VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN HAI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN
VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NÔNG SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN HAI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN
VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NÔNG SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số
: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Văn Hai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM............................... 8
1.1. Khái niệm về nghèo và vai trò của chính quyền đối với giảm nghèo..................8
1.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.........................13
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.....18
1.4. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững22
1.5. Chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam.................................................. 23
1.6. Kinh nghiệm thực hiện giảm nghèo ở một số địa phương................................30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM. . .35
2.1. Chính sách hiện hành về giảm nghèo bền vững................................................ 35
2.2. Tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam thời qua................................................................................................ 43
2.3. Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Nông
Sơn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2018.................................................. 47
2.4. Đánh giá thực trạng thực thi chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn
huyện Nông Sơn trong thời gian qua....................................................................... 57
2.5. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.....................................63
2.6. Những thách thức đặt ra trong thực thi chính sách giảm nghèo bền vững........65
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM...................................................... 68
3.1. Quan điểm, mục tiêu thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn
huyện Nông Sơn...................................................................................................... 68
3.2. Các giải pháp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện
Nông Sơn................................................................................................................. 70
KẾT LUẬN............................................................................................................ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
XĐGN
WB
LHQ
TNBQ
KT-XH
QLNN
CQNN
ĐBKK
LĐ,TB&XH
UBND
HĐND
MTTTQVN
MTQG
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói, nghèo hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc mang tính toàn cầu, là một
hiện tượng xã hội, là thách thức, cản trở lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia, dân tộc. Đói nghèo không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội
được hưởng những thành quả văn minh tiến bộ của loài người, mà còn gây ra những
hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển từ nền kinh tế theo cơ
chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất
nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả ở thành thị, nông thôn, miền núi,
vùng sâu và vùng xa. Tuy nhiên, điều kiện và cơ hội phát triển không chia đều cho
các vùng miền, các cá nhân trong xã hội.
Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm hỗ
trợ những vùng khó khăn vươn lên tiến kịp với các khu vực khác của đất nước.
Thành tựu XĐGN trong những năm qua của Việt Nam đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội, được cộng đồng Quốc tế
đánh giá cao. Trong hơn một thập kỷ qua, tỷ lệ hộ nghèo từ 22% năm 2005 giảm
xuống 18,1% năm 2006, còn 14,75% năm 2007; 12,1% năm 2008; 11,3% năm
2009, năm 2010 còn 9,45% theo chuẩn cũ; và từ 14,2% năm 2010 xuống còn
11,76% năm 2011 và 9,6% năm 2012, còn 7,8% năm 2013 theo chuẩn mới [6, tr 8].
Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức
thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát
triển bền vững, ổn định chính trị xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Chúng ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, trên các lĩnh vực như: giảm nghèo, tạo
việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục, đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, công tác gia đình và bình đẳng giới. Tuy nhiên, trong lĩnh vực
giảm nghèo, nhất là giảm nghèo bền vững, những hạn chế, yếu kém và bất cập vẫn
còn không ít, còn kéo dài, chậm được khắc phục; tạo việc làm và giảm nghèo chưa
bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao.
Nông Sơn là huyện miền núi. Phía Bắc giáp với huyện Duy Xuyên và Đại
1
Lộc, phía Nam giáp với huyện Hiệp Đức và huyện Phước Sơn, phía Đông giáp với
huyện Quế Sơn, phía Tây giáp với huyện Nam Giang; có diện tích 457,92 km². Toàn
huyện có 7 xã, 39 thôn, dân số là 31.503 người. Trung tâm hành chính huyện đặt tại
thôn Trung Phước 1, xã Quế Trung. Gần 8 năm qua, gắn liền với thực hiện Chương
trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, công tác giảm nghèo trên địa bàn
huyện Nông Sơn được triển khai thực hiện quyết liệt. Các chương trình và chính
sách giảm nghèo đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo điều kiện để người nghèo tiếp cận
tốt hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản, cơ sở hạ tầng của huyện, xã được tăng cường;
đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo được cải thiện rõ rệt.
Thời gian qua, trên địa bàn huyện đã tập trung triển khai thực hiện đồng bộ
các chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác
giảm nghèo. Tuy nhiên, còn quá nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo
dẫn đến tình trạng manh mún, dàn trải, chồng chéo nguồn lực; một số bộ phận
người nghèo còn trông chờ ỷ lại vào chế độ chính sách của Nhà nước; công tác
tuyên truyền còn hạn chế.
Như vậy, việc nghiên cứu lý giải một cách có hệ thống, đánh giá đúng thực
trạng đói nghèo, đề xuất những giải pháp chủ yếu về cơ chế chính sách nhằm thực
hiện có hiệu quả công tác XĐGN trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
vừa có ý nghĩa lý luận cơ bản, vừa là vấn đề cấp thiết đối với thực tiễn trong giai
đoạn hiện nay. Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn vấn đề “Thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm
đề tài luận văn Thạc sỹ Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách về lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo. Nhất là khi có Nghị quyết Trung ương 5 khoá
XI về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, thì vấn đề nói
trên đã trở thành đề tài thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều tác giả. Cho đến
nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ tiếp cận, phạm vi và cấp độ
nghiên cứu khác nhau. Có thể nêu một số công trình nghiên cứu đáng lưu ý trong
thời gian gần đây như:
2
*
Bàn về khái niệm giảm nghèo và vai trò của vốn con người trong giảm
nghèo, có các công trình, kỷ yếu Hội nghị, hội thảo:
- Hội nghị bàn về giảm đói nghèo trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do
ESCAP (Uỷ ban kinh tế - xã hội Châu Á - Thái Bình Dương) tổ chức tại Băng Cốc Thái Lan, tháng 9 năm 1993, đã đưa ra khái niệm chung về nghèo đói, thực trạng
của nghèo đói và những giải pháp chống nghèo đói trong khu vực.
