Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.35 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Một trong những nội dung cơ bản và nhất quán của Tư tưởng Hồ Chí
Minh là giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, cách mạng
giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Ngay từ rất sớm
Người đã nói rõ "ham muốn" tột bậc của mình là làm sao cho đất nước được
hoàn toàn độc lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Hơn 30 năm ra đi tìm đường cứu nước,
cuối cùng Người khẳng định, tin tưởng rằng: chỉ có CNXH mới là con
đường để "ham muốn" đó được thực hiện. Tư tưởng của Người đã trở thành
tư tưởng hướng đạo cho cách mạng Việt Nam.
Thực tế cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện
CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Không
giành được độc lập dân tộc thì không có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc
lập dân tộc thật sự đòi hỏi xóa bỏ áp bức, nô dịch của dân tộc này với dân
tộc khác, gắn liền độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân
dân, do đó chỉ có thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN. Chính nhờ sự
kiên định nội dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, viết nên trang lịch sử Việt Nam anh hùng với
những mốc son chói lọi: Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
và cả nước đi lên xây dựng CNXH. Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp
lòng dân đó đã được Đảng quán triệt xuyên suốt trong cả tiến trình cách
mạng, đặc biệt là trong quá trình đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc XHCN.
Đại hội lần thứ VI (12/1986) của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới đất
nước đã khẳng định: "Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một
lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ


2


vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"1. Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "Nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách
mạng nước ta"2. Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và CNXH, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại
cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Tiếp tục dòng chảy xuyên suốt và thống nhất của lịch sử, Báo cáo
chính trị được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
xác định bài học quan trọng đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới là: "Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh" 3. Xác định
rõ đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu CNXH mà là quan niệm đúng đắn
hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và
biện pháp phù hợp.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) - Đại hội đầu tiên của thế
kỷ XXI, đại hội của dân chủ, trí tuệ, đoàn kết và đổi mới đã tiếp tục khẳng
định: "Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh"4. Như vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên thực tế
đã trở thành dòng chủ lưu, là tư tưởng xuyên suốt, được quán triệt và đề cao
trong sự nghiệp đổi mới mà toàn dân ta đang tiến hành.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4/2006), đã tổng kết 20 năm đổi
mới và rút ra một số bài học kinh nghiệm lớn, trong đó khẳng định: “Trong
quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, H.1987, tr.37.


2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.4.
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Sự thật, H.1996, tr.70.

4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.CTQG, H.2001, tr.81


3
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” 5. Đổi
mới không phải từ bỏ mục tiêu CNXH mà làm cho CNXH được nhận thức
đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tổng kết bài học của
hơn 80 năm cách mạng Việt Nam, tiếp tục khẳng định bài học: “Nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ vinh quang mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược
có quan hệ chặt chẽ với nhau”6.
Chính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài
tình của Đảng mà nhân dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu
CNXH trong khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái
trào, tan rã; tạo cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh của cách mạng Việt

Nam trên trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân ngày
càng được củng cố, tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn,
triệt để hơn của thời kỳ CNH - HĐH.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề
xã hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết tốt như tình trạng thiếu việc
làm, sự gia tăng của tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận
nhân dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là nguy cơ chệch hướng
XHCN; tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới; "diễn biến hòa bình" và tệ quan liêu tham nhũng của một bộ phận cán
bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp thì việc giữ vững
định hướng, mục tiêu XHCN càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H.2006, tr.70

6

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG, H.2011, tr.65.


4
Từ những vấn đề trên nghiên cứu sinh chọn vấn đề: “Những vấn đề
cần nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai
đoạn hiện nay” làm tiểu luận.
NỘI DUNG
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hiện nay
là tất yếu khách quan
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (30/4/1975),
cả nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), mở ra giai

đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam, độc lập dân tộc và CNXH hòa
quyện vào nhau. Dân tộc Việt Nam là dân tộc XHCN. Trong giai đoạn mới
của cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì, giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH, đó là nền tảng của mọi chiến lược, sách lược
trong cách mạng XHCN.
Do quy luật phát triển không đều, CNXH không thể đồng thời được
xây dựng trên phạm vi toàn thế giới, mà chỉ được xây dựng trên một số
nước. Trong điều kiện đó, các nước XHCN muốn tồn tại và phát triển, chiến
thắng được mọi kẻ thù bên trong và bên ngoài phải kết hợp chặt chẽ giữa hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó là quy
luật của cách mạng XHCN.
Ngày nay, đất nước ta đã giành được độc lập, song nền độc lập còn bị
đe dọa bởi âm mưu và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Nền độc
lập mới giành được trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân còn
phải tiếp tục củng cố, xây dựng trong quá trình cách mạng XHCN, làm cho
nền độc lập nước ta thực sự bền vững, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc. Trong điều kiện như thế, cách mạng Việt Nam tiếp tục phải
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc.
Ngày nay, cả nước đang tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH
trên đất nước ta. Chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trực tiếp mà toàn Đảng, toàn


5
dân, toàn quân đang thực hiện. Công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta
đã và đang giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử tạo nên sức mạnh
to lớn để bảo vệ Tổ quốc, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, nâng
cao địa vị quốc tế của Đảng ta, cách mạng nước ta. Song bên cạnh đó, sự
nghiệp xây dựng CNXH trên đất nước ta còn nhiều sai lầm, khuyết điểm,
cách mạng nước ta đang đứng trước nguy cơ to lớn. Để tranh thủ thời cơ,
đẩy lùi những nguy cơ, thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đạt hiệu

quả, giữ được định hướng XHCN, Đảng và nhân dân ta phải kiên trì con
đường XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Từ thực tiễn quá trình cải cách, cải tổ của các nước XHCN trên thế
giới, ở đâu Đảng cộng sản cầm quyền lãnh đạo giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và CNXH, cách mạng ở đó sẽ thành công, vừa giữ vững được độc
lập dân tộc, vừa giữ vững được chế độ XHCN. Ngược lại, ở đâu không
giương cao cả hai ngọn cờ, ở đó độc lập dân tộc và CNXH đứng trước sự
thử thách một mất một còn. Đó là bài học kinh nghiệm lớn đối với cách
mạng XHCN trên thế giới hiện nay.
Từ lý luận, thực tiễn Việt Nam và thế giới trong những năm qua đã
khẳng định trong giai đoạn cách mạng XHCN phải tiếp tục giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và CNXH. Không thể chỉ giương cao ngọn cờ CNXH, hạ
thấp ngọn cờ độc lập dân tộc hoặc ngược lại, như vậy, cách mạng XHCN sẽ
bị thất bại.
2. Nội dung nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
hiện nay của cách mạng Việt Nam
Một là, tiếp tục kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã kiểm
nghiệm, CNXH là con đường bảo đảm cho độc lập bền vững và cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Vì vậy, đổi mới là làm cho CNXH tiếp
tục được nhận thức đầy đủ hơn, được thực hiện bằng những nội dung, hình


6
thức mới, làm cho chủ nghĩa xã hội sống động, phát triển chứ không phải
thay đổi CNXH. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong thời gian qua tuy có
nhiều khó khăn, thậm chí có lúc tưởng chừng không thể vượt qua nổi. Đặc
biệt là tác động từ sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên Xô đã ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân.

Nhưng do kiên trì với những nguyên tắc căn bản của CNXH, cho nên cách
mạng Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, liên tiếp giành được những
thành tựu to lớn, giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế cao, đời
sống nhân dân ngày càng được cải thiện… qua đó chứng tỏ đường lối đổi
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở giữ vững mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH là đúng đắn, ngày càng phát huy hiệu quả to lớn.
Vì vậy, bên cạnh việc khẳng định con đường đi lên CNXH, là tất yếu
khách quan và có thể thực hiện được, chúng ta cần phê phán những biểu
hiện lệch lạc, dao động, hoài nghi, suy giảm lòng tin mục tiêu độc lập và
CNXH. Đặc biệt, phê phán những khuynh hướng nhân danh đổi mới, tìm
kiếm con đường phát triển đất nước để lái con đường cách mạng Việt Nam
theo con đường CNXH dân chủ, chủ nghĩa tư bản…
Hai là, nắm vững và thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn mới.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là
sự vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quy luật dựng
nước đi đôi với giữ nước của dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm lịch
sử vào điều kiện mới.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI (1/2011) của Đảng đều xác định đúng đắn và ngày càng
rõ hơn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng


7
CNXH phải nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ
thành quả cách mạng. Xây dựng thành công CNXH sẽ tạo ra những tiền đề
cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc. Mặt khác, tăng cường sức mạnh bảo vệ

Tổ quốc sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
cuộc sống của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây dựng
CNXH phát triển ổn định, vững chắc.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, cần
phải đổi mới tư duy về kết hợp hai nhiệm vụ đó cho phù hợp với đặc điểm
tình hình mới. Hiện nay, phải tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để đẩy
nhanh tốc độ xây dựng CNXH. Trong xây dựng đã chứa đựng nội dung
bảo vệ, xây dựng đất nước đạt hiệu quả, tạo điều kiện bảo vệ Tổ quốc. Do
đó, phải tăng cường sức mạnh đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Ngược lại, bảo vệ tốt sẽ tạo điều kiện để xây dựng có hiệu quả.
Kết hợp xây dựng và bảo vệ trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, của mọi cấp, mọi ngành. Sự kết hợp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay phải được quán triệt trong đường lối, chủ trương, chính sách,
trong quy hoạch, kế hoạch cụ thể, từ Trung ương đến địa phương.
Trong khi thực hiện sự kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, quân và dân ta cần phải phê phán tư tưởng và hành động
muốn tuyệt đối hóa một nhiệm vụ nào đó, hoặc tách rời mối quan hệ mật
thiết hai nhiệm vụ chiến lược đó với nhau.
Ba là, nắm vững và vận dụng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn Việt Nam, định ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng.
Chủ nghĩa xã hội không có mô hình chung, nhưng có quy luật chung,
nguyên tắc chung mà bất cứ ở đâu cũng phải tuân theo, đó là những nguyên
lý căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa xã hội lại xây dựng trên mỗi
quốc gia, dân tộc với những đặc điểm lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa
khác nhau. Vì vậy, Đảng Cộng sản cầm quyền ở mỗi nước phải biết vận dụng


8
sáng tạo những quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ

thể của mỗi nước để định ra đường lối, phương pháp cách mạng phù hợp.
Đối với nước ta, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định lý luận
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam chỉ
đạo cách mạng nước ta. Đó là cơ sở lý luận để định ra đường lối đổi mới,
xây dựng CNXH ở Việt Nam. Muốn vậy, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân không ngừng nắm vững, có hệ thống, toàn diện bản chất cách mạng,
khoa học chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; biết vận dụng, phát
triển sáng tạo trong điều kiện cụ thể Việt Nam, để từng bước hình thành nên
tư duy mới, quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên CNXH
ở nước ta. đồng thời chúng ta phải phê phán, đấu tranh với các quan điểm sai
trái, góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối đổi mới của Đảng.
Bốn là, phát huy mọi nguồn lực trong nước, ngoài nước, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực chất, đó là sự kết hợp nội lực với ngoại lực nhằm tạo nên sức mạnh
tổng hợp để xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát
huy nội lực có ý nghĩa quyết định, yếu tố ngoại lực rất quan trọng, nhưng phải
thông qua các yếu tố bên trong mới có thể phát huy được tác dụng.
Nguồn lực bên trong bao gồm các yếu tố lịch sử, truyền thống dân tộc;
đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn; thành tựu về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại do công cuộc đổi mới đưa lại; tài
nguyên đất nước, tinh thần lao động cần cù, thông minh, sáng tạo của nhân dân.
Nguồn lực bên ngoài là, sự phát triển của khoa học, công nghệ trên thế
giới; tinh thần đoàn kết, hợp tác quốc tế; xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác kinh
tế quốc tế, phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta
phải chủ động thực hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.


