Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

BÀI TIỂU LUẬN NÂNG GD VHUX CHO HS THPT HOÀN CHỈNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.21 KB, 59 trang )

Tôi xin cam đoan bài tiểu luận này là thực sự của cá nhân tôi. Bài tiểu luận được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của Cô TS. Vũ Thị Mai Oanh, Trưởng Khoa Lý luận Chính trị
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Các số liệu và kết quả được nêu trong nêu
trong bài tiểu luận là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình
khoa học nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 06 năm 2019
Học viên

Phạm Phi Phăng

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều tập thể và cá
nhân. Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý thầy cô trong Ban
Giám Đốc Học viện Cán bộ, Khoa Lý luận Chính trị, Phòng đào tạo đã tận tình giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô TS. Vũ Thị Mai Oanh,
Trưởng Khoa Lý luận Chính trị, Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã hướng
dẫn giúp đỡ tôi trong việc định hướng về nội dung đề tài, phương pháp nghiên cứu khoa
học cũng như tận tình giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thành được
đề tài tiểu luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo, Ban đại diện cha mẹ học
sinh, học sinh trường THPT Dương Văn Dương, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh,
cùng các bạn đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ tôi có được
các thông tin cần thiết để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Với thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế, bản thân dù đã cố gắng rất
nhiều, song chắc chắn bài tiểu luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính


mong các thầy giáo, cô giáo và các bạn đồng nghiệp thông cảm, giúp đỡ, đưa ra những
chỉ dẫn quý báu cho tôi.
Xin trân trọng cảm ơn !
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 06 năm 2019
Học viên

Phạm Phi Phăng

ii


XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

iii


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ban giám hiệu
Cách mạng

BGH
CM

Cán bộ quản lý

CBQL

Cha mẹ học sinh


CMHS

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH-HĐH

Đạo đức

ĐĐ

Giáo dục

GD

Giáo dục công dân

GDCD

Giáo dục và Đào tạo

GD&ĐT

Giáo dục văn hóa ứng xử

GD VHƯX


Giáo viên

GV

Giáo viên chủ nhiệm

GVCN

Học sinh

HS

Khoa học kỹ thuật

KHKT

Quản lý

QL

Trung học phổ thông

THPT

Văn hóa ứng xử
Ứng xử
Ưng xử sư phạm

VHƯX

ƯX
ƯXSP

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
.................................................................................................................................................................. I
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................................................ II
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN............................................................................... III
MỤC LỤC............................................................................................................................................. IV
DANH MỤC CÁC BẢNG...................................................................................................................... V
A. PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1
B. PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................................... 4
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................................................... 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ 49
PHỤ LỤC............................................................................................................................................ 50

v


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam nói chung, sự nghiệp Giáo dục và Đào
tạo nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chăm lo và xây dựng.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, cần phải đẩy mạnh và phát triển văn hóa. Nhiệm vụ xây
dựng con người mới do đó cũng được quán triệt sâu rộng trong toàn xã hội. Đảng ta
khẳng định: “Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng
tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, phát triển văn hóa làm nền tảng tinh thần của

xã hội”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã chỉ rõ
phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo trong thời gian tới là: “Phát triển, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một những yếu tố
quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo
dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Đẩy mạnh giáo dục nghề
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết
hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội
và điều kiện cho mọi công dân học tập suốt đời”.
Với quá trình hội nhập toàn cầu, nền văn hóa Việt Nam được giao lưu với nhiều nền
văn hóa trên thế giới, điều đó cho phép chúng ta bổ sung, làm phong phú thêm nền văn
hóa nước nhà, song những yếu tố văn hóa tiêu cực, phản giá trị cũng có dịp bùng phát gây
ảnh hưởng không nhỏ tới tầng lớp nhân dân đặc biệt là giới trẻ. Những năm gần đây, cùng
với một số tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ HS ở các
nhà trường thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, xuống cấp về văn hóa trong đó có
văn hóa ứng xử.
Vậy thực trạng văn hoá học đường ngày nay như thế nào? Xin được trích dẫn lời của
một nhà xã hội học, là nhà giáo, nhà tư vấn tâm lý Phạm Thị Thuý: “Văn hoá ứng xử học
đường ở Việt Nam đã ở vào cấp độ báo động đỏ. Quá nhiều hành vi thiếu văn hoá của học
sinh và của cả giáo viên. Văn hoá học đường đang xuống cấp trầm trọng, là sự xuống cấp
đáng sợ nhất của cả một nền giáo dục!”.
Hiện có rất nhiều người đồng tình nhận xét, đánh giá này, khi cho rằng văn hoá học
đường tại các trường học đang bị xem nhẹ. Nhà trường quá tập trung vào việc giảng dạy
kiến thức mà quên đi giáo dục nhân cách cho học sinh. Thực tế cho thấy, trong môi
trường học đường, nơi văn hoá được coi trọng, xây dựng và phát huy, lại đang diễn ra
những điều “thiểu năng” văn hoá: Trò gặp thầy không chào, coi thường thầy, chửi thầy,
đánh thầy... Ngày xưa, không bao giờ có cảnh học trò vô lễ với thầy. “Nhất tự vi sư, bán
tự vi sư”, học sinh phải biết tôn kính, biết ơn người dạy bảo. Học trò gặp thầy thì đứng

khoanh tay chào và đứng yên chờ thầy đi qua rồi mới đi tiếp. Không bao giờ học trò dám
cãi, chứ nói gì đến chuyện đánh thầy.
Không chỉ học sinh thiếu văn hoá giao tiếp, mà một số thầy, cô giáo hành xử với học
trò cũng chưa đúng mực, tạo nên sự rạn nứt, đổ vỡ trong quan hệ thầy trò, gây bất bình
trong xã hội. Hơn nữa, một số giáo viên còn “dạy” học sinh theo kiểu sai là đánh, là
mắng, là chửi, là “cho mày chết”... Học sinh lại mang “kiến thức” ấy áp dụng với bạn bè,
người thân, với xã hội và rất có thể sẽ “di truyền” sang thế hệ sau, khi các em đã trở thành
thầy, cô, cha, mẹ. Và đáng sợ hơn, đau xót hơn, khi một số thầy, cô giáo chỉ vì ham muốn
1


tầm thường của cá nhân mà bán rẻ nhân cách của mình, làm hại đến cả những học sinh.
Tất cả những hành động đó phải chăng chính là những biểu hiện xuống cấp đáng sợ nhất
của cả một nền giáo dục ?
Để nâng cao hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử trong nhà trường THPT có vai trò vô
cùng quan trọng trong quá trình giáo dục, nhằm tạo chuyển biến căn bản về ứng xử văn
hóa của cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, học sinh để phát triển năng lực, hoàn thiện
nhân cách, lối sống văn hóa; xây dựng văn hóa trường học lành mạnh, thân thiện; nâng
cao chất lượng giáo dục đào tạo; góp phần xây dựng con người Việt Nam: yêu nước, nhân
ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Và đây cũng là lí do tôi chọn đề tài:
“Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THPT Dương Văn Dương, huyện Nhà
Bè, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài tiểu luận cuối khoá.
2. MỤC ĐÍCH CỦA TIỂU LUẬN.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài đề xuất các biện pháp nhằm nâng
cao hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THPT Dương Văn Dương,
huyện Nhà Bè trong giai đoạn hiện nay, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện nhân cách học sinh.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Khách thể nghiên cứu.
Quá trình giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THPT Dương Văn Dương ,

huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu.
Biện pháp nhằm nâng cao hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường
THPT Dương Văn Dương, huyện Nhà Bè trong giai đoạn hiện nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các văn bản, tài liệu,
công trình khoa học có liên quan đến đề tài để xây dựng cơ sở lý luận về vấn đề nghiên
cứu.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu.
Sử dụng hệ thống câu hỏi đóng và câu hỏi mở để khảo sát trên cán bộ, GV và HS của
trường. Đây là phương pháp chủ yếu sử dụng để thu thập thông tin.
- Phương pháp quan sát.
Người nghiên cứu tri giác các hoạt động giáo dục VHƯX của cán bộ lãnh đạo, GV và
biểu hiện của HS nhằm thu thập thông tin.
- Phương pháp trò chuyện.
Với phương pháp này, người nghiên cứu trò chuyện với CBQL, GV và HS. Nội dung
xoay quanh vấn đề VHƯX và thực trạng giáo dục VHƯX cho HS hiện nay.
5. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Giới hạn về nội dung.
Văn hóa ứng xử của học sinh được biểu hiện trong tất cả các hoạt động của cuộc sống
hàng ngày, nhưng trong phạm vi đề tài này tôi chỉ nghiên cứu văn hóa ứng của học sinh
trong nhà trường bậc THPT, cụ thể là: cách ứng xử của học sinh với thầy cô, với bạn bè
và trong việc chấp hành nội quy, quy chế của nhà trường.
Giới hạn về khách thể điều tra.

2



Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi lựa chọn điều tra trên 03 cán bộ quản lý, 67
giáo viên và 300 học sinh của 28 lớp thuộc ba khối lớp trong trường THPT Dương Văn
Dương thuộc huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. KẾT CẤU TIỂU LUẬN .
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Đề tài được chia làm 2
chương:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ SƯ PHẠM VÀ GIÁO
DỤC VĂN HOÁ ỨNG XỬ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
CHƯƠNG 2. THỰC TRANG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC VĂN HOÁ ỨNG XỬ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG DƯƠNG VĂN DƯƠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
7. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
Xây dựng cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh THPT.
Tìm hiểu, đánh giá thực trạng giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THPT
Dương Văn Dương. Từ đó có kiến thức, có ý thức xây dựng môi trường giáo dục có văn
hóa, bảo vệ và khẳng định những cái tiến bộ, đẹp đẽ, phù hợp với thời đại, đồng thời đấu
tranh chống lại những biểu hiện tiêu cực...
Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh
trường THPT Dương Văn Dương trong giai đoạn hiện nay.