- Đề tài “Vai trò của vốn con người trong giảm nghèo bền vững ở Việt Nam”
của tác giả Thái Phúc Thành (2014).
*
Nghiên cứu đánh giá chính sách, pháp luật về giảm nghèo và trách nhiệm
của các chủ thể trong tổ chức thực hiện, có các công trình, kỷ yếu Hội nghị, hội
thảo:
- Hội nghị trực tuyến về giảm nghèo toàn quốc do Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội tổ chức ngày 23 tháng 4 năm 2014, đã tập trung đánh giá kết quả thực
hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005 – 2012, kết quả thực hiện
mục tiêu giảm nghèo năm 2013, mục tiêu nhiệm vụ công tác giảm nghèo năm 2014
và định hướng đến năm 2015.
- Hội nghị về phát triển xã hội do Liên hợp quốc chủ trì, tại Côpenhaghen - Đan
Mạch, tháng 3 năm 1995, gồm các nguyên thủ quốc gia, đã tập trung thảo luận vấn
đề giảm nghèo đói, hoà hợp xã hội và nêu lên trách nhiệm của các tổ chức quốc tế
và các nước phát triển trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển thực hiện
XĐGN, thu hẹp khoảng cách giữa những nước giàu và nước nghèo.
- Lê Quốc Lý: Chính sách xóa đói giảm nghèo, thực trạng và giải pháp, Nxb
Chính trị Quốc gia, 2012. Qua công trình này, tác giả đã luận giải về vấn đề đói
nghèo, thực trạng đói nghèo ở Việt Nam, những chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước về công cuộc đổi mới, chống đói nghèo, những thành tựu và
hạn chế trong quá trình thực thi chính sách xóa đói, giảm nghèo, từ đó đề xuất định
hướng và mục tiêu, cơ chế và chính sách, những giải pháp để xóa đói, giảm nghèo
cho giai đoạn phát triển tiếp sau.
- Trần Thị Bích Hạnh: Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh
duyên hải miền Trung trong những năm qua và những giải pháp cho thời gian tới
(chuyên đề sách kinh tế - xã hội các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên những năm đầu
3
thế kỷ XXI - Thực trạng và xu hướng phát triển, PGS,TS. Phạm Hảo chủ biên).
-
Bùi Thị Lan, luận văn thạc sỹ Quản lý Hành chính công: Chính sách Xóa đói
giảm nghèo ở một số huyện miền núi tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay, Hà
Nội, 2013. Tác giả đề cập đến thực trạng thực thi chính sách XĐGN, thực trạng
nghèo đói, phân tích những kết quả đạt được và những hạn chế, từ đó đưa ra những
giải pháp để thực thi hiệu quả chính sách XĐGN tại một số huyện miền núi, tỉnh
Bắc Giang.
-
Nguyễn Thị Huệ, luận văn thạc sỹ Quản lý Hành chính công: Thực thi chính
sách giảm nghèo qua Đề án 30a tại huyện Mường Tè - Lai Châu, Hà Nội, 2014. Tác
giả đã phân tích những vấn đề cơ bản về nghèo đói và XĐGN, nghiên cứu quá trình
thực thi chính sách giảm nghèo để đưa ra những cách thức thực hiện chính sách một
cách hiệu quả nhất trên địa bàn.
* Nghiên cứu thực trạng và giải pháp giảm nghèo ở nước ta và các địa
phương, có các công trình:
-
Đề tài “Giảm nghèo ở Việt Nam, thành tựu và thách thức” của nhóm nghiên
cứu Viện Khoa học xã hội và nhân văn (2011).
- Hà Quế Lâm: Xoá đói giảm nghèo ở vùng Dân tộc thiểu số nước ta hiện
nay
- Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã làm rõ
một số đặc điểm địa lý, kinh tế và nhân văn ở vùng dân tộc thiểu số của nước ta;
khái quát về tình trạng nghèo đói ở vùng dân tộc thiểu số của nước ta. Tiếp đó, trên
cơ sở đánh giá thực trạng về XĐGN ở vùng dân tộc thiểu số nước ta trong những
năm 1992-2000, tác giả đưa ra những khuyến nghị về định hướng và một số giải
pháp XĐGN vùng dân tộc thiểu số nước ta.
-
Đề tài luận văn Thạc sĩ quản lý kinh tế “Giảm nghèo bền vững trên địa bàn
tỉnh Hà Giang” của Phạm Ngọc Dũng (2015) đã nghiên cứu những vấn đề lý luận
chung về giảm nghèo bền vững; phân tích, đánh giá hoạt động giảm nghèo bền
vững trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2005 đến năm 2013; trên cơ sở đó Luận
văn đã đề xuất một số giải pháp thực hiện giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Hà
Giang đến năm 2020.