9

Muốn vậy, Đảng, Nhà nước phải định ra đường lối đối nội, đối ngoại,
chủ trương, chính sách, chỉ đạo sự kết hợp đó có hiệu quả. Phải phát huy
tính năng động, tự chủ, sáng tạo của mọi cấp, mọi ngành trong quá trình mở
rộng hợp tác quốc tế, nhất là lĩnh vực kinh tế.
Quá trình thực hiện sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại không thể trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài; khắc phục tư tưởng tự ti dân
tộc, hoặc tư tưởng nước lớn trong quan hệ quốc tế. Giữ vững độc lập, chủ
quyền, lợi ích quốc gia trong quá trình thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
3. Những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết để thực hiện thắng
lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trong quá trình đổi mới, cũng như xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử thế
giới, trong nước hiện nay đang đặt ra những vấn đề mới, cả về nhận thức lý
luận, cũng như tổ chức thực hiện, cần tập trung giải quyết tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, giải phóng và phát triển mạnh
mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột
phá nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập
thấp để đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Thứ hai, triển khai và thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH một
cách đồng bộ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị đồng bộ trong hệ
thống quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà
nước, các qui định, qui tắc hoạt động, nhưng không giáo điều chủ quan, tôn
trọng qui luật khách quan, coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Thứ ba, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, lựa chọn chính
xác hình thức, bước đi, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm trong từng giai



10
đoạn, tránh dàn trải, thực hiện nghiêm túc quan điểm của Đảng: lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời đổi mới hệ thống chính trị từng bước vững
chắc, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Thứ tư, chuyển mạnh sang cơ chế thị trường nhưng giữ vững định
hướng XHCN, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
an ninh quốc gia, thực hiện các nguyên tắc thị trường, hình thành đồng bộ
và hoàn thiện các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường phù hợp với
đặc điểm nước ta. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
kinh tế đối ngoại gắn với khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Thứ năm, trong quá trình thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH
cần nắm vững và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lớn như: quan hệ
giữa đổi mới kinh tế, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
hệ thống chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản
xuất; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa
độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
Quá trình Đảng và nhân dân ta thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trong hơn 25 năm đổi mới vừa qua, đã diễn ra trong bối cảnh tình
hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp. Nhưng
dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự điều hành quản lý của Nhà nước; sự chỉ đạo
năng động, sáng tạo của Chính phủ, của các cấp, các ngành, các doanh
nghiệp, nhân dân ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Do đó, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH không những được giữ vững
mà còn phát triển vững chắc, tạo tiền đề cho sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tương lai.



11
4. Đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái về vấn đề nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Hiện nay công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc, vì CNXH do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo diễn ra trong bối cảnh thế giới, khu vực và trong
nước có nhiều diễn biến phức tạp đã và đang gây ra những biến động lớn,
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH. Đặc biệt, sau khi các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô tan rã,
tương quan so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng đã có sự
thay đổi, có lợi cho chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ); trật tự thế giới hai cực đã bị
phá vỡ. Thừa cơ hội đó, CNĐQ tăng cường hoạt động chống phá, thực hiện
âm mưu xóa bỏ triệt để CNXH. Thay thế chiến lược “vượt trên ngăn chặn”
bằng chiến lược “triệt tiêu kẻ thù” không chỉ xóa bỏ các nước XHCN còn lại
mà còn làm cho CNXH không phục hồi được. Chúng đẩy mạnh chiến lược
“diễn biến hòa bình” một cách tinh vi hơn, trực tiếp dính líu để đẩy nhanh tự
diễn biến, tự chuyển hóa chế độ từ trong lòng các nước XHCN.
Trong nước, đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội VI của
Đảng (12/1986) xác định, được các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng
tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển đã được quần chúng tiếp nhận và đi
vào cuộc sống; công cuộc đổi mới từng bước khắc phục khó khăn, đời sống
nhân dân không ngừng được cải thiện, dân chủ trong xã hội được phát huy,
song nhìn chung, tình hình đất nước trong quá trình thực hiện đường lối đổi
mới hơn 25 năm qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nó tác động trực tiếp tới
việc thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
CNĐQ vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, chúng thi hành
chính sách bao vây, cấm vận và dùng sức ép lôi kéo các nước chống phá
Việt Nam. Chúng tiến hành chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống Việt Nam
bằng các thủ đoạn bao vây triệt để về kinh tế, cô lập bằng ngoại giao, kích

động, nhen nhóm các tổ chức phản động bên trong; lợi dụng, phối hợp với
các tổ chức chống Việt Nam từ bên ngoài để gây biến động về chính trị và


