Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
A. Phần mở đầu
Mỗi một ngôn ngữ có một hệ thống các kiểu cấu trúc đa dạng, phong phú,
chuẩn mực được sử dụng trong mọi hoàn cảnh giao tiếp, mọi phong cách, nói
cách khác là những kiểu cấu trúc cú pháp đa phong cách. Bên cạnh đó còn có
một hệ thống các biến thể cú pháp (biến thể cấu trúc câu) mang tính đơn phong
cách để được ưu tiên sử dụng thích hợp trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể nào
đó). Phong cách học về cú pháp không miêu tả toàn bộ hệ thống các kiểu cấu
trúc câu của một ngôn ngữ - đó là công việc của ngữ pháp học – mà chỉ khảo sát
các biện pháp phong cách về câu mang tính đặc biệt giàu sắc thái gợi cảm, đối
lập các cấu trúc đồng nghĩa, các biến thể cú pháp đồng nghĩa nhằm miêu tả các ý
nghĩa biểu cảm và ý nghĩa phong cách, quy luật sử dụng chúng. Các quy tắc
diễn đạt về cú pháp được nhận thức trên cơ sở các biện pháp tổ chức các biến
thể (cú pháp) đồng nghĩa cú pháp. Trong giao tiếp hằng ngày do sự chi phối của
các nhân tố nội dung, đối tượng, hoàn cảnh và mục đích giao tiếp nên một cấu
trúc câu thông thường đa phong cách có thể được chuyển đổi thành các biến thể
đơn phong cách nhằm phù hợp với từng phong cách nhất định, trong khi nội
dung logic của nó không thay đổi. Sự khác nhau ở đây chỉ là sắc thái ý nghĩa mà
thôi. Việc tìm hiểu sắc thái ý nghĩa các cấu trúc đồng nghĩa cú pháp đặc biệt có ý
nghĩa quan trọng đối với tiếng Việt, một ngôn ngữ mà trật tự từ, hư từ là những
phương tiện và phương thức ngữ pháp chủ yếu. Việc thay đổi trật tự từ, chuyển
đổi cấu trúc, chức năng của câu...trong tiếng Việt mà không làm thay đổi ý nghĩa
cơ bản là những quy tắc diễn đạt giàu sắc thái ý nghĩa và sắc thái phong cách.
Một trong những quy tắc đó là cấu trúc câu cân đối.
Quy luật biểu đạt tạo ra hình thức cấu trúc cân đối của lời nói là một quy
luật quan trọng và thường thấy trong giao tiếp. Bởi vì với tổ chức cấu trúc cân
đối sẽ làm nảy sinh những hiệu quả ngữ nghĩa và sắc thái ý nghĩa phong phú
(cho lời nói) khác với những tổ chức cấu trúc không cân đối.
Nhóm 10 - Văn 3C
1
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
B. Phần nội dung
I. Lý thuyết về cấu trúc cân đối trong câu
1. Cấu trúc cân đối là gì?
Câu có cấu trúc cân đối là câu văn mà ở đó hai mặt hình thức và nội dung
được tổ chức thành hai vế có mối quan hệ phù hợp, cân xứng nhau trên ba bình
diện: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa.
Hai vế có thể có những cách tổ chức như sau:
- Hai vế thể hiện cùng một chiều, bổ sung, phối hợp với nhau nhằm để
nhấn mạnh một tính chất nào đó.
Ví dụ trong hai câu:
“Nền phú hậu/ bậc tài danh
Văn chương nết đất, thông minh tính trời”
Hai câu trên có sự cân đối về số lượng âm tiết (câu trên: 3/3, câu dưới
4/4), cân đối về loại từ (phú hậu/tài danh, văn chương/thông minh, nết đất/ tính
trời)... và về ý nghĩa cả hai vế của hai câu trên có ý nghĩa bổ sung để chi sự
thượng lưu, giàu có, danh tiếng đồng thời giỏi giang, thông tuệ.
