Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố lạng sơn, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG MINH THẢO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG MINH THẢO

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8.34.04.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. CAO THU HẰNG

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ Chính sách
công về "Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng
Sơn, tỉnh Lạng Sơn" là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng
lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Hoàng Minh Thảo


DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
APEC

Nội dung
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CCHC

Cải cách hành chính

CSLT

Cơ sở lưu trú


Du lịch MICE

Là loại hình du lịch kết hợp hội nghị,
hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện…

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GRDP

Tổng sản phẩm trên địa bàn

GTVT

Giao thông Vận tải

KHCN

Khoa học công nghệ

KHĐT

Kế hoạch Đầu tư

KHXH


Khoa học xã hội

LĐTBXH

Lao động - Thương binh và Xã hội

LHQ

Liên hiệp quốc

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

TNMT

Tài nguyên Môi trường

TTTT

Thông tin truyền thông

UBND

Ủy ban nhân dân

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn

hóa Liên Hiệp quốc

VHTT

Văn hóa Thông tin

VHTT&DL

Văn hóa - Thể thao và Du lịch

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................ 11
1.1. Khái niệm du lịch, chính sách phát triển du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch
................................................................................................................................................... 11
1.2. Quy trình thực hiện chính sách phát triển du lịch ........................................................... 21
1.3. Các chủ thể chủ yếu tham gia vào công tác thực hiện chính sách phát triển du lịch ở
Việt Nam hiện nay ................................................................................................................... 24
1.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện
nay ............................................................................................................................................. 29
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN ........... 32
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn,
tỉnh Lạng Sơn ........................................................................................................................... 39

2.3. Một số hạn chế trong việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành
phố Lạng Sơn ........................................................................................................................... 50
2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia và một số địa phương trong nước trong việc thực
hiện chính sách phát triển du lịch ............................................................................................ 54
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN ..................................................... 58
3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển du lịch của thành phố Lạng Sơn trong thời gian tới .. 58
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch trên
địa bàn thành phố Lạng Sơn.................................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 81


DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp đất đai của thành phố Lạng Sơn ...............................................87
Bảng 2.2: Hiện trạng CSLT du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn .....................88
Bảng 2.3: Thống kê lượng khách du lịch đến thành phố Lạng Sơn..........................90
giai đoạn 2010 - 2017 ................................................................................................90
Bảng 2.4: Tổng thu từ khách du lịch của Thành phố ................................................91
giai đoạn 2010 - 2017 ................................................................................................91
Bảng 2.5: Tổng số lao động về du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn giai đoạn
2010 - 2017 ...............................................................................................................93
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Hiện trạng CSLT du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn ....................89
Sơ đồ 2.2. Thống kê lượng khách du lịch đến Thành phố giai đoạn 2010 - 2017 ...91
Sơ đồ 2.3: Tổng thu từ khách du lịch của Thành phố giai đoạn 2010 - 2017 ...........92
Sơ đồ 2.4: Tổng số lao động về du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn 2010 2017 ...........................................................................................................................93



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng, du lịch đã và đang trở
thành ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh và lớn nhất trên thế giới. Đối với các
quốc gia phát triển, du lịch không chỉ đóng góp quan trọng vào nền kinh tế mà còn là
sự hỗ trợ đắc lực cho nền kinh tế trong những thời điểm khó khăn. Các nước đang
phát triển, du lịch ngày càng trở thành công cụ hữu hiệu, nâng cao chất lượng cuộc
sống của cộng đồng dân cư, góp phần xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế. Du
lịch thế giới đang phát triển nhanh và mạnh, là ngành kinh tế giữ được sự tăng trưởng
liên tụ, tạo ra nhiều việc làm và đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế, do đó chính
sách phát triển du lịch đúng đắn, biết khơi dậy và phát huy tiềm năng du lịch sẽ giúp
kinh tế của địa phương.
Đối với Việt Nam, điều kiện chính trị ổn định, ngoại giao mở rộng, sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước cùng với thành tựu du lịch giai đoạn vừa qua đã tạo đà
quan trọng cho du lịch phát triển lên tầm cao mới. Các Nghị quyết của Đảng qua các
kỳ Đại hội đã xác định du lịch là ngành kinh tế dịch vụ quan trọng cần thúc đẩy phát
triển để thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Luật Du lịch và các văn bản liên
quan đã đi vào cuộc sống; các chương trình hành động quốc gia về du lịch, chương
trình xúc tiến du lịch quốc gia, chương trình hỗ trợ phát triển hạ tầng du lịch và các
đề án phát triển du lịch đã mang lại kết quả tăng trưởng đáng khích lệ. Đầu tư du
lịch được đẩy mạnh, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất du lịch được cải thiện, nâng
cấp từng bước hiện đại; sản phẩm du lịch mở rộng loại hình và chất lượng được
nâng dần; xúc tiến quảng bá du lịch được quan tâm; quản lý nhà nước về du lịch
được đổi mới; nhận thức du lịch ngày càng cải thiện. Ngành du lịch Việt Nam đã có
những bước phát triển đáng ghi nhận, trở thành ngành kinh tế quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Năm 2017, Việt Nam đón 12,92 triệu lượt khách
du lịch quốc tế và 73,2 triệu lượt khách du lịch nội địa; ngành du lịch đã đóng góp
khoảng 396.000 tỷ đồng; tạo ra gần 2,5 triệu việc làm, trong đó có 620.000 lao động
trực tiếp du lịch [36].