-
Trương Bảo Thanh, luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế: Xóa đói giảm nghèo ở
tỉnh Quảng Bình - Thực trạng và giải pháp, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích rõ
4
được về thực trạng nghèo đói và những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói ở tỉnh
Quảng Bình. Từ đó, đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm
nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
*
Nghiên cứu về kinh nghiệm giảm nghèo ở một số nước trên thế giới, có
các công trình:
- Võ Thị Thu Nguyệt: Xóa đói giảm nghèo ở Malaixia và Thái Lan. Bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2010. Tác giả đã nêu những
khái niệm về nghèo đói và XĐGN, thực trạng đói nghèo trên thế giới. Nghiên cứu
các chính sách phát triển với Chiến lược XĐGN ở Malaixia và Thái Lan, nguyên
nhân thành công và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Các công trình, bài viết nêu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu làm rõ khái
niệm đói nghèo, những kinh nghiệm trong XĐGN, đánh giá thực trạng đói nghèo,
kết quả XĐGN, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp để thực thi có hiệu quả các
chính sách XĐGN nói chung cũng như ở một số địa phương của Việt Nam. Cho đến
nay, chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu ở góc độ đánh giá việc thực hiện các
chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Vì
vậy, việc đi sâu nghiên cứu các chính sách giảm nghèo bền vững đang triển khai
trên địa bàn huyện Nông Sơn; đề xuất điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình
hình thực tế của địa phương, nhằm thực hiện các chính sách có hiệu quả nhất, góp
phần giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện trong thời gian tới là vấn đề có tính
cấp thiết trong hiện tại.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững của Việt Nam; đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Nông Sơn, luận văn đề xuất các giải pháp
tiếp tục hoàn thiện thực hiện chính sách giảm nghèo trên địa bàn huyện Nông Sơn
hướng tới góp phần xóa nghèo trên địa bàn huyện, qua đó góp phần phát triển kinh
tế xã hội trên địa bàn huyện nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu tổng quát của chủ đề nghiên cứu luận văn thực hiện
5
những nhiệm vụ chính sau:
-
Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về giảm nghèo và chính sách giảm
nghèo của Việt Nam.
-
Căn cứ vào hệ thống cơ sở lý luận, phân tích thực trạng thực hiện chính sách
giảm nghèo trên địa bàn huyện Nông Sơn qua những thành tựu và hạn chế đạt được
trong giai đoạn 2015-2018.
-
Dựa trên các phân tích thực trạng, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn
huyện Nông Sơn trong giai đoạn 2018-2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo đối với hộ dân trên
địa bàn huyện Nông Sơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-
Về không gian: các hoạt động nghiên cứu được triển khai trong phạm vi trên
địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
-
Về thời gian: đánh giá việc thực hiện các chính sách từ 2015 đến 2018. Định
hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách đến năm 2025.
5.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật; cơ sở lý luận là quan điểm, đường lối của Đảng về giảm nghèo bền vững. Đặc
biệt là những quan điểm được nêu ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa
XI và Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau: Phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, khảo sát và nghiên cứu thực
tế, thống kê và phân tích số liệu, quy nạp và diễn giải.
6.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần hệ thống lại những vấn đề lý luận chung về giảm nghèo bền vững
6
và chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn cấp huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
-
Góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về
giảm nghèo bền vững trên địa bàn cấp huyện. Bước đầu xây dựng một số giải pháp
nhằm thực hiện tốt và hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
-
Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý thực
thi chính sách giảm nghèo bền vững ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 Chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Giải pháp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về nghèo và vai trò của chính quyền đối với giảm nghèo
Khái niệm về nghèo của các tổ chức quốc tế:
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại ở các quốc gia có nền kinh
tế kém phát triển và cả ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tùy thuộc vào điều
kiện tự nhiên, thể chế chính trị xã hội và điều kiện kinh tế mà tính chất, mức độ
nghèo đói của từng quốc gia có khác nhau. Hiện nay, các tổ chức quốc tế như WB,
LHQ đều đã mở rộng khái niệm đói nghèo.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Côpenhaghen
(Đan Mạch) tháng 3/1995 đã định nghĩa về người nghèo như sau: “Người nghèo là
người mà tất cả những thu nhập của họ nhỏ hơn 1USD/ngày, đây là số tiền được coi
như đủ mua những sản phẩm cần thiết để tồn tại”.
Liên hợp quốc thì phân định nghèo làm hai dạng: Nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa
mãn những nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống về ăn (thiếu ăn nhưng không đứt
bữa), mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân
cư có mức sống dưới trung bình của cộng đồng địa phương hay của một nước.
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới WB: “Ngưỡng nghèo là mốc nếu cá
nhân hay hộ gia đình có thu nhập nằm dưới mốc này thì bị coi như là nghèo.
Ngưỡng nghèo là yếu tố chính yếu để quy định thành phần nghèo của một quốc gia.
Theo WB thì đói nghèo là những hộ không có khả năng chi trả cho số hàng hóa
lương thực của mình đủ cung cấp cho 2.100 calo mỗi người một ngày” [47].
Tuy có nhiều điểm khác nhau, nhưng có thể khái quát quan niệm về đói nghèo
trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
+
Không có hoặc ít được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu của
cuộc sống con người.
+
Mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư địa
phương.
+
triển
Thiếu hoặc không có cơ hội lựa chọn để tham gia vào quá trình phát
8
của cộng đồng.
Quan niệm về nghèo của Việt Nam
Ở
biệt:
nước ta, đói và nghèo thường được chia ra thành hai khái niệm riêng
Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu
và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì sự sống [36]. Sự nghèo
khổ, sự bần cùng được biểu hiện là đói, là tình trạng con người không có cái ăn, ăn
không đủ dinh dưỡng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hằng ngày và không đủ
sức để tái sản xuất sức lao động. Về mặt năng lượng, nếu trong một ngày, con người
chỉ được thõa mãn mức 1500 cal/ngày thì đó là thiếu đói, dưới mức đó là gay gắt.
Nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thõa mãn một phần
những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phương diện [45]. Trong hoàn cảnh nghèo thì người
nghèo và hộ nghèo cũng chỉ vật lộn với mưu sinh hằng ngày và kinh tế vật chất,
biểu hiện trực tiếp nhất ở bữa ăn. Họ không thể vươn tới các nhu cầu về văn hóa –
tinh thần hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu gần nhất, gần như
không có. Điều này đặc biệt rõ ở nông thôn với hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học,
các hộ nông dân nghèo không có khả năng để hưởng thụ văn hóa, chữa bệnh khi ốm
đau, không đủ hoặc không thể mua sắm thêm quần áo cho nhu cầu mặc, sửa chửa
nhà cửa cho nhu cầu ở... Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng thu nhập thực tế của
người dân chỉ dành hầu như toàn bộ cho nhu cầu ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn,
phần tích lũy hầu như không có.