- Hoặc hai vế ngược chiều nhưng không phủ định nhau. Nội dung hai vế
đối chọi nhau có tính chất tương phản để khắc họa, nhấn mạnh rõ nét hơn về
tính mâu thuẫn, hai mặt, thiếu hài hòa của một thuộc tính đặc trưng nào đó.
Ví dụ như thành ngữ “Khẩu xà tâm Phật” có cấu trúc đối xứng: số lượng
ấm tiết 2/2, hài hòa về từ ngữ, hài hòa về âm thanh TB/BT nhưng về ý nghĩa có
sự mâu thuẫn để nhấn mạnh một hiện tượng trong đời sống đó là những con
Nhóm 10 - Văn 3C
2
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
người có lời nói, hành động cử chỉ xấu xa, độc ác nhưng trong bụng lại hiền
lành, đúng đắn.
2. Cơ sở cấu trúc cân đối trong tiếng Việt
a. Cơ sở xã hội
Xuất phát từ cơ sở văn hóa Việt Nam. Sự cân đối vốn là hình thức về cái
đẹp tồn tại phổ biến trong cuộc sống của nhân dân ta. Từ những hoa văn tinh vi
trên đồ đồng, đồ gốm, ý phục đến các công trình kiến trúc, chúng ta luôn bắt gặp
những vẻ đẹp tạo bởi các yếu tố, các bộ phận cân xứng với nhau. Thêm vào đó
lối tư duy tổng hợp, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn
đến xu hướng trọng sự cân đối, hài hòa trong ngôn từ - một biểu hiện của tính
biểu trưng trong ngôn ngữ tiếng Việt.
b. Cơ sở ngôn ngữ
Tổ chức câu văn theo cấu trúc cân đối là một đặc điểm có tính đặc thù đối
với tiếng Việt và các ngô ngữ cùng loại hình. Đối với tiếng Việt, đặc điểm này
có nguồn gốc sâu xa từ tính chất đối xứng trong các đơn vị ngôn ngữ (từ đơn vị
từ, cụm từ đến câu)
Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt. Theo nguyên
lý cấu trúc loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết song nó chứa khối
lượng không nhỏ các từ song tiết. Điều quan trọng hơn nữa là mỗi từ đơn tiết lại
hầu như đều có thể có những biến thể song tiết, dạng láy... Cho nên thực chất
trong ngôn từ lời nói Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo.
Tế bào thấp nhất của cấu trúc đối xứng trong tiếng Việt là những hình
thức đối xứng âm tiết ta thường gọi là từ ghép đẳng lập, kiểu như sống chết, hay
Nhóm 10 - Văn 3C
3
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
dở, ít nhiều...Lớn hơn là các tổ hợp 4 hoặc 6 có khi 8 âm tiết, ta gọi là tục ngữ
hay thành ngữ.
II. Cấu trúc cân đối trong câu văn tiếng Việt là một loại phương
tiện tu từ biểu cảm đặc sắc
1. Biểu hiện cấu trúc cân đối trong ngôn ngữ văn chương
Việc vận dụng cấu trúc cân đối là những cách thức, phương tiện có hiệu
quả cao trong giao tiếp và đặc biệt chúng ta thường thấy trong ngôn ngữ văn
chương.
a. Thành ngữ, tục ngữ Việt Nam.
Cấu trúc cân đối từ lâu đã là một nguyên tắc tổ chức ngôn ngữ trong tuyệt
đại bộ phận thành ngữ, tục ngữ Việt Nam. Ở thành ngữ thông qua hình thức
ngôn ngữ cân xứng, tư duy hình tượng hóa của dân gian đã được thể hiện một
cách trọn vẹn. Ví dụ nói về nỗi vất vả, nghèo khổ của người nông dân xưa, thành
ngữ Việt Nam có hàng loạt các thành ngữ có cấu trúc cân đối: “Một nắng hai
sương”, “Chân lấm tay bùn”, “Tay làm hàm nhai”, “Dãi nắng dầm sương”,
“Quần manh áo vá”....