12
thực hành bạo loạn lật đổ. Đặc biệt, sau khi các nước XHCN Đông Âu và
Liên Xô sụp đổ, chúng coi đây là “hồi chuông báo tử giành cho phong trào
cộng sản” và một đòn báo tử đánh vào chính phủ cộng sản khác, do đó phải
tận dụng thời cơ chuyển trọng tâm sang xóa bỏ các nước XHCN còn lại,
Việt Nam được chúng xác định là một trọng tâm.
Các lực lượng phản động trong và ngoài nước, các phần tử cơ hội, xét
lại, thoái hóa biến chất... được sự hỗ trợ của CNĐQ và các thế lực thù địch
tăng cường hoạt động chống phá nước ta. Chúng đã gây ra nhiều vụ lộn xộn
có tính chất bạo động như ở Thái Bình (1997), Tây Nguyên (2001 và
2004)... nhằm phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Tình hình
biên giới, biển đảo còn nhiều vấn đề phức tạp; lợi dụng tình hình đó, chúng
ra sức tuyên truyền nhằm làm giảm lòng tin của nhân dân ta vào sự lãnh đạo
của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; làm sai lệch nhận thức của
quần chúng và một bộ phận cán bộ, đảng viên về tính đúng đắn của mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH. Chúng cho rằng: “đất nước đã độc lập, mục tiêu
độc lập dân tộc đã hoàn thành nhưng vấn đề dân chủ chưa hoàn thành” nên
“cần gác mục tiêu CNXH và quay về với cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân để giải quyết nốt vấn đề dân chủ”...
Vậy, hiện nay nước ta “liệu có thể tạm gác lại mục tiêu CNXH và quay
về với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ?”. Để có thể trả lời thấu đáo
câu hỏi trên, cần trở lại lịch sử của dân tộc, của cách mạng Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX. Trước dã tâm và hành động xâm lược của thực dân
Pháp, triều đình nhà Nguyễn lúc đó chống cự yếu ớt và dần dần đi tới đầu
hàng, thậm chí các thế lực phong kiến phản động, phản dân tộc còn quay
sang cấu kết với thực dân xâm lược để vớt vát quyền cai trị của mình.

Xã hội Việt Nam từ khi Pháp áp đặt sự thống trị, là một xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến, dân tộc không có độc lập, nhân dân không có tự do,
dân chủ. Nhân dân ta không cam chịu, đã liên tục đấu tranh, nhưng các
phong trào yêu nước trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đều thất bại.


13
Nguyên nhân cơ bản nhất của sự thất bại đó là các nhà lãnh đạo các
phong trào này thiếu một tầm nhìn của thời đại mới, không chỉ ra một cách
đúng đắn mục tiêu lâu dài và mục tiêu trước mắt của cách mạng Việt Nam,
không xác định đúng và đầy đủ đối tượng mà cách mạng Việt Nam cần đánh
đổ… Do đó, không lôi cuốn và tập trung được sức mạnh của toàn dân.
Những sai lầm và hạn chế đó chỉ được khắc phục khi lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc tìm thấy con đường cách mạng vô sản, chuẩn bị và tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay từ lúc mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
mục tiêu trước mắt là phải làm cuộc cách mạng để đánh đổ chế độ thực dân
Pháp xâm lược và phong kiến phản động, giành độc lập dân tộc dân chủ, với
khẩu hiệu “Dân tộc độc lập, người cày có ruộng”, chuẩn bị những tiền đề cơ
bản để đi lên CNXH. Lộ trình đó của cách mạng Việt Nam rõ ràng bao gồm
hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Hai giai đoạn này kế tiếp nhau, có mục tiêu, nội dung, phương
thức khác nhau, nhưng đều nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, bởi nó
được một chính đảng của giai cấp công nhân - đại biểu cho lợi ích của nhân
dân và cả dân tộc Việt Nam lãnh đạo.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có nhiệm vụ cơ bản là đánh đổ
ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai bán nước, giành độc lập dân
tộc và dân chủ. Trong những điều kiện cụ thể của thế giới, của Việt Nam lúc
đó và đặc biệt là trước bản chất ngoan cố, hiếu chiến của thực dân, phong
kiến, để thực hiện mục tiêu dân tộc và dân chủ, cách mạng Việt Nam không

còn con đường nào khác là phải sử dụng những phương thức của cách mạng
bạo lực là khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng. Thực tiễn đã chứng
minh việc xác định nội dung, phương thức đó là hoàn toàn phù hợp, được cả
dân tộc đồng tình, chung sức và đã đi đến thắng lợi vào mùa xuân 1975.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giành thắng lợi trọn vẹn chính là
vì nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, hướng tới CNXH và có sức mạnh