Xóa đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo sống dưới mức tối thiểu và thu nhập
không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì mức sống, từng bước nâng cao
mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để
duy trì cuộc sống [47].
Giảm nghèo hay chính là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống,
từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng
người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác, giảm nghèo là một quá trình chuyển
một bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn [47].
Giảm nghèo bền vững là kiên quyết không để tái nghèo, là phải duy trì các
nguồn lực, các nguồn đầu tư và các biện pháp chỉ đạo thực hiện triển khai liên tục
9
có hướng đích, có mục tiêu để không cho đói nghèo quay trở lại chính nơi chúng ta
đang tích cực thực hiện xoá đói, nơi chúng ta đang thực hiện quyết tâm giảm nghèo.
Giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối
với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt
bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm lực lượng sản xuất dồi dào và bảo
đảm sự ổn định cho giai đoạn sau tăng trưởng nhanh hơn, mạnh hơn.
Theo tác giả, giảm nghèo bền vững được hiểu là tình trạng dân cư đạt được
mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản hay mức thu nhập cao hơn chuẩn nghèo và
duy trì được mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản hay mức thu nhập trên chuẩn
nghèo đó ngay cả khi gặp các cú sốc hay rủi ro [32], trong đó tập trung vào các hoạt
động hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo có tư liệu và phương tiện để
sản xuất, dịch vụ, bảo đảm an ninh lương thực ở cấp hộ gia đình, nâng cao thu nhập
để tự vượt qua nghèo đói; tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế, nước sạch; giảm thiểu rủi ro do thiên
tai, bão lụt và tác động tiêu cực của quá trình cải cách kinh tế, bảo đảm thoát nghèo
bền vững hay không tái nghèo.
Về cơ bản, giải quyết đói nghèo nói chung trước hết cần đảm bảo cả về số
lượng lẫn chất lượng. Số lượng giảm nghèo sẽ tuyệt đối hộ nghèo giảm được trong
một thời gian (thông thường theo từng giai đoạn từ 1 đến 5 năm). Chất lượng giảm
nghèo là khái niệm chỉ thực chất của kết quả giảm nghèo, mà vấn đề cần đạt được là
đời sống người nghèo được nâng lên sau khi có tác động hỗ trợ, thu hẹp khoảng
cách thu nhập với các nhóm dân cư khác về mặt tốc độ, khi gặp rủi ro, bất trắc sẽ
không bị rơi lại vào tình trạng nghèo đói. Hay nói cách khác, chất lượng giảm nghèo
suy cho cùng là phản ánh tính bền vững của quá trình giảm nghèo.
Theo các nhà nghiên cứu, chuyên gia về KT-XH, lao động - việc làm: để giảm
nghèo bền vững cần hỗ trợ phát triển kinh tế hạ tầng, hỗ trợ đào tạo nghề cũng như
các điều kiện tiếp cận cơ hội phát triển kinh tế mà dựa vào các nguồn lực của địa
phương, dựa vào điều kiện sẵn có của cộng đồng để người nghèo, hộ nghèo có thể
dựa vào đó để tự vươn lên thoát nghèo mà không phải phụ thuộc vào những điều
kiện, nguồn lực khác. PGS.TS. Trần Đình Thiên cho rằng “không thể giúp người
nghèo bằng cách tặng nhà, tặng phương tiện sống. Đây là cách giảm nghèo, xóa
10
nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời, không bền vững. Muốn giảm nghèo, xóa nghèo
bền vững thì Nhà nước, cơ quan chức năng cần phải cấp cho người nghèo một
phương thức phát triển mới mà tự họ không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó là
sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực khắc
phục hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập trên
nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng, điều kiện thoát nghèo nhanh và có
thể lan tỏa sang các vùng lân cận” [32]. Khái niệm trên có nghĩa rằng, thay vì tặng
“con cá”, chúng ta tặng “cần câu” và tạo ra động lực thúc đẩy để người dân người
dân chủ động trong việc thoát nghèo bằng chính năng lực của mình chứ không chỉ
trông chờ vào sự hỗ trợ của các nhà hảo tâm, cộng đồng. Bên cạnh đó, cần xây dựng
các chính sách hỗ trợ, xây dựng các biện pháp để phòng ngừa các rủi ro không
mong muốn từ các yếu tố con người, xã hội, tự nhiên mang lại. Điều này đóng vai
trò cực kì quan trọng bởi nó có thể giúp cho người nghèo chuyển đổi phương thức
sản xuất, tìm được việc làm mới, tạo ra được nguồn thu nhập bổ sung... song muốn
vậy, người dân cần được tiếp cận và duy trì với các dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa,
pháp lý...Ngoài ra, những chương trình giảm nghèo đặc thù cho những đối tượng cụ
thể, một số vùng nhằm tạo sức lan tỏa là hết sức cần thiết trong điều kiện nguồn lực
hạn chế như của chúng ta hiện nay. Tác giả luận văn cũng đồng ý với quan niệm
trên về giảm nghèo bền vững và cho rằng: Giảm nghèo bền vững là một quá trình
chuyển một bộ phận người nghèo từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình
trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi hộ
gia đình nghèo. Nói cách khác: Giảm nghèo bền vững là quá trình tạo điều kiện
giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một
cách nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát
khỏi tình trạng nghèo.
Giảm nghèo có tính tương đối, bởi nghèo có thể tái sinh khi giải pháp giảm
nghèo chưa bền vững hoặc chuẩn nghèo đã có sự thay đổi, hoặc có những biến động
khác tác động đến đời sống xã hội như khủng hoảng, lạm phát, thiên tai…. Do đó
việc đánh giá mức độ giảm nghèo cần được xem xét trong một không gian, thời gian
nhất định.