Với tục ngữ, nội dung trí tuệ được cố định hóa một cách chặt chẽ, hàm
súc và giàu sức thuyết phục thông qua cấu trúc cân đối. Tiếng nói của kinh
nghiệm, của tư duy trong tục ngữ sẽ được nói lên phần lớn nhờ cấu trúc ngôn
ngữ chặt chẽ của chúng. Ở đây chân lý của đời sống hiện thực được phản ánh đã
tìm được hình thức thể hiện tương ứng. Vần và cấu trúc cân đối làm cho người
ta tin hơn vào nội dung được phản ánh và cũng nhờ thế mà sức lưu truyền cũng
bền lâu, mạnh mẽ hơn: “Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”, “Chị
ngã em nâng”, “Cày sâu tốt lúa”, “Trâu ra mạ vào”....
Nhóm 10 - Văn 3C
4
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
Cấu trúc cân đối trong tục ngữ và thành ngữ thể hiện trên cả ba mặt: ngữ
âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa. Đặc tính đó thể hiện trước hết ở số lượng âm tiết
trong thành ngữ, tục ngữ bao giờ cũng là âm tiết chẵn. Nội dung hai vế cũng
phải cân đối nhau. Tính cân đối về nội dung lại được nâng đỡ bằng sự cân đối
hài hòa về âm thanh, luật bằng trắc:
“Con nhà lính/ tính nhà quan” ( BBT/TBB)
“Rừng có mạch/ vách có tai” (BTT/TTB)
“Bới lông/ tìm vết” (TB/BT)
“Người sống/ đống vàng” (BT/TB)
Nghệ thuật đối chọi rất chỉnh cả âm, lời và ý của từng thành tố của từng
vế cấu trúc của thành ngữ đã chi phối tính chặt chẽ của thành ngữ và tạo nên âm
điệu nhịp nhàng, uyển chuyển, giàu sắc thái gợi cảm.
b. Câu đối.
Câu đối là một thể loại văn học có tính chất bác học thuộc thể biền ngẫu
gồm hai vế đối nhau, nhằm biểu thị ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước
một sự việc, một hiện tượng nào đó trong đời sống xã hội. Câu đối là một loại
sản phẩm văn chương đặc biệt, nó vừa công phu tỉ mỉ, lại vừa cô đúc ngắn gọn.
Trong tác phẩm “mini” ấy thể hiện đủ cả cái đẹp cân đối nhịp nhàng của hình
thức và cái uyên thâm của chiều sâu triết lí phương Đông.
Vd:
“Chiều ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa/ Sáng
mồng một rượu say túy lúy, giang tay bồng ông Phúc vào nhà.”
(Nguyễn Công Trứ)
“Tết đến không tiền lo chi Tết/ Xuân về hết gạo đón chi xuân”
(Nguyễn Công Trứ)
Nhóm 10 - Văn 3C
5
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
“Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ
đói/ Sáng mồng một, nới lỏng then tạo hóa, mở toác ra cho thiếu nữ rước xuân
vào”.
(Hồ Xuân Hương)
“Giàu thì thiếu gì tiền, đi một vài quan không phải lẽ/ Sang không thì ra
bạc, gửi năm ba chữ gọi là tình.”
(Nguyễn Khuyến)
c. Khẩu hiệu
Do cấu trúc cân đối có tác dụng đối với nội dung hoàn chỉnh nên khi
muốn biểu hiện một điều gì mang tính khái quát, vĩnh viễn như một quy luật thì
cấu trúc cân đối tỏ ra rất thích hợp. Vì thế trước đây chúng ta gặp rất nhiều câu
khẩu hiệu được tổ chức theo cấu trúc cân đối.
Dùng cấu trúc cân đối, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra những khẩu hiệu châm
ngôn dễ nhớ, dễ thuộc
“Thi đua là yêu nước/ yêu nước là thi đua”
“Đâu cần thanh niên có/ Đâu khó có thanh niên”
“Vì lợi ích mười năm trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm trồng người”
d. Thơ và văn xuôi
Cấu trúc cân đối không chỉ giới hạn trong một số tiểu loại văn bản như
thành ngữ, tục ngữ, khẩu hiệu, câu đối... mà nó còn được sử dụng trong những
câu văn dài, những đoạn văn, khổ thơ...