3


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA ỨNG XỬ SƯ PHẠM VÀ GIÁO
DỤC VĂN HOÁ ỨNG XỬ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
1.1.1. Trên thế giới.
Trong các thập niên 60 - 80 của Thế kỷ XX, tại Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa
Đông Âu vấn đề văn hoá, VHƯX bắt đầu được các tác giả quan tâm nghiên cứu, tuy

nhiên cách nghiên cứu tiếp cận VHƯX tương đồng với lối sống.
Trong những năm 1977 - 1978, Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên ở
Bungari nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên trong đó đề cập đến vấn
đề giáo dục VHƯX, định hướng lối sống của thanh niên.
Năm 1985, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên cứu thanh niên
của 11 quốc gia với lứa tuổi từ 15 - 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo sát xã hội Châu Âu
nghiên cứu trên thanh niên 10 nước Châu Âu. Cả hai cuộc điều tra này đều đề cập đến
vấn đề định hướng lối sống và giáo dục VHƯX cho thanh niên nhằm giúp họ chuẩn bị
bước vào cuộc sống.
1.1.2. Ở Việt Nam.
Nghiên cứu về văn hóa và văn hóa ứng xử ở Việt Nam đã được một số tác giả đề cập
tới. Năm 1987 - 1988, Ban Lý luận giáo dục và giáo dục chuyên nghiệp thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu và điều tra về xu hướng nhân cách của HS, SV” Đề tài đã chỉ ra những xu
hướng nhân cách của HS, SV trong đó nhấn mạnh VHƯX là một bộ phận cấu thành nhân
cách.
Đề tài cấp Nhà nước, nghiên cứu về lối sống và môi trường, mã số KX.06 - 13 được
nêu khái quát trong “Báo cáo tổng kết chương trình nghiên cứu về văn hóa, văn minh, mã
số KX - 06 (1991 - 1995)” như sau: “Lối sống, trong một chừng mực nhất định, là cách
ứng xử của những người cụ thể của môi trường sống. Môi trường là cái khách quan quy
định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người,
của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư”. Định nghĩa này tiếp cận lối sống như một
phương thức ứng xử thực tế của con người trong một môi trường nhất định.
Trong những năm gần đây, ngoài một số công trình liên quan đến văn hóa lối sống,
như bàn luận về lối sống, nếp sống, đạo đức chuẩn giá trị xã hội thì cũng có một vài công
trình nghiên cứu VHƯX.
Tác giả Đỗ Huy, Vũ Khắc Liên với tác phẩm “Nhân cách văn hoá trong bảng giá trị
Việt Nam” đã tập trung làm rõ những đặc điểm, thuộc tính tâm lý của các cá nhân biểu
đạt cho những giá trị cơ bản trong bảng giá trị Việt Nam và cũng góp phần vào việc hình
thành nhân cách văn hoá, ứng xử văn hoá của người Việt Nam. Đây là cơ sở để tạo nên
nét đặc trưng của văn hoá ứng xử ở người Việt.

Tác giả Thanh Lê trong cuốn “Văn hoá và lối sống” đã đề cập gián tiếp văn hoá ứng
xử bằng hai mục ở hai chương. Đó là những điều bàn về lối sống, nếp sống, mức sống
của người Việt Nam. Từ đó tác giả nêu lên giá trị của văn hoá đối với lối sống hiện nay là
ủng hộ cái đẹp, phê phán cái xấu, hướng tới chân - thiện - mỹ.
Trong tác phẩm “Cơ sở văn hoá Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm đã xem xét văn
hoá khởi đầu từ các điều kiện vật chất quy định và định vị văn hoá Việt Nam, qua đó nhận
thức được cái tinh thần là văn hóa nhận thức và văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng, để
rồi cái tinh thần đó lại tác động trở lại đời sống vật chất hình thành nên cách thức ứng xử
giao lưu với môi trường tự nhiên và xã hội.
4


Tác giả Nguyễn Văn Lê với tác phẩm “Văn hóa đạo đức trong giao tiếp ứng xử xã
hội” đã đề cập về văn hoá ứng xử cộng đồng và văn hoá ứng xử trong thương lượng đàm phán. Qua đó, tác giả lý giải và chỉ dẫn các tình huống cụ thể rồi đưa cách ứng xử
cho phù hợp với đối tượng và loại hình khác nhau.
Tác giả Lê Văn Quán trong tác phẩm “Văn hóa ứng xử truyền thông của người Việt
Nam” đã bàn về văn hóa ứng xử của người Việt Nam. Từ các nhân tố tạo nên các ứng xử,
tác giả nêu lên các bình diện và phương châm ứng xử của người Việt theo nhân cách
chân, thiện, mỹ.
Ngoài ra còn có thể kể đến những công trình khác dưới dạng các chuyên đề khoa học,
bài tạp chí, bài báo đề cập đến một phương diện nhất định của VHƯX. Chẳng hạn trong
chuyên luận “Tình người, giao tiếp và văn hóa giao tiếp” thuộc công trình “Văn hóa và
giáo dục. Giáo dục và văn hóa”, tác giả Trần Trọng Thủy quan niệm “giao tiếp chính là
phương tiện thể hiện của tình người. Văn hóa giao tiếp của con người có liên quan chặt
chẽ với các kỹ năng giao tiếp đặc trưng, được hình thành ở họ, ví dụ kỹ năng “chỉnh sửa”
các ấn tượng ban đầu về người khác khi mới làm quen với họ; tôn trọng các quan điểm,
sở thích, thị hiếu, thói quen… của người khác…” .
Trong các công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả đều đã đi nghiên cứu và làm rõ
VHƯX, những biểu hiện của VHƯX. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu những công trình nghiên
cứu sâu về quản lý hoạt động giáo dục VHƯX cho HS THPT. Vì vậy, tôi đi sâu nghiên

cứu đề tài “ Hoạt động giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trường THPT Dương Văn
Dương, huyện nhà Bè”.
1.2. Một số khái niệm.
1.2.1. Văn hóa, văn hóa ứng xử.
1.2.1.1. Khái niệm văn hóa.
Văn hóa theo tiếng Latinh là “cultus” nghĩa là sự trồng trọt. Danh từ “cultus” được
hiểu theo hai nghĩa khác nhau “cultusagri” là trồng trọt ngoài đồng (trồng cây) và
“cultusannimi” là trồng tinh thần, trồng người.
Như vậy theo nghĩa gốc của từ “văn hóa” thì đó là làm cho sự vật, hiện tượng sinh sôi,
nảy nở, phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.
Theo tiếng Hán “văn” là những cái tốt đẹp của cuộc sống, làm cho cuộc sống tốt đẹp
hơn. Theo cách hiểu khác văn hóa là lấy cái đẹp để giáo hóa con người.
Thực chất, văn hóa là một lĩnh vực rộng bao gồm nhiều yếu tố liên quan đến hoạt động
của con người, chính vì vậy có rất nhiều cách hiểu và cách diễn đạt khác nhau về văn hóa.
Nhiều ngành khoa học đều lấy văn hóa làm đối tuợng nghiên cứu, mỗi nhà khoa học lại
tiếp cận văn hóa trong một hoàn cảnh lịch sử và ở những góc độ khác nhau. Trong luận
văn này, tôi chú ý tới một số khái niệm văn hóa sau:
Năm 1871, Edward Burnett Tylor - một nhà dân tộc học, nhân chủng học ngƣời Anh
trong tác phẩm “Primittive culture” (văn hóa nguyên thủy) đưa ra định nghĩa đầu tiên về
văn hóa: “Văn hóa… là phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, tập quán cùng những khái niệm và thói quen khác mà con người thu nhận được với
tư cách là một thành viên trong xã hội”.
F. Boas cho rằng: Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt
động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập
thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những
nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với
nhau.

5



Đây được xem là những quan niệm đầu tiên về văn hóa trên thế giới. Trong đó, E.
Tylor cho rằng văn hóa bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người,
từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… quan niệm này đã nêu lên
được rất nhiều lĩnh vực của văn hóa, tuy nhiên nó mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê mọi lĩnh
vực sáng tạo của con người; còn F. Boas mới chỉ quan tâm tới những yếu tố góp phần
quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người đó là mối quan hệ giữa cá nhân,
tập thể và môi trường. Như vậy, cả hai quan niệm này chưa khái quát được đầy đủ bản
chất của khái niệm văn hóa.
Trong những quan niệm về văn hóa nêu trên, mỗi quan niệm nhìn nhận bản chất văn
hóa ở một góc độ riêng, nhưng đều coi văn hóa là sản phẩm hoạt động của con người
thông qua quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên và với xã hội. Những sản phẩm
đó luôn hướng con người tới chân, thiện, mỹ; gắn bó chặt chẽ cuộc sống của con người.
UNESCO đã đưa ra một định nghĩa chính thức về văn hóa: “Văn hóa phản ánh và thể
hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi các nhân và các cộng
đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế
kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống, mà
dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Trong “Mục đọc sách” của tập Nhật ký trong tù (1943), Hồ Chí Minh đã sớm nêu lên
một định nghĩa khá sâu sắc về văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh con người sáng tạo ra văn hóa là vì cuộc
sống của mình; và chính sự sinh tồn trên trái đất cũng đòi hỏi con người sáng tạo văn hóa.
Điều đó chứng minh con người có khả năng cải tạo thế giới chứ không chỉ dừng lại ở việc
khám phá thế giới như quan niệm của một số nhà triết học trước C.Mác.

Cả hai khái niệm văn hóa của UNESCO và Hồ Chí Minh đều xem xét văn hóa như một
hiện tượng xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống con người, do con người và vì con người.
Nói cách khác, cả hai khái niệm này đều thể hiện bản chất của văn hóa đó là chủ nghĩa
nhân văn.
Còn theo “Cẩm nang ứng xử bí quyết trẻ lâu sống lâu”. Tiến sĩ (Ts) Nguyễn Thế Hùng
đầu tiên quan tâm đến khái niệm này. Ông cho rằng văn là đẹp, hóa là giáo hóa”.
Sau đó xuất hiện nhiều định nghĩa văn hóa khác nhau:
Văn hóa là dùng văn để giáo hóa. “Văn hóa nghĩa là lấy cái đẹp để giáo hóa con người
Theo E.Henriotte: “Văn hóa là cái gì còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn
thiếu khi người ta đã học tất cả”.
+ Theo từ điển tiếng việt, văn hoá được định nghĩa là: “Văn hóa là tổng thể nói chung
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.
+ Ts. Nguyễn Thế Hùng viết: Văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống con người,
là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của
một đất nước, một thời đại. Văn hóa thể hiện khát vọng sống của con người hướng về
Chân - Thiện - Mỹ. Văn hóa trở thành công cụ quan trọng của con người.
Từ việc hệ thống hóa sơ bộ những cách tiếp cận khác nhau về văn hóa, có thể hiểu
“Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
6


lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội”.
1.2.1.2. Khái niệm ứng xử.
Ứng xử là một từ ghép gồm hai từ “ứng” và “xử”. Mà ứng và xử lại bao gồm nhiều
nghĩa khác nhau: ứng phó, ứng đáp, ứng đỗi, ứng biến và xử sự, xử lý, xử trí, xử thế, hành
xử…
Những phản ứng đáp lại đối với tự nhiên (theo nghĩa là thế giới vật chất bao quanh mỗi
người và theo nghĩa là những con người khác, những mối quan hệ khác, kể cả những sản
phẩm do con người tạo ra) theo cách này hay cách khác có thể coi là ứng xử.