Chính sách xóa đói giảm nghèo là sự cụ thể hóa chủ trương, đường lối của
11
Đảng bằng những quyết định, quy định của nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề về
đói nghèo. Nó phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng, của các nhóm xã hội
nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến bộ phận dân cư nghèo đói, đảm bảo
quyền con người và an toàn xã hội cho người nghèo, tạo sự phát triển bình thường
cho người nghèo cũng như cho toàn xã hội. Chính sách XĐGN được thiết kết theo
một cấu trúc cụ thể, bao gồm các bộ phận cơ bản sau: Phạm vi và đối tượng của
chính sách; mục tiêu của chính sách; giải pháp của chính sách; nguyên tắc chỉ đạo
thực hiện chính sách; nguồn vốn thực hiện chính sách, cơ quan quản lý và thực hiện
chính sách; thời gian triển khai chính sách.
Ở
nước ta hiện nay, việc xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo được căn cứ theo
Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg, ngày 19-11-2015 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020.
Theo đó, chuẩn hộ nghèo và hộ cận nghèo như sau:
Tiêu chí về thu nhập chuẩn nghèo nông thôn:
- TNBQ đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
- TNBQ đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt
từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Tiêu chí về thu nhập chuẩn nghèo thành thị:
- TNBQ đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
- TNBQ đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt
từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao (hơn 25%), chưa đủ từ 3 trong 6 hạng
mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (bao gồm: chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô
tô không đi được cả năm, số phòng học chỉ đáp ứng dưới 70% nhu cầu học của học
sinh hoặc phòng học tạm bằng tre, nứa lá, chưa có trạm y tế hoặc có nhưng là nhà
tạm, dưới m30% hộ sử dụng nước sạch, dưới 50% hộ sử dụng điện sinh hoạt,…).
Trong các xã nghèo có xã đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 135/1998/QĐTTG của Thủ tướng Chính phủ. Xã đặc biệt khó khăn là xã có 5 tiêu chí sau: Vị trí
địa lý của xã ở xa trung tâm KT-XH, xa đường quốc lộ, giao thông đi lại khó khăn.
Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, còn nhiều tập tục lạc hậu.
Trình độ sản xuất còn lạc hậu, chủ yếu mang tính tự cung, tự cấp, công cụ lao động,
12
sản xuất thô sơ. Hạ tầng cơ sở chưa phát triển, chưa đủ các công trình thiết yếu như:
điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, nước sạch, chợ xã. Đời sống nhân dân
còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, mức sống thấp.
Huyện nghèo là huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%. Thống kê huyện nghèo là
cơ sở để chính phủ có chính sách giảm nghèo thích hợp nhằm đưa các huyện nghèo
có mức thu nhập trong những năm tới ngang bằng mức thu nhập của cả nước.
Như vậy, nếu như vào những năm 1990, việc hỗ trợ người nghèo chỉ quan tâm
đến nhu cầu “ăn no, mặc ấm” thì hiện nay chúng ta còn phải quan tâm đến các nhu
cầu khác như về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa … khi hỗ trợ cho người nghèo.
Ngoài ra, những trợ giúp để hạn chế rủi ro, quyền tham gia nhiều hơn và hiệu quả
hơn vào các hoạt động xã hội cũng cần phải được quan tâm đối với người nghèo.
Việc hướng đến mục tiên trên cho thấy Việt Nam đang rất quyết tâm XĐGN bền
vững theo hướng hội nhập với các tiêu chuẩn quốc tế đưa ra.
1.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững
Xây dựng kế hoạch là một khâu rất quan trọng trong việc hiện thực hóa các
chủ trương, đường lối của Đảng và các chính sách của Nhà nước. Việc triển khai
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cũng không phải là ngoại lệ.
Việc giảm nghèo bền vững không thể diễn ra trong ngày một, ngày hai, hay
chỉ trong một vài năm, mà diễn ra trong một thời gian dài. Do vậy, các cơ quan nhà
nước cần xây dựng kế hoạc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững một cách
khoa học và lấy đó làm căn cứ để triển khai chính sách một cách chủ động.
Kế hoạch thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cần phải biểu hiện đầy đủ
các mặt sau:
- Thời gian biểu cụ thể triển khai thực hiện các công việc;
-
Các bước cần thực hiện luôn đi kèm với mục tiêu và kết quả dự kiến, hoàn tất
cụ thể vào thời gian nào.
-
Xây dựng các nội quy, quy chế trong quá trình thực hiện các chính sách giảm
nghèo bền vững (bao gồm cả nội quy, quy chế tổ chức, điều hành).
- Quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức trong
13
các cơ quan nhà nước tham gia thực hiện các chính sách giảm nghèo bền vững.
-
Các quy định về khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực
hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách giảm nghèo bền vững
Sau bước lập kế hoạch thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, và kế
hoạch được thông qua. Để việc triển khai kế hoạch đạt được hiệu quả cao và các
chính sách thực sự đi vào đời sống nhân dân, các cơ quan nhà nước phải tổ chức
tuyên truyền sâu rộng và vận động toàn bộ hệ thống chính trị cùng nhân dân tham
gia thực hiện.
UBMTTQ Việt Nam kết hợp cùng các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân sẽ
đóng vai trò chủ lực trong việc tuyền truyền, phổ biến các kế hoạch thực thi chính
sách giảm nghèo bền vững. Việc tuyền truyền, phổ biến các chính sách phải nêu bật
được tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định, tính khả thi
của chính sách giảm nghèo bền vững để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu nhà nước.