1


Thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của Ủy ban Nhân dân tỉnh Lạng Sơn,
trong những năm qua, thành phố Lạng Sơn đã chú trọng phát triển du lịch. Là trung
tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội của tỉnh Lạng Sơn, thành phố Lạng Sơn là
một thành phố miền núi phía Đông Bắc của Việt Nam, có điều kiện thuận lợi để phát
triển du lịch; với những vùng núi đá cao, khí hậu quanh năm mát mẻ, dễ chịu; có
quần thể hang động tự nhiên lớn nhỏ là tiềm năng quan trọng để du khách thập
phương tham quan tìm hiểu ; nhiều danh lam thắng cảnh của thành phố Lạng Sơn đã
đi vào ca dao, lịch sử, tiếng hát, lời ru, được nhiều người biết đến:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh…”
Thành phố cũng là nơi có nhiều di tích, danh thắng gắn với những sự kiện lịch
sử như thành Nhà Mạc, Thành cổ Lạng Sơn, di chỉ khảo cổ học Mai Pha; với hệ
thống các đền, chùa đã được xếp hạng… Đây cũng là nơi cư trú của nhiều dân tộc
anh em cùng sinh sống như: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Hoa...với nhiều nét đẹp mang
đậm bản sắc văn hoá truyền thống phong tục tập quán trong sản xuất cũng như trong
sinh hoạt đời thường. Với những cảnh quan và tài nguyên có giá trị như vậy, có thể
thấy, thành phố Lạng Sơn thực sự là nơi lý tưởng cho phát triển du lịch.
Trong những năm qua, nhờ thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo, lĩnh vực du lịch
trên địa bàn thành phố Lạng Sơn đã có những thành tựu đáng kể. Các di tích, danh
thắng được quan tâm tu bổ, tôn tạo; các nhà hàng, cơ sở lưu trú du lịch được xây
dựng, nâng cấp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch; số lao động hoạt động
trong lĩnh vực du lịch ngày càng tăng; Thành phố đã tích cực tham gia các sự kiện
văn hoá trong, ngoài tỉnh; tổ chức các lễ hội truyền thống, Tuần văn hóa - thể thao và
du lịch... nhằm quảng bá, đưa hình ảnh thành phố Lạng Sơn đến với bạn bè trong và
ngoài nước. Khách du lịch đến với thành phố tăng qua các năm, từ 1,2 triệu lượt
người năm 2010 đã tăng lên hơn 1,7 triệu lượt năm 2017 và 6 tháng đầu năm 2018

đạt hơn 1 triệu lượt khách [59].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, du lịch của thành phố Lạng Sơn
phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Sản phẩm du lịch chưa phong

2


phú; chưa có nhiều điểm, khu du lịch, khu vui chơi giải trí; số lượng du khách đến với
thành phố hằng năm tăng, song vẫn thấp hơn nhiều so với các tỉnh, thành trong khu
vực. Chưa thu hút được các doanh nghiệp, nhà đầu tư vào các hoạt động du lịch; công
tác thông tin quảng bá, xúc tiến đầu tư về du lịch còn hạn chế. Điều này do những
nguyên nhân khác nhau; song có thể thấy, một trong những nguyên nhân gây nên
hiện tượng trên là do việc thực thi chính sách phát triển du lịch chưa thực sự tốt.
Việc thực hiện tốt chính sách phát triển du lịch sẽ tạo tiền đề cho ngành kinh tế
du lịch phát triển, kéo theo sự phát triển các ngành kinh tế dịch vụ tại địa phương.
Đồng thời để có thể thực hiện tốt hơn nữa các các quan điểm của Đảng, Nhà nước về
phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, để trong tương lai thành phố Lạng
Sơn trở thành một trong những trung tâm du lịch tầm cỡ của khu vực và quốc tế như
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đề ra, tôi lựa chọn vấn đề "Thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn" làm
đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế được quan
tâm, nhiều địa phương đã và đang phấn đấu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan
trọng, kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, vấn đề du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch
đã có một số công trình triển khai nghiên cứu.
Về cơ bản, thứ nhất, nghiên cứu về du lịch ở góc độ chung nhất, có thể kể đến
một số công trình tiêu biểu sau:
Công trình Du lịch bền vững của tác giả Nguyễn Đình Hòe và Vũ Văn Hiếu
(Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001) đã đề cập đến vị trí của du lịch trong phát triển,

tác động của du lịch đến yếu tố sinh thái tự nhiên, tác động đến liên hệ xã hội - nhân
văn,… Công trình cũng đề cập đến một số chính sách du lịch bền vững trên thế giới,
đến du lịch bền vững ở vùng biển, vùng núi, vùng sinh thái hoang sơ… Có thể thấy,
những nội dung trong công trình Du lịch bền vững, đặc biệt là vấn đề du lịch bền vững
và du lịch bền vững ở vùng núi là tài liệu tham khảo cho tác giả luận văn khi triển khai,
nghiên cứu đề tài của mình [18].