Ứng xử có thể hiểu theo nghĩa hẹp đối với giới động vật, bao gồm tất cả những phản
ứng thích nghi của một cơ thể có hệ thống thần kinh thực hiện nhằm đáp trả lại những
kích thích ngoại giới trong đó đang tồn tại cơ chế sống. Những phản ứng của chủ thể (cơ
chế sống) và những kích thích ngoại giới là có thể quan sát được.
Trong hiện thực của xã hội, dưới ảnh hưởng của điều kiện vật chất (mức độ sở hữu tư
liệu, của cải; khả năng tiếp nhận và phân chia thành phẩm lao động,.v.v...) và đời sống
tinh thần (truyền thống, văn hóa, tư tưởng, tập tục, tôn giáo,v.v....) chúng ta đều có một
cảm nhận chung rằng sự phân chia đẳng cấp, giai cấp và những nhóm sắc tộc đã sản sinh
ra những con người có một số nét tương đồng về suy nghĩ, hành động theo những mực
thước được cả xã hội coi là giá trị và được thừa nhận. Những mực thước đó giúp mỗi cá
nhân có được một định hướng riêng trong ứng xử phù hợp với cộng đồng, dân tộc mà
mình đang tồn tại và được gọi là khuôn mẫu ứng xử.
Một ứng xử có thể trở thành khuôn mẫu khi nó được lặp lại thường xuyên bởi nhiều cá
nhân trong một cộng đồng bởi những lý do sau đây: Trước hết, cho dù mỗi cá nhân có
nhu cầu về tinh thần vật chất khác nhau, có những cách thức thỏa mãn nhu cầu của bản
thân theo bản năng của riêng mình, song giữa họ vẫn có những mối liên kết hoặc tự giác,
hoặc tự phát nhằm bảo tồn vị trí xã hội của mỗi cá nhân. Chẳng hạn, ứng xử giữa con cái
với cha mẹ, mặc dù ngôn từ có thể diễn đạt khác nhau ở mỗi cộng đồng: bố, mẹ, thầy, u,
cậu, mợ, song cái chung nhất trong ngôn ngữ ứng xử giữa con cái với bố mẹ ở mọi thời
đại vẫn ẩn giấu sau nó đó là sự tôn kính và thương yêu. Mặt khác, nhờ có hệ thống di sản
trong sự phát triển của cá nhân, những thế hệ sau luôn luôn được thừa hưởng những
khuôn mẫu ứng xử vốn có do các thế hệ đi trước truyền lại, đó là những ứng xử đã được
tổng quát hóa, tiêu chuẩn hóa và hợp thức hóa dùng làm chuẩn mực để phân biệt những gì
có thể chấp nhận được và những gì không thể chấp nhận được. Như vậy, một khi khuôn
mẫu ứng xử về một phạm vi nào đó trong đời sống xã hội được hình thành, nó không còn
là cái riêng, cái cụ thể trong mỗi cá nhân mà đã được khách thể hóa và được coi như một
hệ thống tiêu chí giúp mọi người lấy đó làm thước đo cho các mối quan hệ xã hội của bản
thân mình. Chính vì lẽ đó, đôi khi người ta còn gọi khuôn mẫu ứng xử là những khuôn
mẫu văn hóa bởi tính khách thể hóa những tri thức tiềm ẩn trong khuôn mẫu ứng xử.
Trong xã hội có bao nhiêu mối quan hệ thì có bấy nhiêu ứng xử và thậm chí số lượng

ứng xử còn lớn hơn nhiều lần số lượng các mối quan hệ xã hội, song một ứng xử chỉ trở
thành khuôn mẫu văn hóa (theo Đoàn Văn Chúc, tác giả cuốn Xã hội hóa văn hoá) khi nó
thỏa mãn 4 yếu tố sau đây: "a/ ứng xử thường xuyên được lặp đi lặp lại, tức là tính thời
gian của ứng xử; bị ứng xử được lặp lại tương đối theo cùng một cách bởi nhiều người,
tức là tính không gian của ứng xử; c/ ứng xử ấy có tác dụng chỉ nam, mẫu mực, hay quy
tắc cho các thành viên của một nhóm hay của một xã hội; dị ứng xử ấy chứa đựng một ý
nghĩa xã hội nào đó, tức là nó biểu thị kiến thức tư tưởng hoặc tình cảm mà chủ thể đã đạt

7


được nói một cách khác, nó là cái mang vác một giá trị (kinh tế, chính trị, luân lý hay
thẩm mỹ) .
Có thể nói, hệ thống khuôn mẫu ứng xử với tính cách là một khuôn mẫu văn hóa chính
là những quy chuẩn đảm bảo cho các mối quan hệ xã hội được bền vững trong những
nhóm xã hội khác nhau, là cơ sở xã hội cho việc xem xét các thể loại và hoạt động ứng
xử. Khuôn mẫu ứng xử sở dĩ có được khả năng thu phục sự chấp nhận của số đông người
trong các nhóm xã hội chính bởi nó đã được tổng quát hóa từ các ứng xử của mỗi cá nhân
rồi thông qua tuyển chọn để điều chỉnh, bổ sung, tạo nên những quy chuẩn và cùng với nó
là từng bước hợp thức hóa những quy chuẩn trong mỗi khuôn mẫu ứng xử bằng các biện
pháp cưỡng bức (luật định, quy chế, nội quy trong cơ quan nhà nước, hương ước, gia
phong trong làng bản và gia đình), hoặc khuyến khích cổ vũ sự tự ý thức của mỗi cá nhân
khi họ thực hiện các quan hệ ứng xử.
Từ lâu vấn đề ứng xử của con người là một phạm trù được nhiều nhà tâm lý học, xã hội
học, sinh vật học quan tâm. Bởi con người muốn tồn tại, trước hết phải dựa vào bản chất
tự nhiên nhờ sự tiến hóa của thế giới vật chất, vì thế nó cũng chịu sự chi phối của tự nhiên
đồng thời tác động lại tự nhiên theo cách này hay cách khác có thể coi là ứng xử.
- Dưới góc độ sinh học: Các nhà khoa học cho rằng: ứng xử là toàn thể phản ứng thích
nghi có thể quan sát khách quan mà một cơ chế có một hệ thống thần kinh thực hiện để
đáp trả lại những sự kích thích… Điều đáng chú ý là những phản ứng ấy, những xử lý, xử

lý để đáp ứng cơ chế kích thích, tác động: “được diễn ra theo cách tương đối ổn định”
thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ,… của đối tượng bị tác động.
- Dưới góc độ xã hội học: Ứng xử được hiểu là “cách hành động (và nói) như thế nào
đó của một vai trò này đối diện với một vai trò khác (tức một cặp vai trò như vợ/chồng,
cha/con, cấp trên/cấp dưới…). Và đó là những hành động hoặc gọi là phản ứng, theo một
cách tương đối”.
- Dưới góc độ tâm lý học: Ứng xử được khai thác dưới khía cạnh những quan hệ giao
tiếp. Điều đó lý giải vì sao vấn đề ứng xử đã được nhiểu người sử dụng khái niệm kép:
giao tiếp - ứng xử, trong các mối quan hệ xã hội giữa con người với tự nhiên, con người
với xã hội và con người với chính mình.
Ứng xử chủ động trong giao tiếp, không chủ động tạo ra hành động (vì nó được coi là
sự phản ứng của con người). Nhưng ứng xử lại chủ động trong thái độ, phản ứng trước sự
tác động của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong một tình huống cụ thể nào
đó. Sự chủ động ứng xử càng cao thì càng thể hiện bề dày kinh nghiệm, tri thức của chủ
thể ứng xử.
- Từ những nội dung trên có thể rút ra những điểm cơ bản về ứng xử ở người như sau:
Một là: Ứng xử là những phản ứng của con người đáp lại đối với tự nhiên; là điều chủ
thể cảm thấy, nhận thấy, hiểu mình đang đứng trước tình huống nào để tổ chức hoạt động
đáp trả lại tình huống đó.
Hai là: Trong ứng xử những suy nghĩ của chủ thể luôn được biểu hiện ra bên ngoài
thông qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, sắc thái tình cảm… mà đối tác và những người
xung quanh có thể quan sát và nhận biết được.
Ba là: Ứng xử không diễn ra một cách tùy tiện mà thường tuân theo khuôn mẫu nhất
định nào đó.
Bốn là: Ứng xử thể hiện ở chỗ con người không chủ động trong giao tiếp mà chủ động
trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán. Sự lựa chọn đó có được dựa trên cơ sở tri
thức, kinh nghiệm của mỗi cá nhân.

8



Xét trên bình diện nhân cách thì bản chất của ứng xử chính là những đặc điểm tính
cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân
với những người xung quanh và yếu tố bên ngoài tác động vào con người.
Như vậy, theo tôi: Ứng xử là phản ứng của con người trước sự tác động của người khác
hay môi trường tự nhiên trong một tình huống cụ thể nhất định. Ứng xử là biểu hiện bản
chất nhân cách của mỗi cá nhân thông qua ngôn từ, cử chỉ, thái độ, phong thái, hành vi
trước sự tác động của các yếu tố bên ngoài.
1.2.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa mọi mặt đời sống xã hội trong
đó có toàn cầu hóa văn hóa đã làm cho môi trường văn hóa được mở rộng. Nhờ đó, chủ
thể văn hóa có thể tiếp cận và tiếp nhận các giá trị văn hóa phong phú, đa dạng. Tuy
nhiên, điều đó cũng đòi hỏi chủ thể văn hóa phải có một sự hiểu biết nhất định để nhận
thức được giữa môi trường văn hóa mênh mông ấy, đâu là giá trị văn hóa cần học hỏi,
trau dồi, đâu là những nguồn văn hóa lai căng cần phải đấu tranh gạt bỏ. Đó cũng là một
trong những ứng xử cần thiết của mỗi người trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Văn hóa không chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự làm đẹp cho đời bằng sự hiểu biết.
Không hiểu biết hay hiểu biết không đầy đủ thì không thể tạo ra sản phẩm văn hóa có giá
trị hoặc không thể hưởng thục có chất lượng thành tựu của văn hóa; và cũng khó có thể có
hành vi ứng xử đạt đến tầm văn hóa.
Vậy văn hóa ứng xử là gì?
Trong công trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm không trình bày
một cách trực tiếp khái niệm văn hóa ứng xử nhưng ông đã làm rõ nội hàm của khái niệm
này. Theo tác giả, cộng đồng chủ thể văn hóa tồn tại trong quan hệ với hai loại môi
trường: Môi trường tự nhiên (thiên nhiên, khí hậu…) và môi trường xã hội (các dân tộc,
các quốc gia). Với mỗi loại môi trường đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại
tác động của chúng (tạo nên hai vi hệ): tận dụng môi trường (tác động tích cực) và ứng
phó với môi trường (tác động tiêu cực). Với môi trường tự nhiên, có ứng phó với thiên tai
(trị thủy), với khoảng cách (giao thông), với khí hậu và thời tiết (quần áo, nhà cửa…). Với
môi trường xã hội, bằng quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng

tận dụng những thành tựu của các dân tộc lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hóa của
mình; đồng thời lại phải lo ứng phó với họ trên các mặt trận quân sự, ngoại giao…
Như vậy, theo tác giả văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội có
hai hàm nghĩa: tận dụng và ứng phó. Có thể coi đó là thái độ ứng xử. Cách thể hiện thái
độ này là giao lưu và tiếp biến văn hóa.
Theo tác giả Đỗ Long trong “Tâm lý học với văn hóa ứng xử”, thì: “Văn hóa ứng xử là
hệ thống thái độ và hành vi được xác định để xử lý mối quan hệ giữa người với người trên
các căn cứ pháp lý và đạo lý nhằm thúc đẩy nhanh sự phát triển của cộng đồng, của xã
hội”.
Như vậy có thể hiểu: Văn hóa ứng xử là một bộ phận cấu thành của văn hóa. Đó chính
là hệ thống giá trị, chuẩn mực quy định phương thức ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng
đồng.
1.2.2. Ứng xử sư phạm.
1.2.2.1. Khái niệm về ứng xử sư phạm.
Ứng xử sư phạm (ƯXSP) là một dạng hoạt động giao tiếp giữa những người làm công
tác giáo dục và được giáo dục trong nhà trường nhằm giải quyết các tình huống nảy sinh
trong hoạt động giáo dục và giáo dưỡng. Như vậy ƯXSP được thực hiện bởi những nhân
cách (nhân cách giáo viên và nhân cách học sinh). Thầy và trò là những con người cụ thể,
9


ở những vị trí xã hội khác nhau, có trách nhiệm quyền hạn và lợi ích xác định, đồng thời
ở mỗi người trong họ có một hoàn cảnh về gia đình, đời sống tâm lý và những mối quan
hệ riêng biệt. Tuy vậy, giữa những cá nhân này có một điểm chung trong hoạt động là đều
nhằm đạt tới mục đích giáo dục tổng thể trong việc hình thành nhân cách con người mới
xã hôi chủ nghĩa Việt Nam, các hoạt động của họ đều diễn ra trong môi trường sư phạm
với những đặc trưng vốn có của nó như quan hệ thầy trò, cảnh quan trường lớp, thời gian
học tập, vui chơi,.v.v…
Các ứng xử sư phạm được thực hiện chủ yếu trong các quan hệ qua lại giữa người làm
công tác giáo dục và học sinh hoặc tập thể học sinh, chịu sự quy định và điều tiết của

những chuẩn mực xã hội, quy chế, nội quy của các thể chế và cơ quan giáo dục ấn định
cho mỗi vị trí xã hội mà giáo viên hoặc học sinh có trách nhiệm thi hành; Trình độ nhận
thức, kinh nghiệm và hệ thống tri thức, kỹ năng cần cho mục đích và nội dung ứng xử;
Thái độ giữa chủ thể và đối tượng ứng xử.
Ứng xử sư phạm là một quá trình đi từ nhận thức đến hành động:

Tìm hiểu đối
tượng ứng xử

Quan sát và
vận dụng

Thực hiện hành
vi ứng xử

Hoạt động ứng xử có được là nhờ ở sự xuất hiện những tình huống trong hoạt động
giáo dục. Giao tiếp sư phạm và ƯXSP đều nhằm đạt tới mục đích nào đó về giáo dục,
song cái khác trong ƯXSP chính là thái độ mang màu sắc cá nhân và các thủ thuật biểu
hiện thái độ đó qua từng cử chỉ, lời nói, sắc mặt,.v.v... của các chủ thể tham gia ứng xử.
Tác giả Ngô Công Hoàn đã nhận định rất hợp lý rằng: "khi sử dụng khái niệm giao tiếp,
là muốn định hướng vào mục tiêu công việc (nhằm vào đích đặt trước), còn ứng xử muốn
định hướng chính nào nội dung tâm lý, cái "bản chất xã hội" của cá nhân của hành vi giao
tiếp".
1.2.2.2. Chức năng của ứng xử sư phạm.
Nói tới chức năng của ứng xử sư phạm là nói tới vai trò đặc trưng của nó trong sự hình
thành nhân cách cho học sinh thông qua các hoạt động giáo dục. Chức năng của ƯXSP
được xác định trên mục đích giáo dục tổng thể và mục tiêu cấp học. Những định hướng
lớn này bao trùm lên tất cả hoạt động giáo dục, chi phối việc xác định những chức năng
của những hoạt động giáo dục và giáo dưỡng khác. Hoạt động ứng xử có mặt trong tất cả
các hoạt động giáo dục, vì thế chức năng của ứng xử còn có cơ sở từ tính chất riêng biệt

của hoạt động này. Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số chức năng cơ bản của hoạt động
ƯXSP.
- Chức năng thông tin của ứng xử sư phạm.
Hoạt động ứng xử về bản chất là một hoạt động giao tiếp xã hội thông qua các phương
tiện giao tiếp vật chất và phi vật chất và nhờ có những phương tiện này (ngôn ngữ, vật
thể, nhân cách của các cá nhân tham gia giao tiếp) mà con người có được những mối quan
hệ mang tính xã hội Sự hiểu biết lẫn nhau giữa các cá nhân được thực hiện nhờ các kênh
thông tin chứa đựng trong các phương tiện giao tiếp.
Ứng xử sư phạm là một dạng giao tiếp xã hội diễn ra giữa 2 nhóm xã hội: Giáo viên và
học sinh. Thầy và trò có thể hiểu biết thấu đáo nhau hơn nhờ các thông tin phát ra trong
quá trình ứng xử (trước, trong và sau quá trình ứng xử). Những thông tin có trong ứng xử
giúp cho giáo viên nhận biết được tính cách, nhu cầu, sở thích năng lực chỗ mạnh, chỗ
yếu của học sinh, của những nhóm xã hội mà học sinh tham gia, đồng thời cũng tư nhận
10


biết năng lực và nghệ thuật sư phạm của bản thân mình. Về phía học sinh, cũng chính
trong quá trình ứng xử các em tiếp nhận được nhiều hơn hệ thống tri thức về cuộc sống,
cung cách đói nhân xử thế, hiểu rõ vị thế của mình trong tập thể quyền lợi và trách nhiệm
của bản thân trước cộng đồng, biết được tính cách của thầy nhờ sự biểu đạt của thầy trong
ứng xử. Thông tin có được trong ứng xử không chỉ do chủ thể ứng xử và đối tượng tạo ra
mà còn nhờ ở tập thể và cộng đồng nơi xảy ra ứng xử (tin tức cập nhật xung quanh tình
huống, dư luận và truyền thống của tập thể…). Nhờ có mối quan hệ diễn ra trong các ứng
xử, những thông tin được tiếp nhận và xử lý trở nên rõ ràng hơn về bộ mặt nhân cách của
cả chủ thể và đối tượng ứng xử bởi có nhiều nét tính cách của con người chỉ được bộc lộ
qua những tình huống nào đó.
Lượng thông tin có trong ứng xử qua nhiều lần xử lý của chủ thể và đối tượng sẽtrở
thành vốn kinh nghiệm ứng xử cho mỗi cá nhân, giúp cho mỗi cá nhân hòa nhập tất hơn
vào cộng đồng, vào tập thể, làm cho những cái vốn là chung nhất của mọi người (đạo đức
lối sống…), trở thành tài sản riêng của bản thân, có sắc thái riêng tương ứng với đặc điểm

tâm lý của mỗi người. Mỗi ứng xử có thể đi tới những hiệu quả khác biệt về mặt giáo dục
nhưng chức năng thông tin luôn luôn tồn tại trong suốt quá trình ứng xử.
- Chức năng điều chỉnh của ứng xử sư phạm.
Hoạt động giáo dục nói chung là một hoạt động điều chỉnh. Điều chỉnh nhận thức, điều
chỉnh hành vi điều chỉnh hoạt động của học sinh. Người giáo viên không thể thay thế
những gì vốn đã có trong học sinh như trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống, các đặc
điểm sinh học của các em. Hoạt động giáo dục đòi hỏi người giáo viên phải nắm bắt được
các quy luật hình thành, phát triển nhân cách của học sinh để định ra được nội dung,
phương thức, phương tiện giáo dục cho phù hợp. Ứng xử sư phạm với tư cách là một quá
trình giáo dục cũng được thực hiện theo định hướng đó. Mỗi ƯXSP giải quyết một nhiệm
vụ giáo dục nhằm đạt tới những kết quả cụ thể: Đó có thể là uốn nắn một hành vi sai lầm,
khuyến khích động viên một nhân tố tốt, phê bình nghiêm khắc trước khuyết điểm của
học sinh.v.v… và điều đó có nghĩa là liên tục điều chỉnh quá trình hình thành nhân cách
của học sinh theo một hướng nào đó có lợi cho sự phát triển của cá nhân và tập thể. Sự
điều chỉnh này của ƯXSP diễn ra hàng ngày, tức thời và luôn luôn có tính hiệu nghiệm
thông qua những dấu hiệu có thể thấy được bằng trực giác (niềm vui hay nỗi buồn, ôn hòa
hay tức giận, đồng cảm hay phản ứng quyết liệt của học sinh). Từ kết quả của mỗi ứng
xử, chủ thể ứng xử tự thấy mình cần phải làm gì và làm như thế nào để những ứng xử
tiếp theo có được hiệu quả cao hơn. Như vậy chức năng điều chỉnh được xét về cả hai
phía: Điều chỉnh nhân cách của đối tượng ứng xử trong giải quyết tình huống của chủ thể
và tự điều chỉnh phương pháp, thủ thuật ứng xử của giáo viên trong và sau mỗi ứng xử.
- Chức năng định hướng của ứng xử sư phạm.
Định hướng trong ứng xử sư phạm được xét tới như là một chức năng bao trùm lên các
chức năng khác của ƯXSP bởi tính mục đích chiến lược của các ƯXSP. Mỗi ƯXSP giải
quyết một tình huống cụ thể và đạt tới một hiệu quả nhất định về giáo dục và giáo dưỡng,
song cái đích cuối cùng của mỗi ứng xử và của một hệ thống các ứng xử là hướng tới việc
hình thành một nhân cách tốt đẹp hơn, thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp bền chặt giữa
thầy và trò, giữa sự chỉ dẫn điều chỉnh của người giáo viên bằng tấm lòng nhân ái cao cả
và kinh nghiệm nghệ thuật sư phạm của mình với sự tiếp nhận, tự điều chỉnh của học
sinh: Mối quan hệ giữa cá nhân giáo viên với tập thể học sinh và giữa các tập thể học