Trên thực tế, vẫn còn nhiều cơ quan, địa phương do thiếu năng lực tuyền
truyền, vận động đã làm cho chính sách giảm nghèo bền vững bị biến dạng, khiến
lòng tin của dân chúng vào nhà nước giảm sút. Tuyên truyền, phổ biến chính sách
giảm nghèo bền vững cần được các đơn vị có liên quan và nhân dân thực hiện
thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách đang được thi hành, để mọi đối tượng
cần được tuyên truyền luôn củng cố niềm tin vào chính sách và tích cực thực thi
chính sách. Việc tuyên truyền, phổ biến có thể được thực hiện với nhiều hình thức
khác nhau. Có thể tuyên truyền bởi hình thức tiếp xúc trực tiếp như tổ chức họp
thôn, bản hay kết hợptuyên truyền tại các buổi phổ biến pháp luật. Có thể phổ biến
qua các hình thức gián tiếp như phát thanh, truyền hình, tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu, phát tờ rơi, băng-rôn…
1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Bước tiếp theo, chúng ta phải tiến hành phân công, phối hợp các cơ quan, đơn
vị tổ chức thực hiện chính sách theo bản kế hoạch đã được phê duyệt. Các đơn vị
cần phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thực thi chính sách giảm nghèo bền vững
là: Phòng Tài chính-Kế hoạch, Lao động-Thương binh và Xã hội, Kinh tế-Hạ tầng,
14
Nông nghiệp và PTNT, Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Chính sách xã hội,
các tổ chức chính trị - xã hội từ cấp huyện đến cấp xã, UBND các cấp, và các đơn vị
có liên quan.
Đây là là hoạt động liên quan đến rất nhiều lĩnh vực và nhiều cấp ngành, do
vậy việc phân công rõ ràng và yêu cầu phối hợp chặt chẽ, cập nhật thông tin thường
xuyên là những yêu cầu bắt buộc khi thực hiện các chính sách giảm nghèo bền
vững. Có như vậy, các chủ trương và chính sách về giảm nghèo bền vững của Đảng
và Nhà nước mới có thể đạt được kết quả như mong đợi.
1.2.4. Duy trì chính sách giảm nghèo bền vững
Như đề cập ở trên, việc thực thi các chính sách giảm nghèo bền vững phải có
sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị liên quan trong quá trình thực thi. Việc phối hợp
chặt chẽ không chỉ biểu hiện ở việc thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, thực hiện
đúng các quy trình, quy định mà còn biểu hiện ở việc quyết tâm của lãnh đạo của
các đơn vị liên quan, biểu hiện ở việc thường xuyên quan tâm tuyên truyền vận
động người nghèo tham gia thực hiện các chính sách giảm nghèo bền vững. Có như
vậy việc duy trì các chính sách giảm nghèo bền vững lâu dài và có hiệu quả mới
phát huy tác dụng trong điều kiện thực tiễn của địa phương mình.
Ngoài ra, người nghèo cùng toàn thể nhân dân trong địa bàn cần có trách
nhiệm tham gia thực hiện yêu cầu của nhà nước và vận động nhau tích cực nâng cao
tính tự giác chấp hành chính sách giảm nghèo bền vững.
Bên cạnh đó các cấp quản lý nhà nước cùng các bên có liên quan cần phải
thường xuyên tiến hành kiểm tra việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
Trên thực tế có nhiều bài học cho thấy có kế hoạch tốt, có tuyên truyền tốt, có
nguồn lực tốt nhưng khâu kiểm tra, giám sát lỏng lẻo thì kết quả thực hiện các chính
sách vẫn không tốt, thậm chí còn bị méo mó, mất lòng tin của nhân dân, thất thoát
tài sản của Nhà nước. Vì thế, kiểm tra, kiểm soát sẽ giúp các cơ quan nhà nước các
cấp kịp thời điều chỉnh mục tiêu, biện pháp trong từng thời điểm cụ thể; giúp cơ
quan nhà nước tập trung vào những mục tiêu cốt lõi của kế hoạch và hạn chế tối đa
hiện tượng lạm quyền của cán bộ công chức hay sự thất thoát trong quá trình thực
thi các chính sách giảm nghèo bền vững.
15
1.2.5. Điều chỉnh chính sách giảm nghèo bền vững
Công tác lập kế hoạch thực thi chính sách về bản chất là việc xây dựng các
bước cần thực hiện trong tương lai. Do vậy, kế hoạch sau khi ban hành và đưa vào
thực thi có thể xảy ra nhiều tồn tại không lường trước trong kế hoạch. Do đó, trong
quá trình thực thi chính sách giảm nghèo bền vững luôn luôn phải có hoạt động điều
chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tiễn tại địa phương. Hoạt động này được
thực hiện bởi các cơ quan ban hành chính sách. Các cơ quan có thẩm quyền xem xét
và chủ động điều chỉnh chính sách dựa trên những đánh giá sơ bộ của các cơ quan
thực thi và căn cứ trên các yêu cầu quản lý thực tế tại địa phương. Tuy nhiên, việc
điều chỉnh chính sách không được làm thay đổi mục tiêu của chính sách bởi vì việc
này có thể dẫn đến mục tiêu chính sách giảm nghèo bền vững được coi như không
tồn tại.
Các hoạt động điều chỉnh chính sách giảm nghèo bền vững phải được dựa trên
những căn cứ mang tính khoa học cao. Bởi vì, nếu hoạt động này bị sai lệch, biến
dạng sẽ làm cho việc thực thi chính sách giảm nghèo bền vững không chuyển biến
theo hướng tốt hơn mà còn có thể làm cho chính sách không tồn tại được. Ban Chỉ
đạo thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững phải phối hợp chặt chẽ với UBND
các cấp cùng các đơn vị liên quan thường xuyên bám sát kiểm tra, đôn đốc trong
quá trình thực hiện chính sách, có như vậy mới kịp thời phát hiện những điểm chưa
phù hợp với tình hình thực tế để điều chỉnh, bổ sung kế hoạch thực thi chính sách.