3


Tác giả Phạm Trung Lương và cộng sự trong công trình nghiên cứu Cơ sở
khoa học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam đã làm rõ được thực
trạng phát triển du lịch Việt Nam trong những năm gần đây, bao gồm cả những thành
tựu và hạn chế; khẳng định rằng, Việt Nam muốn coi du lịch như một ngành kinh tế
trọng điểm thì cần có quan điểm, giải pháp phát triển du lịch một cách bền vững. Qua
đó, công trình cũng đã đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt
Nam hiện nay, bao gồm cả những giải pháp về kinh tế, môi trường, thể chế và văn
hóa, xã hội,..[26].
Trong công trình Nghiên cứu đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển khu du
lịch, tác giả Lê Văn Minh đã đề cập đến vai trò của đầu tư trong phát triển du lịch, thể
hiện ở các khía cạnh kinh tế, văn hóa, xã hội. Qua đó, công trình đã đề xuất một số
giải pháp nhằm tổ chức, quản lý khu du lịch, phát huy vai trò của cộng đồng, cải cách
hành chính… nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư khu du lịch. Dù không trực tiếp đề cập
đến vấn đề thực hiện chính sách phát triển du lịch, nhưng những đánh giá, đặc biệt là
những đề xuất của tác giả Lê Văn Minh trong bài viết này là những tài liệu tham khảo
quý cho học viên triển khai nghiên cứu đề tài, trong việc xem xét, tham khảo các giải
pháp mà tác giả đề xuất [28].
Văn hóa du lịch của Nguyễn Phạm Hùng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2017): công trình đã đề cập đến những vấn đề chung về văn hóa du lịch, đến vai trò
của văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể trong phát triển du lịch; vấn đề kinh doanh du

lịch, vấn đề bảo vệ di sản văn hóa trong phát triển du lịch… Dù không trực tiếp bàn
về việc thực hiện chính sách phát triển du lịch, nhưng những nội dung triển khai trong
công trình của tác giả Nguyễn Phạm Hùng là tài liệu tham khảo quý báu cho tác giả
luận văn trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu của mình [20].
Công trình Du lịch Việt Nam - từ lý thuyết đến thực tiễn của tác giả Phan Huy
Xu và Võ Văn Thành (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2018) đã đề cập đến
một số vấn đề về phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam hiện nay; khẳng định rằng,
du lịch là một công cụ hữu hiệu để quảng bá giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới; góp
phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Công trình cũng đã đề cập đến vai trò

4


của cộng đồng địa phương trong phát triển du lịch cộng đồng, vai trò của du lịch tâm
linh,…[61].
Ngoài các công trình trên, còn có các bài viết nghiên cứu về vấn đề phát triển
du lịch, qua đó cho thấy cả vấn đề lý luận và thực tiễn của chính sách du lịch ở Việt
Nam hiện nay. Đó là bài viết của tác giả Phạm Từ (2008), Phát triển du lịch - nhìn từ
góc độ kinh tế và văn hóa, Tạp chí Cộng sản số 2-2008, Hà Nội. Bài viết đã đề cập,
phân tích bản chất của du lịch là văn hóa và kinh tế vừa là phương tiện vừa là mục
tiêu phát triển du lịch; những vấn đề đặt ra đối với du lịch Việt Nam, từ đó đề ra các
giải pháp để đạt mục tiêu phát triển du lịch nhanh và bền vững.
Nguyễn Văn Tuấn (2014), Du lịch Việt Nam trước yêu cầu phát triển và hội
nhập khu vực và quốc tế: Bài nghiên cứu đã nêu lên những cơ hội, thách thức của du
lịch Việt Nam, đề ra quan điểm trọng tâm có tính đột phá trong Chiến lược phát triển
Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đó là: Chuyển từ phát triển
trên diện rộng sang phát triển theo chiều sâu; phát triển du lịch theo hướng chuyên
nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng
định thương hiệu và khả năng cạnh tranh. Theo đó, về mục tiêu phát triển đến năm
2020, đưa du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, có

hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch có chất
lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, cạnh tranh
được với các nước trong khu vực và thế giới. Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở
thành quốc gia có ngành du lịch phát triển [37].
Đỗ Thị Thanh Hoa (2016), Những vấn đề đặt ra trong phát triển du lịch sinh
thái ở Việt Nam: nghiên cứu, đánh giá các tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, các
hoạt động du lịch sinh thái ở Việt Nam hiện nay; đồng thời đánh giá thực trạng khai
thác tiềm năng du lịch sinh thái giai đoạn hiện nay, phân tích những hạn chế, những
cơ hội, thách thức, điểm mạnh, điểm yếu của du lịch sinh thái Việt Nam, từ đó đề
xuất các thể chế, chính sách để có thể khai thác tiềm năng, phát triển du lịch sinh thái
trong tương lai.