14
của CNXH. Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai
đoạn tiếp theo tất yếu phải là tiến lên CNXH.
Những điều cơ bản trên đây, bất cứ ai có đôi chút kiến thức về lịch
sử dân tộc Việt Nam hiện đại đều có thể dễ dàng chấp nhận. Vậy tại sao, cho
đến những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI này, vẫn có người cho rằng “Việt
Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội là một điều kỳ quặc” và họ lên tiếng kêu gọi
“hãy quay về với, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chắc đây không
phải là ý kiến xuất phát từ sự thiếu kiến thức lịch sử, kiến thức về sự vận
động hợp quy luật của CNXH. Phải chăng, điều cốt yết là ai đó muốn xóa
bỏ mục tiêu CNXH, gạt bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc
đổi mới hiện nay.
Cần nói ngay rằng, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, khi xác
định trước mắt phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng đã đồng thời khẳng định đây là cuộc cách mạng
của toàn dân, của cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sự
lãnh đạo đó là điều tiên quyết đảm bảo cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đi đến thắng lợi hoàn toàn. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân cũng
đồng nghĩa với việc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải nhằm mục
tiêu chuẩn bị cho giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng (2/1930) đã vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt

Nam:“Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản”7. Tính chất giai đoạn và lý luận cách mạng không
ngừng đã được thể hiện trong Cương lĩnh: Cách mạng tư sản dân quyền là
thời kỳ dự bị để tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối cơ bản của
cách mạng Việt Nam được phản ánh trong Cương lĩnh đã thể hiện rõ tư
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là ngọn cờ tập hợp lực lượng
cách mạng, là cơ sở để giải quyết đúng đắn các vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là nguyên nhân căn bản dẫn đến thắng lợi của cách mạng.
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2003, tập 2, tr.2.


15
Sau đó, được Luận cương chính trị (10/1930) của Đảng tiếp tục khẳng định
và phát triển: “Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm cách
mạng xã hội. Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi…xứ Đông
Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát
triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ
nghĩa”8. Như vậy, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
cách mạng XHCN là tất yếu khách quan.
Ngày nay, khi mà cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã được
hoàn thành, tuy những tàn dư của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến vẫn
còn phải tiếp tục giải quyết, song không thể đặt vấn đề phải quay lại làm
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ý kiến của ai đó nếu không xuất phát
từ một sự bế tắc, thì cũng là sự luẩn quẩn của tư duy hoặc chỉ là cách để họ
muốn bác bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa, một định hướng mà cả dân tộc ta
đã chọn, đã đổ biết bao mồ hôi, xương máu để xây dựng và bảo vệ.
Thời đại ngày nay chắc chắn không ai đồng tình việc quay lại xã hội
phong kiến. Vậy thì, chỉ có thể là CNXH hoặc chủ nghĩa tư bản. Sự lựa

chọn này thuộc về nhân dân, thuộc về mỗi dân tộc. Những người muốn
chúng ta gác lại mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thực chất là muốn đưa dân tộc
ta, nhân dân ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư bản chủ
nghĩa, một chế độ xã hội dựa trên cơ sở áp bức, bóc lột mà chính nhân dân
tiến bộ các nước đó cũng không đồng tình, thậm chí chống lại. Thực tiễn thế
giới và Việt Nam cho thấy, các thế lực bóc lột và áp bức chưa từng từ bỏ
quyền lợi của mình - một thứ quyền lợi đối lập với quyền lợi của nhân dân
lao động và các dân tộc độc lập.
Đối với dân tộc ta, trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, CNXH mới chỉ là mục tiêu, phương hướng để tiến lên. Mặc dù vậy,
chính mục tiêu đi lên CNXH đã có ý nghĩa quyết định tới toàn bộ mục tiêu
cụ thể, nội dung, phương thức, lực lượng của cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Để đi lên CNXH, phải đánh đổ triệt để sự thống trị của thực
8