sinh với nhau. Chức năng định hướng vừa có tính tổng quan chung cho các thành phần
tham gia ứng xử, đồng thời còn là sự định hướng hoạt động cho mỗi thành phần riêng lẻ
tùy thuộc vào vị trí của nó trong ƯXSP: Định hướng chủ yếu đối với chủ thể ứng xử là sự
11


cần thiết phải có được hệ thống các tri thức, kỹ năng xử lý các tình huống sư phạm, là sự
khéo léo đối với sư phạm và ý thức chủ đạo dẫn dắt cho toàn bộ quá trình ứng xử đạt tới
mục đích giáo dục. Định hướng đối với đối tượng ứng xử chính là giúp họ tự nhận rõ
mình, biết được đúng sai, thấy quyền lợi và trách nhiệm đối với tập thể, với xã hội. Có thể
nói tích luỹ kinh nghiệm sống, biết tự điều chỉnh ý thức, hành vi theo lẽ phải trong học
tập và rèn luyện là cái đích cuối cùng mà mỗi ƯXSP cần phải hướng tới.
Sự định hướng trong ƯXSP không nên hiểu như một con đường duy nhất của mỗi
ƯXSP phải nhất nhất tuân theo, mà phải được hiểu là cơ sở cho mọi điều chỉnh, mọi
thông tin trong ứng xử lấy đó làm cất lõi để vận động, để đạt tới, còn việc sử dụng những
kiểu loại ứng xử nào, thủ thuật ra sao lại phải căn cứ vào tình huống cụ thể của mỗi ứng
xử.
1.2.2.3. Các nguyên tắc ứng xử sư phạm.
Muốn trở thành một nhà sư phạm khéo léo, tinh tế trong ứng xử, thành công trong việc
giáo dục học sinh, mỗi nhà giáo cần phải có hiểu biết và tôn trọng các nguyên tắc ứng xử
sư phạm sau:
Tìm hiểu để có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu rõ hoàn cảnh
gia đình, đặc điểm tâm lý, tính cách, sở thích, thói quen,... của từng em để có biện pháp
giáo dục phù hợp với từng đối tượng.
Luôn giữ được sự bình tĩnh cần thiết trước mỗi tình huống sư phạm. Bình tĩnh để tìm
hiểu một cách cặn kẽ, thấu đáo nguyên nhân của mỗi tình huống để có cách xử lý đúng
đắn, hợp tình, hợp lý. “Hiểu người để dẫn đạo người”, đó là phương châm cao quý của
lao động sư phạm.
Luôn có ý thức tôn trọng học sinh, kể cả những khi học sinh có sai phạm, lỗi lầm với
bản thân nhà giáo. Hãy biết tự kiềm chế để không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc

phạm học trò vì ở tuổi này, lòng tự tôn, cái tôi của các em rất cao.
Luôn đặt mình vào địa vị của học sinh, vào hoàn cảnh của các em, cố gắng nhớ lại bản
thân mình khi ở tuổi như các em để hiểu và thấu cảm. Hãy rút ngắn khoảng cách thế hệ,
gần gũi, cảm thông, chân thành, bao dung và độ lượng với các em.
Luôn biết khích lệ, biểu dương các em kịp thời. Đối với học sinh, thầy cô giáo nên ca
ngợi những ưu điểm của họ nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Học sinh nào cũng thích
được thầy cô giáo biểu dương, vì thế chúng ta không nên tiết kiệm lời khen của mình.
Nhưng cũng cần chú ý, trong khi khen cũng không quên chỉ ra những thiếu sót của học
sinh để các em khắc phục, không ngừng tiến bộ.
Luôn thể hiện niềm tin vào sự hướng thiện của các em. Ngay cả khi các em mắc sai
lầm, cũng phải tìm ra những ưu điểm, những mặt tích cực, chứ không nên phê phán nặng
nề. Đó chính là chỗ dựa, là nguồn khích lệ cho học sinh có động lực phát triển.
Góp ý với học sinh về những thiếu sót cụ thể, việc làm cụ thể, với một thái độ chân
thành và giàu yêu thương. Tuyệt đối không nêu những nhận xét chung chung có tính chất
“chụp mũ” hay xúc phạm đến các em.
Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thầy với học trò.
Theo quy luật phản hồi tâm lý, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình
cảm của trò. Dùng lòng nhân ái, đức vị tha giáo dục, cảm hoá học trò sẽ luôn đạt hiệu quả
cao.
Trong mỗi tình huống sư phạm, người thầy cần phải bình tĩnh xem lại bản thân mình.
“Nhân vô thập toàn” nên hãy “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Nếu nhận ra sự thiếu sót, sai
lầm của mình, hãy dũng cảm thừa nhận. Chắc chắn khi làm như thế, học sinh chẳng
những không khinh thầy mà còn rất cảm phục thầy.
12


Việc vận dụng các nguyên tắc cơ bản nói trên vào việc xử lý các tình huống sư phạm là
nghệ thuật của mỗi nhà giáo.
1.2.3. Văn hóa ứng xử sư phạm trong trường THPT.
Ứng xử sư phạm được thể hiện trong một nhóm xã hội đặc biệt bao gồm hai chủ thể

chính là thầy và trò, mỗi chủ thể giữ một vị trí xác định trong quá trình ứng xử. Nói tới
ƯXSP, trước tiên là nói tới vai trò của người giáo viên - chủ thể chịu những kích thích của
tình huống do phía đối tác (cá nhân học sinh hoặc tập thể học sinh) gây ra, họ ở vị trí của
người tiếp nhận thông tin (tình huống), xử lý thông tin và đáp lại đối tượng tạo ra tình
huống của nghề dạy học.
Yếu tố chi phối hiệu quả ứng xử là tính cách nhà giáo - học sinh: Thực chất ứng xử sư
phạm là quá trình giao tiếp giữa nhân cách giáo viên và nhân cách học sinh. Mỗi cá nhân
có một tính cách khác nhau, bởi vậy trong cách ứng xử sư phạm đòi hỏi tấm lòng sẻ chia,
nhân ái cao cả của nhà giáo cùng sự tỉ mỉ, cần mẫn. Đồng thời, học sinh THPT là lứa tuổi
thanh thiếu niên, rất nông nổi, đề cao cái tôi, giai đoạn giữa trẻ con và người lớn...
Chúng ta vẫn thường nghĩ, trong nhà trường, quan hệ giữa thầy và thầy, giữa lãnh đạo
với giáo viên, giữa thầy với trò phải là những ứng xử mang tính chất sư phạm. Tiếc thay,
không phải trường nào cũng được như vậy. Một số nơi, quan hệ này mang tính quản lý,
thiếu tinh thần dân chủ, cởi mở, thậm chí còn có cả sự trù úm, độc đoán của người quản
lý với cấp dưới, của thầy với trò và cả sự đố kỵ ghen ghét giữa các đồng nghiệp (Theo
Văn hóa học đường của TS. Phạm Ngọc Trung)
Nói đến văn hóa ứng xử trong nhà trường, không thể không nói đến cách ứng xử của
thầy với thầy, của thầy với trò và ngược lại. Đa phân các thầy, cô giáo đều mẫu mực, có
cách ứng xử khéo léo. Theo điều tra tại trường THPT Dương Văn Dương, huyện Nhà Bè,
95% học sinh nhận xét thầy cô giáo trong trường đều gương mẫu, có kỹ năng sư phạm,
cách ứng xử sư phạm đúng mực, khéo léo. Tuy nhiên số còn lại, cũng không phải không
có các thầy cô hay gây sự mất đoàn kết trong nội bộ, ghen ghét, đố kỵ với đồng nghiệp, tự
coi mình là “cây đa, cây đề”, là người giỏi nhất, không coi ai ra gì. Lại có những thầy cô
luôn tìm cách lấy lòng quản lý, từ nịnh hót đến mua chuộc… để mong có sự nâng đỡ. Họ
đã làm mất đi sự kính trọng, tin tưởng của đồng nghiệp.
Song điều đáng bàn hơn là cách ứng xử của trò với thầy (cô). Phải thừa nhân rằng, học
sinh thời nay năng động, tự tin và bạo dạn hơn rất nhiều so với các thế hệ cha anh. Mối
quan hệ uy quyền, nhất nhất theo thầy xưa kia đã thay thế bằng mối quan hệ dân chủ, thầy
trò cùng hợp tác trong dạy học và giáo dục. Nhưng chưa bao giờ truyền thống “Tôn sư
trọng đạo” lại bị xúc phạm, xói mòn đến như vậy. Nhiều thầy, cô không chịu nổi trước vô

số những hành vi bất kính, thô tục, vô lễ và tráo trở của học sinh. Trong lúc thầy, cô giáo
lên lớp, thì nhiều phòng học như chợ vỡ, học sinh nói chuyện, cười đùa, mất trật tự, thậm
chí sử dụng điện thoại trong lớp một cách tùy tiện… Danh ngôn xưa có câu “Dạy không
nghiêm là lỗi ở thầy”, và học trò xưa rất kính trọng sự nghiêm khắc ấy. Nhưng nay nếu
thầy nghiêm thì trò thù ghét, thậm chí có chuyện trò đánh chửi thầy.
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần cũng là do “đạo thầy” chưa tốt và cách ứng
xử không có văn hóa của một số thầy cô. Các thầy cô phải có tác phong sư phạm. Bởi vì,
lời ăn tiếng nói, trang phục đều là giáo cụ trực quan, mang tính giáo dục học trò khi thầy
đứng trên bục giảng. Thế nhưng, đã có không ít thầy cô coi đây là chuyện nhỏ, nên tùy
tiện, cẩu thả khi đứng lớp; ngôn ngữ ngày càng suồng sã… Hay những hành vi trừng phạt
học trò như chửi rủa, bạo lực… là những điều không thể chấp nhận được trong môi
trường sư phạm cũng như đối với nhân cách của người thầy.