5


Liên quan đến vấn đề du lịch, phát triển du lịch, còn có các công trình nghiên
cứu khác như Phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi trường (Phạm Trung
Lương,Tạp chí Du lịch số 7/2007), Phát triển các ngành du lịch trong quá trình phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế (Lưu Đức Hải, Tạp chí Tổng quan kinh tế xã hội
Việt Nam số 4-2009, Hà Nội), Quy hoạch du lịch (Bùi Thị Hải Yến chủ biên, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2010), Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam (Phạm Trung
Lương, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010), Phát triển nguồn nhân lực du lịch - yếu tố
quyết định sự phát triển của ngành du lịch Việt Nam (Nguyễn Văn Lưu, Nxb Thông
tấn, Hà Nội, 2014), Du lịch Việt Nam thời kỳ đổi mới (Trần Thị Minh Hòa chủ biên,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015), Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam trong
sự cạnh tranh với các nước trong khu vực ASEAN (Đoàn Mạnh Cương, in trong:
Toàn cầu hóa du lịch và địa phương hóa du lịch, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 2017), Địa lý du lịch-cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam
(Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2018), Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam (Từ Thị
Loan chủ biên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2017)…. Các công trình này đều khẳng

định vai trò của du lịch đối với sự phát triển ở Việt Nam: phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo; tạo sự trao đổi, giao lưu văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,…
Song, các công trình nghiên cứu trên cũng cho rằng, bên cạnh khía cạnh tích cực, phát
triển du lịch ở Việt Nam hiện nay cũng đặt ra một số vấn đề cần giải quyết như: các
chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển du lịch thì tương đối sát thực tế nhưng
việc thực thi chưa tốt và khẳng định, để nâng cao hơn nữa việc phát triển du lịch, thực
hiện tốt các chiến lược phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước thì cần thiết nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, phát huy vai trò của cộng đồng, công tác quy hoạch du
lịch cần thực hiện tốt hơn nữa,…
Thứ hai, những nghiên cứu về du lịch tại Lạng Sơn
Công trình của UBND thị xã Lạng Sơn: Thị xã Lạng Sơn xưa và nay, (NXB
Văn hóa Thông tin, 1989) là một quyển cẩm nang để các nhà nghiên cứu, nhà khoa
học, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan… có thể khai thác các thông tin liên
quan đến các nội dung như: lịch sử hình thành thị xã Lạng Sơn; các di tích, danh

6


thắng, các phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống và quá trình chiến đấu, xây
dựng XHCN từ sau năm 1945 đến thời điểm biên soạn tác phẩm.
Nguyễn Cường - Hoàng Nghiệm (2000), Xứ Lạng - Văn hóa và du lịch: Tác
phẩm đã đánh giá về các điều kiện tự nhiên, điều kiện nhân văn, các thế mạnh về văn
hóa, lịch sử của tỉnh Lạng Sơn, đây là những thế mạnh để có thể phát triển du lịch gắn
với phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Lạng Sơn đã xuất bản công trình Di sản văn hóa Lạng
Sơn, (Nxb Văn hóa Thông tin, 2006). Công trình gồm 02 tập: Tập 01 di sản văn hóa
vật thể và Tập 02 di sản văn hóa phi vật thể đã thống kê, tập hợp toàn bộ các di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể của tỉnh Lạng Sơn. Đây là tài liệu quan trọng, đầy đủ về
các di sản văn hóa của tỉnh Lạng Sơn, qua đó đánh giá tiềm năng, thế mạnh của văn
hóa gắn với phát triển du lịch, để từ đó đưa ra các giải pháp bảo tồn, gìn giữ, khai thác

và phát huy các di sản văn hóa đó.
Hoàng Páo - Hoàng Giáp, Văn hóa Lạng Sơn (Nxb Văn hóa Thông tin, 2012):
Tác phẩm đã thống kê, nghiên cứu về văn hóa của Lạng Sơn, trong đó có các lễ hội
truyền thống, những phong tục tập quán của các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Đây là công trình có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp thông tin liên quan đến
văn hóa của Lạng Sơn, qua đó cung cấp các thông tin giúp các nhà nghiên cứu, các cơ
quan quản lý nhà nước có định hướng trong việc bảo tồn, phát triển nền văn hóa Xứ
Lạng gắn với phát triển du lịch.
Ban Quản lý di tích tỉnh Lạng Sơn (2014), Những điểm đến văn hóa và du lịch
hấp dẫn tỉnh Lạng Sơn: công trình đã thống kê các điểm du lịch, văn hóa trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn, đây là cơ sở để xây dựng các tuyến du lịch, các sản phẩm du lịch và đề
ra các phương án khai thác các điểm du lịch, văn hóa gắn với phát triển kinh tế.
Trần Thị Bích Hạnh (2016), Phát triển du lịch tâm linh ở Lạng Sơn, Luận
văn thạc sỹ Du lịch học, Đại học KHXH và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội: Luận văn phân tích, đánh giá sâu về du lịch tâm linh như đưa ra những cơ
sở lý luận, một số vấn đề về du lịch tâm linh, thực trạng du lịch tâm linh trên địa

