thù
của CAND. Tức là chủ thể sử dụng các biện pháp phòng ngừa nhằm vào đối t-
ợng cụ thể, cá biệt cần phải phòng ngừa và có mục đích, nhiệm vụ cụ thể. Do
vậy tùy theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng chủ thể tham gia hoạt động
phòng ngừa mà sử dụng các biện pháp phòng ngừa sao cho phù hợp. Lực lợng
Cảnh sát nhân dân có vai trò cực kỳ quan trọng, là lực lợng nòng cốt trong
hoạt động phòng ngừa tội phạm hình sự do ngời cha thành niên gây ra nói
riêng. Do vậy, để hoạt động phòng ngừa tội phạm hình sự là ngời cha thành
niên thực hiện, lực lợng Cảnh sát nhân dân thờng sử dụng các hoạt động
nghiệp vụ và các mặt công tác đặc trng của mình nh: công tác su tra hình sự;
công tác xác minh hiềm nghi; chuyên án trinh sát; xây dựng và sử dụng mạng
lới bí mật, công tác quản lý, giáo dục trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em có nguy
cơ làm trái pháp luật.v.v đây là những biện pháp có vai trò quan trọng trong
hoạt động phòng ngừa tội phạm do ngời cha thành niên gây ra.
Đối với công tác nghiệp vụ của lực lợng CSND, làm tốt công tác
phòng ngừa tội phạm sẽ làm nền tảng rất vững chắc cho công tác đảm bảo
TTATXH, nắm chắc tình hình di biến động tội phạm, phát hiện và xử lý kịp thời
tội phạm, hạn chế sự gia tăng của tội phạm hạn chế thấp nhất hậu quả tác hại do
tội phạm nói chung và tội phạm do ngời cha thành niên gây ra nói riêng.
25