13


Do đó, nhà giáo có vai trò quan trọng trong ứng xử sư phạm: Yêu cầu vận dụng các
quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, hành động, để giải quyết tình huống ứng xử nhất
định, phù hợp với yêu cầu sư phạm và sát với đặc điểm tâm lý cá nhân của đối tượng giao
tiếp HS THPT. Luôn bám sát mục tiêu giáo dục: Dạy học tích cực, lấy người học làm
trung tâm.
1.2.4. Học sinh THPT.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay, Trung học phổ thông là bậc học cuối cùng
của phổ thông gồm từ lớp 10 đến lớp 12.
“Học sinh trung học phổ thông” là thuật ngữ để chỉ nhóm học sinh đầu tuổi thanh niên
(từ 15, 16 tuổi đến 17, 18 tuổi). Theo tâm lý học lứa tuổi, tuổi thanh niên là giai đoạn phát
triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi mới lớn. Tuổi thanh niên là thời
kỳ từ 14, 15 tuổi đến 25 tuổi, trong đó chia ra làm 2 thời kỳ.
- Từ 14, 15 tuổi đến 17, 18 tuổi: giai đoạn đầu tuổi thanh niên (giai đoạn học sinh trung
học phổ thông).

- Từ 17, 18 tuổi đến 25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (giai đoạn thanh niên sinh viên).
Khi xem xét nhiều yếu tố tác động hình thành các đặc điểm phát triển ở lứa tuổi này,
xuất phát từ những quan niệm, những trường phái khác nhau, có nhiều lý luận khác nhau
về lứa tuổi thanh niên.
Các tâm lý học tập trung xem xét những quy luật tiến hóa của tâm lý là cái cơ bản
quyết định sự phát triển, các nhà phân tâm học quan tâm nhiều đến sự phát triển của tính
dục và sự chi phối của nó đối với sự phát triển của lứa tuổi này.
Các nhà xã hội học lại chú ý trước hết đến tính xã hội hóa của giai đoạn phát triển này
và coi mức độ xã hội hóa của mỗi cá thể là tiêu chí chủ yếu quyết định sự phát triển này.
Nhiều nhà tâm lý học hiện đại cho rằng cần nghiên cứu lứa tuổi này một cách phức tạp,
các yếu tố sinh học, phân tâm học và xã hội học đều được xem xét và xác định rõ vai trò,
vị trí của nó, tìm ra những quy luật hoạt động bên trong cũng như mối tác động qua lại
của chúng.
1.2.4.1. Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh THPT.
Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người theo yêu
cầu xã hội. Được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, được tiến hành dưới vai trò chủ đạo
của nhà giáo dục nhằm giúp đối tượng giáo dục phát triển về: trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ,
thế giới quan, nhân sinh quan... giúp họ biến kinh nghiệm xã hội - lịch sử thành kinh
nghiệm bản thân. Giáo dục bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau:
- Giáo dục đức dục.
- Giáo dục trí dục.
- Giáo dục thẩm mỹ.
- Giáo dục tình cảm.
- Giáo dục môi trường…
Giáo dục VHƯX là một nội dung nằm trong giáo dục đạo đức. Giáo dục VHƯX là
cung cấp các tri thức, thông tin thích hợp, nhằm giúp HS nâng cao nhận thức, sự hiểu
biết, điều tiết cảm xúc bản thân, thay đổi hành vi theo hướng tốt đẹp hơn, từ đó định
hướng những giá trị tốt đẹp trong VHƯX, trong xã hội. Đồng thời trang bị kiến thức sống
giúp các em hội nhập cuộc sống văn minh, hiện đại.
Như vậy có thể hiểu “Giáo dục VHƯX là quá trình trang bị cho HS những tri thức,

hiểu biết về khuôn mẫu ứng xử, những chuẩn mực hành vi đạo đức, phát triển khả năng

14


giao tiếp, giúp HS có thái độ, cách thức quan hệ, hành động và kỹ năng lựa chọn, ứng xử
linh hoạt, phù hợp trong mọi tình huống đa dạng của cuộc sống”.
Một số đặc điểm của học sinh THPT
Có thể nói, học sinh THPT là một nhóm người xã hội đặc biệt, được chuẩn bị để bước
vào các lĩnh vực học tập nghề nghiệp hoặc trực tiếp tham gia lao động xã hội, là nhóm
người thuộc một độ tuổi xác định và là một nhân cách.
Đó là nhóm người chuẩn bị bước qua lứa tuổi vị thành niên để trở thành một công dân
trong cộng đồng xã hội. Là nhóm người có sự phát triển mạnh về mặt tâm lý, nhu cầu,
hứng thú dần tới bước ổn định, có sự định hướng, tình cảm phong phú, có sự tham gia
ngày càng nhiều của hoạt động ý chí, hình thành thế giới quan, lý tưởng sống,v.v... Là
nhóm người chuẩn bị bổ sung cho nguồn nhân lực có tri thức của xã hội. Ở lứa tuổi học
sinh THPT, hoạt động của các em rất đa dạng về loại hình và tính chất, đây là lứa tuổi mà
các hoạt động giao lưu, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao trở thành nhu cầu
thường trực. Tuy nhiên hoạt động học tập vẫn là hoạt động mang tính chủ đạo, sự can
thiệp của tự ý thức đối với mục đích học tập của các em ngày một rõ ràng, thái độ, động
cơ lựa chọn đối với các môn học nhằm thỏa mãn khuynh hướng nghề là nét khác biệt so
với tuổi thiếu niên.Với đặc điểm này, hoạt động học tập của học sinh THPT mang tính
năng động, độc lập, chủ động hơn.
Đối tượng hoạt động của học sinh THPT được mở rộng, nó không chỉ đóng khung
trong khuôn khổ học đường mà ngày càng được tiếp cận với những hoạt động phong phú
ngoài xã hội thông qua các nội dung hoạt động chính khóa, ngoại khóa và sự mở rộng
giao lưu xã hội của các em.
Hoạt động của học sinh THPT diễn ra trong môi trường và những điều kiện đã được kế
hoạch hóa nghiêm ngặt để chuẩn bị cho họ kết thúc giai đoạn học tập ở phổ thông chuyển
sang giai đoạn học nghề, lập nghiệp. Tính chuẩn mực và nghiêm túc của các kỳ thi vào

các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp là những điều kiện khách quan ràng buộc học sinh THPT
vào các hoạt động chủ yếu, chính diện là học tập. Ngoài học ở trường, học sinh còn tham
gia nhiều lớp ôn luyện để chuẩn bị cho thi cử. Phương tiện hoạt động của học sinh THPT
chủ yếu vẫn là sách vở giáo khoa, song số lượng và chất lượng tài liệu tham khảo bổ sung
cho kiến thức đã học nhiều hơn, sâu hơn.
Những đặc điểm hoạt động nêu trên của học sinh THPT đã tác động trực tiếp đến quá
trình tâm lý và các phẩm chất tâm lý khác.Về cơ bản, hoạt động của học sinh THPT là
quá trình nhằm đạt tới mục đích hoàn thiện kiến thức phổ thông, chuẩn bị cho việc tiếp
thu kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, vì thế nó đòi hỏi anh tự lập, chủ động và hoạt
động lý trí của bản thân, có cách nhìn đúng đắn hơn về những giá trị xã hội và những gì
vốn có của cá nhân mình.
Đặc điểm của học sinh bậc THPT bao gồm rất nhiều phương diện, như: đặc điểm về sự
phát triển của thể chất; đặc điểm của hoạt động học tập; đặc điểm của sự phát triển trí tuệ;
các đặc điểm nhân cách chủ yếu (sự phát triển của tự ý thức, sự hình thành thế giới quan,
xu hướng nghề nghiệp, hoạt động giao tiếp). Cụ thể:
- Đặc điểm về sự phát triển thể chất:
Tuổi học sinh THPT là thời kì đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể. Sự phát triển thể
chất đã bước vào thời kì phát triển bình thường, hài hòa, cân đối. Hoạt động trí tuệ có thể
phát triển tới mức cao. Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt có thể hình
thành mối liên hệ thần kinh tạm thời phức tạp hơn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất
ý chí có điều kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em dễ bị kích thích và sự biểu hiện của
nó cũng giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích này không phải chỉ
15


do nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó còn do cách sống của cá nhân (như
hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao động, vui chơi…). Nhìn chung ở tuổi
này các em có sức khỏe và sức chịu đựng tốt hơn tuổi thiếu niên. Sự phát triển thể chất ở
lứa tuổi này sẽ có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý và nhân cách đồng thời nó còn ảnh
hưởng tới sự lựa chọn nghề nghiệp sau này.

- Đặc điểm của hoạt động học tập:
Hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo đối với học sinh THPT nhưng yêu cầu cao
hơn nhiều đối với tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em. Muốn lĩnh hội được sâu sắc
các môn học, học sinh phải có một trình độ tư duy khái niệm, tư duy khái quát phát triển
đủ cao.
Thái độ đối với việc học tập cũng có những chuyển biến rõ rệt. Học sinh đã lớn, kinh
nghiệm đã được khái quát, các em ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa
của cuộc đời tự lập. Thái độ có ý thức đối với việc học tập được tăng lên mạnh mẽ. Các
em bắt đầu đánh giá hoạt động chủ yếu theo quan điểm tương lai của mình, các hứng thú
và khuynh hướng học tập của các em đã trở nên xác định và được thể hiện rõ ràng hơn.
Do vậy, nhà trường và giáo viên phải làm cho các em học sinh hiểu ý nghĩa và chức năng
giáo dục phổ thông đối với giáo dục nghề nghiệp và đối với sự phát triển nhân cách toàn
diện, tạo ra sự thay đổi căn bản về hoạt động tư duy, về tính chất lao động trí óc của các
em.
- Đặc điểm chung về nhân cách của học sinh THPT:
Nhân cách của học sinh THPT là nhân cách của con người trẻ tuổi đang được chuẩn bị
để thực hiện chức năng của một công dân có học vấn được quyền tham gia vào các hoạt
động lao động, học tập và các mối quan hệ giao lưu xã hội. Nhân cách của họ được hình
thành trong các quá trình xã hội hóa và giải quyết các mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa sự phát
triển mạnh mẽ về thể lực và trí lực cùng những mơ ước nhiều chiều với khả năng thực
hiện theo một định hướng xác định phù hợp với năng lực và điều kiện vẫn có của bản
thân và gia đình, mâu thuẫn giữa lượng thông tin lớn về kinh tế, chính trị, xã hội.v.v...
trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ hiện nay với tiềm
năng xử lý, chọn lọc thông tin đó, mâu thuẫn giữa khối lượng học tập lớn ở giai đoạn cuối
của các trường phổ thông với nhu cầu giao tiếp và những nhu cầu hoạt động khác của tuổi
trẻ, mâu thuẫn giữa tính đa dạng, phong phú của nghề nghiệp xã hội bên cạnh những yêu
cầu ngày một cao về trí thức với vốn thời gian và điều kiện học tập có hạn của học
sinh.v.v... Có thể nói, thời kỳ cuối của mỗi cá nhân trên ghế nhà trường phổ thông là thời
kỳ phát triển mạnh mẽ về các mặt, nhất là về tình cảm đạo đức, thẩm mỹ, nhu cầu và xu
hướng nghề nghiệp, nhu cầu giao tiếp v.v... Đây là thời kỳ của hình thành, vừa ổn định về