7


bàn cả nước; đánh giá khái quát về du lịch tâm linh tại tỉnh Lạng Sơn, qua đó đề
xuất một số giải pháp để phát triển du lịch tâm linh trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Tỉnh Lạng Sơn cũng đã ban hành các văn bản liên quan đến phát triển du lịch,
đó là:
Quyết định số 1278/QĐ-UBND ngày 21/8/2010 của UBND tỉnh Lạng Sơn về
việc phê duyệt "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2010 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”. Quyết định đã đưa ra mục tiêu phát triển du lịch
tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, đó là: phát triển du
lịch sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho
nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo; đưa du lịch Lạng Sơn trở thành một trong
những địa bàn trọng điểm du lịch của các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc; nâng

cao dân trí, bảo tồn và phát huy giá trị cảnh quan, di tích lịch sử và môi trường khu
vực [47].
Nghị quyết số 41-NQ/TU ngày 18/6/2012 của Tỉnh ủy Lạng Sơn về phát triển
thương mại, dịch vụ, du lịch đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Theo đó, mục
tiêu phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn là: Phát triển thương mại, du lịch,
dịch vụ trở thành lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, là khâu đột phá, thúc đẩy tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh [35].
Với những điều đã trình bày như trên, có thể thấy rằng, việc nghiên cứu
"Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh
Lạng Sơn" mới chỉ được đề cập một cách rải rác trong một số văn bản, chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt, toàn diện vấn đề trên. Tuy nhiên,
các công trình trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả luận văn khi triển khai
nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du
lịch, đánh giá những thành tựu và hạn chế trong thực hiện chính sách phát triển du
lịch ở thành phố Lạng Sơn, đề tài đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng

8


cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn,
tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du lịch ở
Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành
phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
- Đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách

phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách và đưa ra các giải pháp chính sách mới nhằm phát triển
du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Việc thực hiện và triển khai các giải pháp chính sách phát triển du
lịch trên trên địa bàn thành phố Lạng Sơn.
Không gian nghiên cứu: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
thành phố Lạng Sơn.
Thời gian nghiên cứu: Thời gian thu thập số liệu, cơ sở dữ liệu sử dụng phục
vụ nghiên cứu từ năm 2010 đến nay. Thời gian này được tính từ khi Quyết định số
1278/QĐ-UBND ngày 21/8/2010 của UBND tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt "Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2010 - 2020 và tầm nhìn
đến năm 2030” ban hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn có cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa, du lịch, phát triển du lịch.

9


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, cùng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể, bao gồm:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp phỏng vấn; phương pháp thống kê;
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích định
tính; phương pháp lịch sử và logic…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng rõ hơn một số vấn đề lý luận về việc thực hiện
chính sách phát triển du lịch ở Thành phố Lạng Sơn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình tham mưu thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn. Đồng thời luận văn
cũng là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy liên quan đến phát
triển du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách phát triển du lịch ở Thành phố Lạng Sơn và của các cấp chính quyền ở các
huyện, thị xã, thành phố có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với thành phố Lạng
Sơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương, 13 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du lịch ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm du lịch, chính sách phát triển du lịch, thực hiện chính
sách phát triển du lịch

1.1.1. Du lịch
Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch. Theo W.Hunziker và Kraff (Thụy
Sĩ) thì du lịch là tổng hợp những và các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ
việc di chuyển và dừng lại của con người tại nơi không phải cư trú thường xuyên của
họ; hơn nữa, họ không ở lại đó vĩnh viễn và không có bất kỳ hoạt động nào để có thu
nhập tại nơi đến”.
Theo Tổ chức du lịch thế giới: "Du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi
khác với môi trường sống thường xuyên của con người và ở lại đó để tham quan, nghỉ
ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt động để có thù lao ở nơi
đến với thời gian liên tục ít hơn 1 năm" [47, tr.13].
Theo WTO thì du lịch là “một tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên
quan đến việc di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi ở thường xuyên của họ
nhằm mục đích tiêu khiển, nghỉ ngơi, văn hóa, dưỡng sức… và nhìn chung là vì
những lý do không phải để kiếm sống”.
Theo Khoản 1, Điều 3, Luật Du lịch Việt Nam năm 2017: “Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong
thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng,
giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp
khác” [33, tr.13]. Luận văn sử dụng khái niệm này trong triển khai nghiên cứu đề tài.
Có thể thấy, các định nghĩa trên dù có cách tiếp cận khác nhau nhưng đều coi du
lịch có chung một hoạt động nhằm mục đích đi chơi, giải trí. Ngày nay, cùng với sự phát
triển của xã hội, thì ngoài mục đích đi chơi, giải trí thì du lịch còn có những mục đích
khác như chữa bệnh, kết hợp hội thảo,…. Song, mục đích đi chơi, giải trí vẫn là mục đích

11


cơ bản và phân biệt hoạt động du lịch với các hoạt động khác (như chữa bệnh, hội nghị,
hội thảo, công vụ…) [20, tr. 59,60].
Về cơ bản, du lịch có vai trò sau:

Thứ nhất, góp phần phát triển kinh tế
Thực tiễn đã chứng minh rằng, du lịch ngày càng đóng góp quan trọng
trong GDP của các quốc gia, dân tộc, thông qua các hoạt động như xây dựng cơ
sở vật chất, xây dựng cơ sở lưu trú, phát triển giao thông; phát triển các ngành
chế biến thực phẩm, thủ công mỹ nghệ. Ở Việt Nam, theo Tổng cục Du lịch, năm
2017, ngành du lịch đã đóng góp khoảng 396.000 tỷ đồng (tương đương 7,9%
GDP); Tạo ra gần 2,5 triệu việc làm (chiếm 4,6% tổng việc làm cả nước), giá trị
xuất khẩu theo lượng khách đạt 8,837 tỷ USD (chiếm 4% tổng giá trị xuất khẩu
cả nước) [23].
Thứ hai, góp phần phát triển văn hóa - xã hội
Đó là góp phần nâng cao trình độ dân trí. Ở khu vực du lịch phát triển,
người dân có ý thức trong việc nâng cao hiểu biết của mình để đáp ứng nhu cầu
phục vụ du khách, đặc biệt là trong bối cảnh có sự phát triển du lịch cộng đồng,
homestay như hiện nay. Quá trình này cũng nâng cao trình độ ứng xử của người
dân; góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa; góp phần tạo sự bình đẳng
giới, tăng sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội của
địa phương; giảm bớt sự bất bình đẳng giữa các khu vực, vùng miền; tạo sự giao
lưu, trao đổi văn hóa,…
Tuy nhiên, bên cạnh đó, du lịch cũng gây ra một số vấn đề xã hội cần phải
giải quyết, đó là việc sử dụng, lạm dụng tài nguyên thiên nhiên đến cạn kiệt; ô
nhiễm môi trường sống; xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, các tệ nạn xã hội có
nguy cơ phát sinh…
Chính vì sự tác động mang tính 2 mặt như trên, do vậy, trong quá trình
phát triển du lịch, cần thiết có những chương trình, chính sách và thực thi chính
sách phát triển du lịch hiệu quả.

12


1.1.2. Chính sách, chính sách công và chính sách phát triển du lịch

1.1.2.1. Chính sách
Để hiểu thế nào là chính sách phát triển du lịch, cần tìm hiểu thế nào là chính
sách.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chính sách là “những chuẩn tắc cụ thể để
thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất
định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của
chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa…” [39, tr.475].
Từ đó có thể thấy, chính sách là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được
một mục đích nhất định, được đề ra dựa vào đường lối chính trị và tình hình thực tế”
[25, tr.181]. Theo nghĩa đó, chính sách có thể là chính sách của một tổ chức, một cơ
quan, một đơn vị, doanh nghiệp, một đảng phái, chính phủ… đề ra nhằm thực hiện
một mục tiêu nào đó. Ở tầm vĩ mô, chính sách của Nhà nước, Chính phủ thường được
coi là chính sách công.
1.1.2.2. Chính sách công
Theo William Jenkins (1978): Chính sách công là một tập hợp các quyết định
có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền
với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó. Quan điểm
này xác định chính sách công là tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, quyết
định thuộc thẩm quyền nhà nước để xác định mục tiêu và cách thức đạt được mục
tiêu đó trong thực tiễn [24].
Về cơ bản, chính sách công có thể được hiểu như sau:“Chính sách công là một
tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu
và giải pháp thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác
định”[13].
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là một chủ thể của chính sách
công [60, tr.3-8], trên cơ sở đó, Chính phủ hoạch định, xây dựng, ban hành và tổ chức
thực hiện. Bản chất của chính sách công là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng,

13



nhiệm vụ của mình, thực hiện các hoạt động liên quan đến công dân và can thiệp vào
hành vi xã hội trong quá trình phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội.
Về cơ bản, chính sách công có đặc điểm sau:
Thứ nhất, chủ thể ban hành Chính sách công là nhà nước
Nếu như chủ thể ban hành các chính sách tư có thể là các tổ chức tư nhân, các
đoàn thể chính trị - xã hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết
hoạt động trong phạm vi tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó, thì chủ thể ban
hành chính sách công chỉ có thể là nhà nước. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước
vừa là chủ thể ban hành, vừa là chủ thể tổ chức thực thi chính sách công. Chủ thể ban
hành chính sách công là các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước bao gồm:
Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, chính quyền địa phương các cấp...
Trong việc thực thi chính sách công, các cơ quan và tổ chức của nhà nước là
những chủ thể thực thi chủ yếu, song việc thực thi chính sách đó cũng là nghĩa vụ và
trách nhiệm của mọi tổ chức và mọi thành viên có liên quan đến lĩnh vực mà chính
sách công điều tiết. Thông thường, các cơ quan nhà nước đứng ra tổ chức thực thi và
huy động các lực lượng khác trong xã hội hưởng ứng chính sách đó.
Thứ hai, chính sách công gồm tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau:
Các quyết định này có thể bao gồm cả Hiến pháp, pháp luật, các quyết định dưới luật,
các chương trình hành động hay một kế hoạch hành động. Một chính sách có thể
được thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho việc thực thi.
Do đó, chính sách công không chỉ là một quyết định đơn lẻ, mà chính sách công có
tính tổng thể và có thể bao gồm nhiều chính sách cụ thể.
Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra
trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định, là một quá trình
hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định nhằm vào những mục tiêu mà
nhà nước mong muốn đạt được. Các mục tiêu đó có thể là định tính hoặc định
lượng, là mục tiêu lâu dài có tính chiến lược, hay là những mục tiêu chung hạn
hoặc ngắn hạn nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước trong

một thời gian nhất định.