1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững
Kiểm tra, kiểm soát là một khâu không thể thiếu trong mọi quy trình quản lý
hay bất cứ quá trình thực thi chính sách nào. Như đã đề cập ở phần trên, muốn thực
hiện tốt kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch một cách chính xác và hợp lý thì phải
thường xuyên bám sát theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững. Các hoạt động này không chỉ diễn ra ở cấp có thẩm quyền mà còn
cả từ phía người nghèo.
Như chúng ta đã biết, trong quá trình thực thi chính sách giảm nghèo bền vững
ở địa phươn sẽ có đơn vị làm nhanh, có đơn vị làm chưa nhanh, có đơn vị thực thi
tốt, có đơn vị thực thi chưa tốt. Do vậy, hoạt động theo dõi, kiểm tra, đôn đốc phải
16
diễn ra thường xuyên và trong mọi khâu của quá trình thực thi chính sách nhằm thúc
đẩy người thực thi công vụ và các đơn vị liên quan phải có trách nhiệm thực hiện
chính sách, hoàn thành nhiệm vụ đúng kế hoạch và đặc biệt là phòng chống những
hành vi sai phạm quy định mà những hành vi đó có thể ảnh hưởng xấu đến uy tín
của Nhà nước.
Từ việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các hoạt động thực thi chính sách giảm
nghèo bền vững, các nhà quản lý và các đối tượng thụ hưởng chính sách sẽ nắm rõ
được tình hình, tiến độ thực hiện chính sách. Dựa vào đó, các nhà quản lý sẽ đánh
giá được những ưu điểm và tồn tại của công tác này. Các chính sách giảm nghèo
bền vững diễn ra trên địa bàn rộng với nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia;
mặt khác với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, phong tục tập quán, môi
trường ở các vùng miền khác nhau cộng thêm trình độ năng lực của cán bộ công
chức ở các địa phương không giống nhau, do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải tiến hành theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính giảm nghèo
bền vững.
1.2.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính sách
Bất kỳ một kế hoạch nào đều có công đoạn đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
và quá trình thực thi chính sách giảm nghèo bền vững cũng không phải là một ngoại
lệ. Công tác này không chỉ diễn ra ở cấp ban hành kế hoạch mà phải thực hiện từ
cấp cơ sở (phường, xã, thị trấn) đi lên với sự tham gia của đối tượng thụ hưởng
chính sách (người nghèo).
Các nội dung cần đánh giá gồm:
- Đánh giá quá trình thực hiện các chính sách giảm nghèo;
-
Đánh giá quá trình thực hiện các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia
về giảm nghèo bền vững;
- Đánh giá các kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo;
- Đánh giá hiệu quả tác động tới đối tượng thụ hưởng sau khi thực hiện chính
sách.
Với những đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ, các nhà quản lý có thể đưa ra những
kiến nghị, đề xuất các giải pháp thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững trong giai
đoạn 2016-2020 phù hợp và hiệu quả hơn.
17
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững
1.3.1. Nhân tố khách quan
-
Tác động của kinh tế: Môi trường kinh tế không thuận lợi, cơ sở hạ tầng
thấp kém như không có thị trường, thị trường hoạt động yếu ớt hay thị trường không
đầy đủ cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình. Bên
cạnh đó, các yếu tố trong sản xuất như hệ thống trồng trọt, hệ thống kênh mương,
cống đập, hệ thống tưới tiêu hạn chế (tạm bợ, xuống cấp…) cũng tác động trực tiếp
đến sản lượng năng suất cây trồng. Cơ sở hạ tầng (như đường giao thông, điện,
trường học, trạm y tế, bệnh viện, bưu điện, chợ huyện...), thị trường (lao động, vốn,
hàng hoá) cũng là những yếu tố tác động mạnh đến thực hiện chính sách giảm
nghèo, làm chậm hoặc gây khó khăn cho thực hiện chính sách. Những bất cập về
mặt kinh tế đặc biệt tác động mạnh đến thực thi chính sách ở các vùng không có
đường giao thông, hoặc giao thông đi lại khó khăn.
-
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa: Mặt trái của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cũng có những tác động nhất định đến thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững. Quá trình này diễn ra luôn đi kèm với kế sinh nhai của người lao
động bị ảnh hưởng (chuyển đổi ngành nghề không tốt, thu nhập bấp bênh, …), môi
trường sống bị ảnh hưởng (ô nhiễm, bệnh tật, …) và có thể kèm theo các tệ nạn xã
hội. Vì thế, quan tâm đến những tác động tiêu cực của quá trình công nghiệp hóa và
đô thị hóa trong quá trình thực thi các chính sách giảm nghèo bền vững là hết sức
cần thiết.
-
Tàn phá môi trường: Ở nước ta, mức độ tàn phá môi trường ngày càng
nghiêm trọng là một nhân tố trực tiếp làm tăng mức độ và phạm vi của đói nghèo.
Đó là tình trạng ô nhiễm môi trường các khu công nghiệp, các công ty đã làm bệnh
tật gia tăng đối với công nhân và dân cư trong vùng, chi phí cho sức khỏe và bệnh
tật khiến người lao động nghèo thêm; tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đưa
đến mực nước biển dâng cao, xâm chiếm nhiều diện tích đất đai để sinh sống…mà
còn có những trận hạn hán, lũ lụt trầm trọng, xói mòn bờ biển, bờ sông.