tính cách để chuẩn bị cho tuổi trẻ dần tiến tới vị trí xã hội của một người công dân đích
thực trong giai đoạn tiếp theo (khoảng từ 18 đến 25 tuổi). Trong sự phát triển nhân cách
của lứa tuổi này, nổi bật hơn cả là sự phát triển của tự ý thức, đó là sự tự khẳng định của
mình về mặt sinh học, biết nhìn nhận những suy nghĩ và hành vi của mình so với chuẩn
mực của tập thể, thấy được cái tôi của mình đối với gia đình và xã hội, các em không chỉ
có khả năng tự đánh giá mình mà còn nhận biết được cái đúng, cái sai trong hành vi của
những cá nhân khác. Sự tự đánh giá mình và đánh giá người khác đôi khi bị thiên lệch
hoặc là về phía bản thân (đề cao nhân cách và tính hoàn mỹ của nó so với người khác)
hoặc là đề cao quá mức, đôi khi đến lý tưởng hóa nhân cách của người khác dẫn tới tự ti
với chính mình, rụt rè, ỷ lại và co cụm lại với bản thân.
Tính chủ quan trong khi tự đánh giá là một phẩm chất nhân cách rất đáng được quan
tâm trong quá trình giáo dục. Nuôi dưỡng phẩm chất này để hoàn thiện, giúp cho tuổi trẻ
16


biết người biết ta một cách khách quan là cả một quá trình đòi hỏi nghệ thuật giáo dục của
đội ngữ giáo viên.
Một trong những đặc điểm quan trọng trong bộ mặt nhân cách của học sinh THPT
được biểu hiện thông qua hoạt động giao tiếp và đời sống tình cảm Khác với tuổi thiếu
niên, do kinh nghiệm sống đã được tích lũy nhiều hơn, khả năng phân biệt nhu cầu sở
thích, năng lực của mình và của người khác mang tính khách quan hơn, sự đồng cảm
không chỉ bao gồm những yếu tố bên ngoài mà đã đượm màu sắc của lý tính (cùng hứng
thú một hoạt động, một môn học, cùng chung một mục đích hoạt động để giúp đỡ các bạn
nghèo vượt khó,v.v...), nhu cầu được sống trong một tập thể mạnh, có uy tín, có dư luận
tốt v.v… đã tạo ra cho hoạt động giao tiếp của học sinh THPT những giá trị mang tính xã
hội rõ nét. Sống trong những tập thể, những nhóm xã hội khác nhau, học sinh ở lứa tuổi
này có tính tự lập cao hơn, biết được lợi ích của việc mình làm cho mình và tập thể, biết
tự điều chỉnh khi xảy ra những sung khắc trong giao tiếp. Do phạm vi hoạt động được mở
rộng cũng theo đó mà quan hệ giao tiếp của học sinh THPT không chỉ dừng lại trong các
nhóm xã hội mang tính bản địa thôn xóm mà được "nâng cấp" cả về số lượng và chất

lượng. Sư phong phú, đa dạng của phong tục tập quán, trình độ nhận thức, mức độ giàu
nghèo, .v.v... đặt trước học sinh THPT sự lựa chọn cho mình những nhóm bè bạn mang lại
lợi ích giá trị đối với hoạt động của bản thân.
Tính định hướng trong hoạt động giao tiếp là một đặc điểm nhân cách rất quan trọng mà
người giáo viên khi thực hiện công tác giáo dục cần thiết phải lưu tâm để có thể hoặc là
giúp cho sự định hướng đó đạt tới kết quả, hoặc là bổ sung, điều chỉnh cho sự khiếm
khuyết của định hướng.
Giao tiếp xã hội của con người nói chung và học sinh nói riêng luôn được diễn ra dưới
những sắc thái tình cảm nào đó, vì vậy việc xem xét đời sống tình cảm của học sinh
THPT là điều cần thiết để những nhà sư phạm có được một sự đồng cảm với đối tượng
giáo dục của mình.
Các em khao khát muốn có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống và có nhu cầu
sống cuộc sống tự lập.Tính tự lập của học sinh thể hiện ở ba mặt: tự lập về hành vi, tự lập
về tình cảm và tự lập về đạo đức, giá trị.
Nhu cầu giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể phát triển mạnh. Trong tập
thể, các em thấy được vị trí, trách nhiệm của mình và cũng cảm thấy mình cần cho tập
thể. Khi giao tiếp trong nhóm bạn sẽ xảy ra hiện tượng phân cực, có những người được
nhiều người yêu mến và có những người ít được bạn bè yêu mến. Điều đó làm cho các em
phải suy nghĩ về nhân cách của mình và tìm cách điều chỉnh bản thân.
Cùng với sự gia tăng các học sinh giao tiếp, đời sống tình cảm của học sinh THPT cũng
ngày một phong phú. Quan hệ bè bạn cùng giới được hình thành một cách có ý thức hơn.
Nhu cầu tình cảm giữa các cá nhân không chỉ dừng lại ở những sở thích trong sinh hoạt
thường nhật mà còn được xây dựng dựa trên những mục đích lâu dài như phấn đấu trong
tu dưỡng, vượt khó trong học tập, thúc đẩy các phong trào của tập thể.v.v... đặc biệt trong
lứa tuổi này, tình cảm bè bạn nam nữ đã bắt đầu có những biểu hiện thiên về chất so với
tình cảm theo lứa tuổi trước đây. Tình cảm nam nữ được nảy sinh dựa trên ý thức của cá
nhân về nội dung nhân cách của đối tác nhiều hơn về hình thức. Mục đích hôn nhân trong
quan hệ nam nữ chưa được đặt ra rõ nét ở lứa tuổi này, song giữa họ đã có sự quan tâm
tới nhau nhiều hơn, tôn trọng nhau và khi mối quan hệ bị xúc phạm thường dẫn đến
những xúc cảm và tình cảm bột phát khó lường. Do đó trong quá trình giáo dục, sự tôn

trọng, hướng dẫn, điều chỉnh, uốn nắn những sai phạm trong quan hệ nam nữ của học
sinh THPT phải hết sức thận trọng và phải căn cứ vào từng quan hệ cụ thể mà xử lý.
17


Trong giao tiếp với người lớn tuổi như cha mẹ, thầy cô giáo, bà con lối xóm, biểu hiện
tình cảm của lứa tuổi học sinh THPT mang tính tự tin, sâu sắc hơn. Học sinh không chỉ
nhìn nhận thiên lệch về quyền lợi được chăm sóc, ưu ái của cá nhân do những người lớn
phải thực hiện mà các em còn thấy được trách nhiệm của bản thân trước gia đình, dòng
họ, địa phương, trước thầy cô giáo. Tình cảm trách nhiệm này chuyển dần từ những biểu
hiện mang tính hình thức trực tiếp sang các hoạt động cụ thể (học tốt để cha mẹ, thầy cô
vui lòng, tu dưỡng tất để xây dựng danh dự và giữ gìn truyền thống cho lớp, cho
trường.v.v...). Những biểu hiện tình cảm của học sinh THPT mặc dù đã có sự tham gia
điều tiết ở mức độ nhất định của lý trí, song do thiếu những kinh nghiệm sống thực tế,
thiếu sự ổn định về nghề nghiệp, tài chính.v.v... trong nhiều trường hợp lại vượt quá
những gì cá nhân có thể có được, có thể giải quyết được.
Đời sống tình cảm của con người nói chung và lứa tuổi nói riêng là lĩnh vực cực kỳ
phức tạp và mẫn cảm. Mỗi nhân cách là một thế giới đầy bí ẩn về tình cảm, do đó việc
nhận biết, bồi dưỡng hoặc khắc phục những biểu hiện sai lệch trong tình cảm của học
sinh là công việc hết sức tỉ mỉ, Cần mẫn và tấm lòng nhân ái cao cả của nhà giáo trong
mọi tình huống giáo dục.
Tình bạn ở tuổi này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tình bạn thân thiết, chân
thành sẽ cho phép các em đối chiếu được những thể nghiệm, ước mơ, lý tưởng, cho phép
học được cách nhận xét, đánh giá về mình. Nhưng tình bạn còn mang màu sắc xúc cảm
nhiều nên thường có biểu hiện lý tưởng hóa tình bạn. Có nghĩa là các em thường đòi hỏi ở
bạn mình phải có những cái mình muốn chứ không chú ý đến khả năng thực tế của bạn.
1.2.4.2. Mục đích, ý nghĩa của giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh THPT.
VHƯX trong nhà trường thể hiện diện mạo giáo dục, trình độ dân trí của một vùng
miền và trong đó còn thể hiện chất lượng giáo dục và đào tạo. Văn hóa học đường là văn
hóa ứng xử. Xét trên nhiều khía cạnh, văn hóa ứng xử tương đồng với văn hóa giao tiếp,

văn hóa hành vi (trong môi trường học đường). Giáo dục VHƯX trong nhà trường nhằm:
- Giúp HS có được nhận thức đúng đắn để có hành vi ứng xử giao tiếp có văn hóa trong
học tập, sinh hoạt và trong các môi trường xã hội khác nhau. VHƯX giúp mọi ngƣời gần
gũi, thân thiện, hòa hợp với nhau, có sự đồng cảm, chia sẻ từ đó làm cho quan hệ giữa
người với người trở nên tốt đẹp hơn, nâng cao ý thức cộng đồng.
- Giáo dục VHƯX làm cho văn hóa học đường trở nên tốt đẹp, xây dựng được môi
trường văn hóa lành mạnh, trong sáng, đầy tính nhân văn, có sức cảm hóa, sức lan tỏa sâu
rộng trong xã hội từ đó góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người mới.
- Giáo dục VHƯX sẽ tạo ra môi trường học tập, rèn luyện có lợi nhất cho HS, giúp các
em cảm thấy tự nhiên, thoải mái, vui vẻ, ham học trong môi trường văn hóa đích thực.
Với HS, có được môi trường thể hiện đúng nghĩa VHƯX trong nhà trường là có được
niềm vui, niềm tin khi đến trường. HS khi được tôn trọng, thừa nhận sẽ thấy mình có giá
trị, thấy rõ trách nhiệm và “công học tập”. Môi trường ứng xử có văn hóa sẽ giúp các em
tích cực khám phá, trải nghiệm, tích cực tương tác và hợp tác hiệu quả với GV, nhóm bạn,
nỗ lực đạt thành tích học tập, rèn luyện cao nhất.
- Tạo ra môi trường thân thiện cho HS, giúp các em cảm thấy an toàn, cởi mở, biết chia
sẻ và chấp nhận các nhu cầu, hoàn cảnh khác nhau. Nếu VHƯX trong nhà trường được
thực hiện sẽ mở ra phong trào khuyến khích HS phát biểu và bày tỏ quan điểm cá nhân,
tư duy sáng tạo được thúc đẩy. Thực hiện VHƯX trong nhà trường chính là tiến hành xây
dựng mối quan hệ ứng xử tôn trọng, hiểu biết, học hỏi lẫn nhau giữa thầy và trò một cách
đích thực.
1.2.4.3. Nội dung giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh THPT.
18