14


Thứ tư, chính sách công tác động đến các đối tượng của chính sách: Đối
tượng chính sách là những cá nhân hay tổ chức chịu sự tác động hay điều tiết của
chính sách. Phạm vi điều tiết của mỗi chính sách có thể rộng hay hẹp tùy theo nội
dung của từng chính sách. Có thể phân thành đối tượng trực tiếp là những người trực
tiếp chịu sự điều chỉnh của chính sách đó và đối tượng gián tiếp là những người chịu
sự ảnh hưởng của chính sách đó một cách gián tiếp.
Thứ năm, về chu trình chính sách công
Hiện nay, trên thế giới, có nhiều cách phân chia khác nhau về chu trình của
chính sách công. Tác giả William N.Dunn cho rằng, chu trình chính sách gồm các
giai đoạn sau: thiết lập chương trình nghị sự, xây dựng chính sách công, thông qua
chính sách công, thực thi chính sách công, thay đổi chính sách công, tiếp tục chính
sách công, chấm dứt chính sách công [16, tr.34]. Tuy nhiên, ở góc độ khái quát, luận
văn xem xét các giai đoạn của chu trình chính sách công như sau: Thứ nhất, xây dựng
chính sách công. Thứ hai, thực thi chính sách công. Thứ ba, đánh giá, tổng kết chính
sách công.
Như vậy, chu trình chính sách công là tất cả những giai đoạn phản ánh toàn bộ
tiến trình của một chính sách công kể từ khi nảy sinh ý tưởng tới việc thực hiện và
đánh giá. Thực hiện chính sách công là một giai đoạn trong một chu trình của chính
sách công.
1.1.2.3. Chính sách phát triển du lịch
Chính sách phát triển du lịch là tập hợp các chủ trương và hành động của
Nhà nước để đấy mạnh phát triển du lịch bằng cách tác động vào việc cung cấp và
giá cả của các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng); tác động tới
giá sản phẩm du lịch; tác động đến số lượng khách du lịch; tác động việc thay đổi tổ
chức và năng lực của nguồn nhân lực du lịch; tác động vào việc chuyển giao công

nghệ du lịch... Hai vế quan trọng của chính sách là chủ trương và hành động, chủ
trương tốt và hành động quyết liệt sẽ đảm bảo chính sách thành công.

15


Trong bối cảnh hiện nay, để phát triển du lịch cần triển khai những chính
sách chủ yếu sau:
Chính sách tạo nguồn lực: Về chủ trương, cần huy động và sử dụng hiệu quả
mọi nguồn lực, tăng đầu tư phát triển để bảo đảm du lịch phát huy vai trò là ngành
kinh tế mũi nhọn.
Chính sách về đất đai và vốn: Chủ trương là khuyến khích, ưu đãi về đất đai,
tài chính, tín dụng đối với tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh
vực bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường du lịch; tuyên truyền, quảng bá
du lịch; phát triển nguồn nhân lực du lịch; nghiên cứu, đầu tư, xây dựng sản phẩm
du lịch mới; hiện đại hóa hoạt động du lịch; xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch, cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch; phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch nhưng điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn, ở vùng sâu, vùng xa, nhằm sử dụng lao động, hàng
hóa và dịch vụ tại chỗ, góp phần nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo. Hành động
là: giảm tiền thuê đất, ưu tiên cho cơ sở lưu trú và khu du lịch sử dụng nhiều diện
tích đất cho tạo cảnh quan và bảo vệ môi trường; được cấp và cho vay tín dụng với
lãi suất ưu đãi, ân hạn dài; ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển các
cơ sở đào tạo du lịch đạt chuẩn.
Chính sách bố trí ngân sách: Chủ trương là ưu tiên cho công tác quy hoạch;
hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị du lịch, khu du lịch, điểm du lịch; hỗ
trợ công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi
trường du lịch, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân
lực du lịch. Về hành động, cần xem xét một cách minh bạch, đơn giản hóa thủ tục
quyết định cấp ngân sách và cấp ngân sách đủ, đúng, nhanh theo lộ trình.
Chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho tiếp cận điểm đến: Chủ trương là tạo

điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài ở Việt Nam đi du lịch
trong nước và nước ngoài; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch.
Hành động là: tiếp tục xem xét mở rộng diện miễn visa nhập cảnh đơn phương cho
công dân một số thị trường du lịch trọng điểm; áp dụng cấp visa tại cửa khẩu; đơn

16


giản hóa thủ tục cấp visa; thực hiện cấp visa trực tuyến; đẩy mạnh phát triển hạ tầng
và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; ưu đãi đầu tư xây dựng các điểm dừng chân đạt
chuẩn trên các tuyến du lịch quốc gia…
Chính sách xã hội hóa du lịch: Về chủ trương, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá
nhân mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư tham gia hoạt động du lịch, mở
rộng giao lưu hợp tác quốc tế về du lịch. Hành động là: đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động du lịch; huy động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài tham gia quảng bá
cho du lịch Việt Nam, hỗ trợ thành lập và hoạt động của văn phòng đại diện du lịch
Việt Nam tại nước sở tại ngoài…
Chính sách về quỹ hỗ trợ phát triển du lịch: Chủ trương là khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc hình thành quỹ hỗ trợ phát triển du lịch từ các nguồn
đóng góp của các chủ thể hưởng lợi từ hoạt động du lịch, nguồn đóng góp tự
nguyện của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Hành động là: Áp dụng thuế suất
thuế giá trị gia tăng 0% đối với doanh thu đón khách du lịch quốc tế vào Việt Nam;
hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch quốc tế khi mua hàng của Việt Nam
mang ra; giảm và cho chậm nộp thuế trong các trường hợp cần thiết; sử dụng lãi
suất từ tiền ký quỹ của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế gửi ngân hàng thương mại
để thành lập quỹ hỗ trợ phát triển du lịch; vận động, khai thác và tiếp nhận đóng
góp cho quỹ hỗ trợ phát triển du lịch của mọi tổ chức và cá nhân tình nguyện.
Chính sách về sự tham gia của cộng đồng dân cư trong phát triển du
lịch: Chủ trương là cộng đồng dân cư có quyền tham gia và hưởng lợi hợp pháp từ