-
Sự hạn chế về nguồn lực, nhất là vốn tài chính, hỗ trợ người nghèo : Ở nước
ta, kinh phí để thực hiện giảm nghèo được cân đối chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà
nước đóng vai trò chủ đạo. Đồng thời huy động các nguồn khác từ các tổ chức quốc tế,
18
các tổ chức phi chính phủ và sự đóng góp của các quỹ từ thiện của quốc tế và cũng
như các cá nhân trong nước.Tốc độ phát triển kinh tế có vai trò quan trọng đối với
nguồn lực giảm nghèo, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, thu ngân sách
tăng là một trong những yếu tố tài chính đảm bảo cung cấp cho giảm nghèo. Nếu
chi tiêu cho giáo dục, y tế, dạy nghề, các chính sách đầu tư phát triển KT-XH của
Nhà nước chưa cân đối giữa các cấp hành chính, giữa các vùng miền, giữa các
ngành kinh tế thì tính bền vững của giảm nghèo sẽ bị hạn chế.
Việc đầu tư và dành tỷ lệ đầu tư lớn cho nông nghiệp và khu vực nông thôn có
tác động tích cực đến giảm nghèo. Ngoài việc tập trung đầu tư cho thủy lợi, các trục
công nghiệp chính, chính sách đầu tư nếu chú trọng vào các ngành công nghiệp thu
hút nhiều lao động gắn với khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa sẽ tạo động lực tốt cho giảm nghèo. Đối với các chính sách như tín dụng, trợ
giá, trợ cước nếu chưa đủ mạnh và không đúng đối tượng sẽ làm ảnh hưởng xấu đến
sự hành thình thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa. Cùng với
đó, việc tập trung đầu tư vào phát triển giao thông, đường sá đến các vùng sâu, vùng
xa, vùng đói nghèo sẽ có tác động ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển
kinh tế hàng hóa ở các địa phương, vùng miền.
Hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng cơ hội thu hút nguồn lực cho giảm nghèo
song cũng làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói. Quá trình hội nhập quốc tế và
khu vực một mặt đem lại những sự trợ giúp về tài chính trong XĐGN từ các thiết
chế tài chính, tín dụng và chính phủ, các tổ chức phi chính phủ. Những nguồn lực
này cùng với các chương trình mang tính trợ giúp kỹ thuật, điều kiện kết cấu hạ
tầng, nâng cao dân trí...nếu được sử dụng tốt sẽ có vai trò hỗ trợ tích cực đối với
giảm nghèo bền vững.
Nguồn nhân lực là một yếu tố rất quan trọng đối với công tác giảm nghèo. Để
thực hiện đồng bộ, hiệu quả hệ thống các chương trình giảm nghèo rất cần có đội
ngũ cán bộ có chuyên môn phù hợp, có tinh thần trách nhiệm cao, công việc phải
được phân công, phân cấp rõ ràng, minh bạch tư trung ương tới cơ sở.
-
Một số điều kiện tự nhiên khách quan tác động đến quá trình giảm nghèo
bền vững:
+ Vị trí địa lý: có ảnh hưởng trực tiếp lên các nguồn lực của phát triển, như tín
dụng, khoa học kỹ thuật và công nghệ, thị trường, lựa chọn địa điểm xây dựng cơ sở
19
hạ tầng cũng như phân bố các ngành và các hình thức tổ chức các lĩnh vực công
nghiệp, nông nghiệp, ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành, phát triển và phân bố các
loại hình giao thông vận tải, đặc biệt phục vụ an ninh quốc phòng.
+
Khí hậu và thời tiết: Điều kiện thiên nhiên ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất
và đời sống của nhân dân, nhất là ở những địa phương có khí hậu khắc nghiệt, thiên
tai (bão, lụt, hạn hán…) thường xuyên xảy ra. Tác hại của thiên tai rất lớn. Thiên tai
luôn là kẻ thù đồng hành nghèo đói, dịch bệnh…nó có thể cướp đi tài sản, tính
mạng con người và hậu quả để lại là rất lớn không thể khôi phục lại được trong chốc
lát mà phải trải qua nhiều năm.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
- Nhận thức: Đầu tiên phải kể đến quan điểm, nhận thức của các cơ quan cũng
như của các địa phương trong việc đề xuất, xây dựng các chính sách, chương trình
thích hợp cũng như việc thực hiện các chính sách, chương trình đó. Chỉ có nhận
thức đúng đắn, thống nhất của các chủ thể hoạch định và thực thi chính sách mới tạo
cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả chính sách trong thực tiễn. Nhận thức về giảm
nghèo bền vững khác nhau dẫn đến cơ chế thực hiện khác nhau, mức độ quan tâm,
ưu tiên khác nhau. Có những cơ quan quản lý nhà nước cho rằng, tập trung ưu tiên
phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng nghèo là điều kiện để giảm nghèo bền vững mà
không hiểu rằng đó là trách nhiệm của nhà nước nên đã biến cơ chế đầu tư cơ sở hạ
tầng thành ban phát, xin - cho dẫn đến thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả. Có những
địa phương với những kinh nghiệm chủ quan đã đầu tư, sử dụng các nguồn lực một
cách bất hợp lý gây thiệt hại, thậm chí làm giảm đi khả năng của người nghèo ở địa
phương mình. Do đó, nhận thức giảm nghèo bền vững cần phải rõ ràng, bám sát
những nội dung, tư tưởng của nó cho dù ở các địa phương, vùng miền có thể có
những cách làm khác nhau.
- Sự hạn chế, bất cập trong chính sách phát triển.
Thực tế cho thấy để giảm nghèo bền vững, cần tác động tới người nghèo bằng
một hệ thống chính sách, chương trình đồng bộ có tính lồng ghép cao, như: Chương
trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ có đã tác động tích cực, nhanh chóng đến
những huyện nghèo, xã nghèo, hộ nghèo trong một khoảng thời gian ngắn, tạo tiền
đề trong công cuộc giảm nghèo của các địa phương nói riêng cũng như cả nước nói
chung. Việc thực hiện đồng bộ các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo,
20