VHƯX là một phạm trù rất rộng, có thể hiểu VHƯX là thái độ và cách ứng xử của con
người đối với môi trường, đối với xã hội và đối với chính mình. Văn hóa học đường là
hành vi ứng xử của các chủ thể tham gia hoạt động giáo dục - đào tạo trong nhà trường, là
lối sống văn minh trong trường học, thể hiện như:
- Ứng xử của thầy cô giáo với học sinh, được thể hiện như: sự quan tâm đến học sinh,

biết tôn trọng người học, biết phát hiện ra ưu điểm, nhược điểm của người học để chỉ
bảo… Thầy cô luôn gương mẫu trước học sinh.
- Ứng xử của học sinh với thầy cô, thể hiện bằng sự kính trọng, yêu quý của người học
với thầy cô giáo, hiểu được những chỉ bảo, giáo dục của thầy cô và thực hiện điều đó một
cách tự giác, có trách nhiệm.
- Ứng xử giữa lãnh đạo với giáo viên, nhân viên, thể hiện: người lãnh đạo phải có năng
lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Người lãnh đạo có lòng vị tha, độ lượng, tôn trọng
giáo viên, nhân viên, xây dựng được bầu không khí lành mạnh trong tập thể nhà trường.
- Ứng xử giữa các đồng nghiệp, học sinh với nhau, phải thể hiện qua cách đối xử mang
tính tôn trọng, thân thiện, giúp đỡ lẫn nhau.
Tất cả các ứng xử trong nhà trường là nhằm xây dựng một môi trường sống văn minh,
lịch sự trong nhà trường.
Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu VHƯX của HS và trong mối
quan hệ giữa HS với thầy cô, HS với HS và cách ứng xử trong việc thực hiện các nội quy,
quy định của nhà trường. Với phạm vi như vậy, theo tôi giáo dục văn hoá ứng xử cho HS
THPT bao gồm những nội dung sau:
Giáo dục văn hóa ứng xử trong mối quan hệ với thầy cô.
Người Việt Nam có truyền thống “Tôn sư trọng đạo”, đây là một nét đẹp trong VHƯX
của dân tộc. Cha mẹ có công sinh thành, còn thầy cô có công dạy bảo chúng ta nên người,
công lao đó sẽ càng ngời sáng khi chúng ta có lớp lớp thế hệ HS có hiểu biết và kỹ năng
thực hành VHƯX trong và ngoài nhà trường. Nền giáo dục nước nhà hưng thịnh hay
không, câu trả lời không chỉ ở thành tích, điểm số học tập, bằng cấp, học hàm, học vị mà
còn ở chính thái độ, phong cách, bản lĩnh văn hóa trong ứng xử hàng ngày.
Giáo dục VHƯX cho HS trong mối quan hệ với thầy cô là giúp các em hiểu, nhận thức
đƣợc đúng vị trí, vai trò, công lao của thầy cô đối với quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của mỗi HS. Thấy được sự hy sinh, cống hiến của người GV đối với sự nghiệp
giáo dục của nước nhà. Trong giao tiếp với thầy cô luôn thể hiện đúng giá trị tôn sư trọng
đạo, nói năng lễ phép, khiêm tốn, trung thực. Trong học tập có tinh thần ham học hỏi, cầu
tiến, biết tiếp thu, lắng nghe sự dạy bảo của thầy cô.
Giáo dục văn hóa ứng xử trong mối quan hệ với bạn bè.

VHƯX của HS trong mối quan hệ với bạn bè, thể hiện trong giao tiếp, cư xử với bạn,
trong việc cùng tiến hành hoạt động tập thể... Cần giáo dục cho HS có kỹ năng giao tiếp,
thể hiện là người có văn hoá ngay trong cách xưng hô với bạn. Trong giao tiếp với bạn
luôn cần tạo dựng là hình ảnh đẹp trong mắt của bạn, muốn vậy phải biết quan tâm, chia
sẻ, biết lắng nghe, tôn trọng bạn, có thái độ ứng xử hài hoà, thân thiện, nói năng nhẹ
nhàng, không nặng lời, không nói tục, chửi bậy, không làm việc xấu hại bạn…
Trong khi tiến hành hoạt động chung với bạn, cần phải biết cách hoà đồng, không ích kỷ,
vụ lợi vì bản thân mình, phải biết sẵn sàng chia sẻ với bạn, giúp đỡ bạn khi gặp hoạn nạn
khó khăn...
Trong quá trình giáo dục VHƯX cũng cần giúp cho HS nhận thức đựơc ở những môi
trường khác nhau, con người cần có những hành vi ứng xử khác nhau. Trong giao tiếp,
ứng xử hiện đại của thời kỳ hội nhập, sự thẳng thắn là một trong những nguyên tắc mới
19


cần được nhấn mạnh. Thấy bạn có lỗi, vì tế nhị, tôi không nói, hay không nói thẳng,
không nói đủ cho bạn hiểu về lỗi lầm của bạn, để bạn tiếp tục phạm lỗi, thì đó là cái lỗi
của tôi, là sự hạn chế trong VHƯX của tôi. Giáo dục VHƯX phát huy được tính năng
động tích cực của nhân tố chủ quan với tính chất vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của văn
hóa. Nó thể hiện phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng ta là không chỉ giải thích thế giới, mà quan trọng hơn, còn hướng vào
việc cải biến thế giới. Bởi vì, trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH, đô thị hóa và hội
nhập quốc tế, đã và đang xuất hiện những khía cạnh tiêu cực; cho nên chí ít phải điều tiết
những hiện tượng này để bảo đảm cho lối ứng xử mới, năng động, hiện đại diễn ra trên cơ
sở kế thừa, phát huy nếp ứng xử truyền thống.
Chính vì thế, ngoài những cách ứng xử truyền thống, chúng ta cần xác lập và giáo
dục cho HS cách ứng xử mới, phù hợp với hoàn cảnh mới, có văn hóa, phải đảm bảo tính
giá trị của văn hóa, góp phần làm cho quan hệ giữa những người giao tiếp được tốt hơn.
Giáo dục văn hóa ứng xử trong việc chấp hành nội quy, quy định của nhà trường.
Trong mỗi nhà trường, bên cạnh những quy định chung mang tính bắt buộc do Bộ

Giáo dục và Đào tạo quy định, thì ở mỗi trường khác nhau, tuỳ theo tính chất, đặc điểm
và điều kiện cụ thể sẽ có những nội quy, quy định khác nhau đối với HS như: quy định về
việc thực hiện nề nếp học tập, trong thi cử; trong khi tham gia các hoạt động của nhà
trường; quy định về trang phục khi đến trường, quy định về việc khai thác sử dụng cơ sở
vật chất của nhà trường, giữ gìn, bảo vệ cảnh quan của nhà trường, quy định trong giao
tiếp, ứng xử với thầy cô, bạn bè...
Tất cả những nội quy, quy định của nhà trường đối với HS đều nhằm mục đích giáo
dục cho HS có ý thức tổ chức, kỷ luật tốt, có tính tích cực, có lối sống trong sáng lành
mạnh, đồng thời có tác dụng rèn luyện cho học sinh những kỹ năng nghề nghiệp nhất
định...
Vì vậy, đối với mỗi HS, việc chấp hành đúng nội quy, quy định của nhà trường cũng
chính là thể hiện cách ứng xử có văn hoá, là cách rèn luyện cho mình những phẩm chất
tốt của một người công dân, người lao động chân chính.
Các con đường giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh THPT.
Thông qua hoạt động dạy học.
Quá trình dạy học là quá trình sư phạm được tổ chức có mục đích, kế hoạch trong đó
dưới vai trò chủ đạo của giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, chủ động tiến hành hoạt
động nhận thức nhằm lĩnh hội hệ thống tri thức, kỹ năng kỹ xảo phát triển năng lực hoạt
động trí tuệ, góp phần hình thành phát triển nhân cách. Giáo dục VHƯX cho HS thông
qua hoạt động dạy học là lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục VHƯX vào một số môn
học có ưu thế như Ngữ văn; Giáo dục công dân; Lịch sử... để giảng giải cho các em hiểu
và nắm bắt những giá trị đạo đức, cách sống và lối sống lành mạnh, biết kính trên nhường
dưới... giúp HS biết tự giác điều chỉnh hành vi, biến kiến thức đã trang bị thành hành vi
cụ thể, để thể hiện với mọi người xung quanh, cái tốt thì học, cái xấu phải biết tránh xa.
Dạy cho các em cách giao tiếp có văn hoá, cách cư xử với mọi người trong cuộc sống
hàng ngày, ý thức chấp hành nội quy, quy chế, chấp hành pháp luật... Thực tế cho thấy
việc bỏ quên các giá trị lịch sử ở giới trẻ sẽ khiến các em đánh mất các chuẩn giá trị của
văn hóa dân tộc từ đó có thể đưa các em đến chỗ có những hành vi sai lệch, đi ngược lại
chuẩn mực, giá trị, đạo đức xã hội.
Thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.

Trong các nhà trường THPT bên cạnh hoạt động dạy học, thì hoạt động GDNGLL
cũng là phương tiện chủ yếu của công tác giáo dục văn hoá, giáo dục phát triển toàn diện
20


×