hoạt động du lịch. Về hành động, cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ tài
nguyên du lịch, bản sắc văn hoá địa phương của cộng đồng; giữ gìn an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, vệ sinh môi trường để tạo sự hấp dẫn du lịch; tạo điều kiện cho cộng
đồng dân cư được đầu tư phát triển du lịch, khôi phục và phát huy các loại hình văn
hóa, nghệ thuật dân gian, nghề thủ công truyền thống; sử dụng lao động và nguyên
liệu địa phương để sản xuất hàng hóa phục vụ khách du lịch, góp phần nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương.

17


Chính sách về hiệp hội du lịch: Chủ trương là cho phép và tạo điều kiện cho
hiệp hội du lịch được thành lập và hoạt động thuận lợi theo quy định của pháp luật.
Về hành động, cần xem xét đơn giản hóa thủ tục thành lập hiệp hội, hội và câu lạc
bộ nghề nghiệp du lịch; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và góp phần thúc đẩy sự
phát triển của các thành viên; tạo điều kiện thuận lợi cho hiệp hội du lịch tham gia
tổ chức các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch, tham gia xây dựng,
tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về du lịch.
Chính sách quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về du lịch: Chủ trương
là: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về du lịch; cơ quan quản lý nhà nước về
du lịch ở trung ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước
về du lịch; chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quản lý
nhà nước về du lịch. Hành động là: Các Bộ, ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình và theo sự phân công của Chính phủ có trách nhiệm phối hợp với cơ
quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương trong việc thực hiện quản lý nhà
nước về du lịch; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình và theo phân cấp của Chính phủ có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
du lịch tại địa phương; cụ thể hóa chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính
sách phát triển du lịch quốc gia phù hợp với thực tế tại địa phương và có biện pháp
bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vệ sinh môi trường tại khu du lịch, điểm du

lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
Chính sách về bảo vệ môi trường du lịch: Về chủ trương, môi trường du
lịch cần được bảo vệ, tôn tạo và phát triển nhằm bảo đảm du lịch xanh, sạch, đẹp,
an ninh, an toàn, lành mạnh và văn minh. Theo đó, các b ộ, ngành trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình ban hành các quy định nhằm bảo vệ, tôn tạo và
phát triển môi trường du lịch; Ủy ban nhân dân các cấp có biện pháp để bảo vệ,
tôn tạo và phát triển môi trường du lịch phù hợp với thực tế của địa phương; tổ
chức, cá nhân kinh doanh du lịch có trách nhiệm thu gom, xử lý các loại chất thải
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh; khắc phục tác động tiêu cực do
hoạt động của mình gây ra đối với môi trường; có biện pháp phòng, chống tệ nạn

18


xã hội trong cơ sở kinh doanh của mình; khách du lịch, cộng đồng dân cư địa
phương và các tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ cảnh quan,
môi trường, bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc; có thái độ ứng xử
văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người; ưu tiên các dự án
du lịch gắn với sử dụng năng lực sạch, áp dụng mô hình 3R góp phần giảm nhẹ tác
động của biến đổi khí hậu.
Như vậy, chính sách phát triển du lịch phải là một hệ thống đồng bộ những
chủ trương và hành động thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, phù hợp xu
thế phát triển du lịch của thời đại, đáp ứng mong muốn của nhân dân và đúng định
hướng phát triển du lịch của Nhà nước.
Ở Việt Nam, chính sách phát triển du lịch được nhắc đến ở đây là loại chính
sách công và đó là quyết định của Nhà nước nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương
của Đảng về phát triển du lịch với các mục tiêu, giải pháp cụ thể và công cụ thực hiện
giải quyết các vấn đề phát triển du lịch của của quốc gia cũng như ở các địa phương.
Đảng và Nhà nước đã ban hành các chủ trương, chính sách và cơ chế để
thúc đẩy du lịch phát triển với vai trò kinh tế quan trọng, kinh tế mũi nhọn với các

văn bản pháp quy, nghị quyết, kế hoạch, đề án, chiến lược, chương trình hành
động thể hiện qua các Văn kiện Đảng, Văn kiện Hội nghị Trung ương, Nghị quyết
của Bộ Chính trị; Nghị quyết, Quyết định, Chương trình, Chiến lược của Chính
phủ; Thông tư của Bộ…, như Luật Du lịch 2017; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
16/1/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn;
Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy
mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới; Nghị quyết số 103/NQ-CP
ngày 06/10/2017 của Chính phủ về việc Ban hành Chương trình hành động của
Chính phủ về thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính
trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; Quyết định số
2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số
321/QĐ-TTg ngày 18/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình

19


×