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2003, tập 2, tr.93-94


16
dân, đế quốc, giải quyết triệt để ách áp bức dân tộc, giành lấy quyền tự do,
dân chủ của nhân dân. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước CNXH
vừa hiện diện với tư cách là mục tiêu, vừa với tư cách là một chế độ xã hội
hiện thực ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đã tạo nên một hậu phương vững
chắc, một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng cả nước thời kỳ 1954
- 1975. Cũng vì có một mục tiêu, một nội dung mang tính thời đại và tiến bộ
như vậy, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Việt Nam được sự
đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân tiến bộ toàn thế giới, kể cả nhân
dân Pháp và Mỹ.
Sau năm 1975, đúng là CNXH hiện thực trên thế giới và ở nước ta
đã có những biểu hiện trì trệ. Đảng Cộng sản Việt Nam đã mắc những sai

lầm về chủ trương, về chỉ đạo chiến lược, nhất là tư duy quan liêu bao cấp
chậm được khắc phục. Nhưng cũng chính Đảng Cộng sản Việt Nam đã tự
chỉnh đốn, tự đổi mới, được toàn dân ủng hộ và cùng với toàn dân làm nên
một công cuộc đổi mới có tính cách mạng theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chính định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định rõ ràng và được
giữ vững đã đưa công cuộc đổi mới giành được những thành tựu to lớn.
Vậy những người muốn chúng ta rời bỏ định hướng xã hội chủ
nghĩa, phải chăng là muốn đưa đất nước ta đi vào ngõ cụt, đi đến đổ vỡ ?
Vừa qua, cùng với thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đúng là trong xã hội ta, trong Đảng
Cộng sản Việt Nam vẫn còn những hạn chế, thiếu sót, thậm chí có hạn chế,
thiếu sót rất nghiêm trọng và kéo dài. Những tiêu cực trong nhiều mặt của
đời sống xã hội, sự cách biệt khá lớn về mức sống của các tầng lớp xã hội,
đặc biệt là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí nghiêm trọng trong bộ máy
của Đảng, Nhà nước đã gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Để giải quyết
những ung nhọt này, giải pháp đúng đắn không phải là từ bỏ định hướng xã
hội chủ nghĩa, mà ngược lại, phải kiên định hơn nữa định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chỉ có thể giải quyết tận gốc vấn đề này với điều kiện phải tăng


17
cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tăng cường vai trò tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường vai trò lãnh đạo của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong quản lý, điều hành xã hội phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Đó là con đường bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Không thể ''tạm gác lại mục tiêu chủ nghĩa xã hội và quay về cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân'' như ai đó đã nói, mà là tiếp tục tiến lên
trên con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ
nghĩa, bởi đây là con đường mà Đảng, Bác Hồ và toàn thể nhân dân Việt

Nam đã chọn – một lựa chọn của chính lịch sử dân tộc Việt Nam.

KẾT LUẬN
Hơn 80 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được
một phần sứ mệnh lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song
con đường đi lên CNXH của dân tộc ta phía trước không hoàn toàn bằng
phẳng, trơn tru và thẳng tắp. Sự đan xen phức tạp giữa những thời cơ và
thách thức mà thời đại đặt ra, buộc dân tộc ta, Đảng ta và bản thân mỗi
người dân Việt Nam chúng ta phải "lớn" hơn ngày hôm qua. Trên “bệ
phóng” của những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đã đạt
được trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN gần 30
năm qua, lớp lớp các thế hệ người Việt Nam, trước hết là thế hệ trẻ - những
chủ nhân tương lai của đất nước khát khao được là người kế nghiệp xứng
đáng. Thiết nghĩ, để khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước hết
phải là sự trung thành đối với Tổ quốc, với mục tiêu của cách mạng và lý
tưởng của Đảng, của nhân dân là: “Quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”9; kiên định lập trường cách mạng, thấm nhuần chủ
nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới; đặc biệt là
9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.CTQG, H.2001, tr.83.


18
nhất quyết thực hiện tốt sứ mệnh: bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN theo tư
duy mới về bảo vệ Tổ quốc và xây dựng thành công CNXH ở nước ta.




×