Nhóm 10 - Văn 3C
6
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
Thơ ca Việt Nam là một thứ thơ ca có cấu trúc chặt chẽ (lục bát, song thất
lục bát) và thể hiện sự cân đối hài hòa. Đặc biệt ta có thể gặp cấu trúc cân đối
xuất hiện nhiều trong kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du.
- “Người quốc sắc/ kẻ thiên tài
Tình trong như đã/ mặt ngoài còn e”
- “Phong tư tài mạo tót vời
Vào trong phong nhã/ ra ngoài hào hoa”
- “Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê
Rốn ngồi chẳng tiện/ dứt về chỉnh khôn”
Trong văn xuôi ta cũng thấy từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu
của Trần Quốc Tuấn hay như thư dụ hàng gửi địch của Nguyễn Trãi cho tới
những lời văn nôm bình dân... ta đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng,
chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu. Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau, người
Việt cũng chửi nhau một cách bài bản, cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ. Đây là
lời chửi của một người đàn bà mất gà được ghi lại trong tiểu thuyết “Bước
đường cùng” của Nguyễn Công Hoan: “Làng trên xóm dưới, bên trước bên sau,
bên ngược bên xuôi! Tôi có con gà mái xám nó sắp ghẹ ổ, nó lạc ban sáng, mà
thằng nào con nào, đứa ở gần mà qua, đứa ở xa mà lại, nó dang tay mặt, nó đặt
tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha thả nó ra, không tôi chửi cho đới!
Chém cha đứa bắt gà nhà bà. Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy còn sáng
hôm nay con bà gọi nó nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn
sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà.
Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà
khai quật bật săng thằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con
Nhóm 10 - Văn 3C
7
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
gà, nó về nhà mày, nó biến thành cú thành cáo, thành nanh đỏ mỏ; nó mổ chồng
mổ con, mổ cả nhà mày cho mà xem...” Ngay trong những tiểu thuyết xuất hiện
dưới ảnh hưởng của văn xuôi phương Tây cũng vẫn mang rất đậm dấu ấn của
truyền thống cân đối nhịp nhàng, biểu trưng ước lệ. Đây là những câu văn tả
người của Tản Đà trong “Giấc mộng con”: “Tiếng nói nhẹ nhàng bao nhiêu,
dáng người mềm mại bấy nhiêu; mềm bao nhiêu, chín bấy nhiêu, tươi bấy nhiêu,
tình bấy nhiêu. Như ghét, như yêu, như chiều, như ngượng. Lông mày ngài, đôi
mắt phượng, cô chờ ai?”
Cấu trúc cân đối không chỉ sử dụng hạn chế trong lối văn biền ngẫu gò bó
mà còn phát triển linh hoạt trong văn thơ hiện đại. Tính cân đối được chú trọng
ở một khía cạnh khác rộng hơn, tế nhị hơn, uyển chuyển hơn.
Hồ Chí Minh là người rất thích diễn đạt theo cấu trúc cân đối. Hình thức
cân đối trong câu văn của Người rất phong phú, đa dạng và khoáng đạt. Người
không chỉ chú trọng ở luật bằng trắc, số chữ mà còn quan tâm đến nhịp điệu, tiết
tấu câu văn. Có lúc người sử dụng hình thức đối trong phạm vi các cặp từ trái
nghĩa. Nhưng có lúc lại mở rộng ra giữa nhiều câu, giữa từ đoạn văn dài và trở
thành một lối văn cân đối, có nhạc tính tự nhiên.
Ví dụ:
-
“Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào nhân dân ta đoàn kết
muôn người như một thì đất nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nhân dân ta
không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn
kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”
- “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước
ta lần nữa”
Nhóm 10 - Văn 3C
8
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
- “Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn
giáo đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân
Pháp để cứu Tổ quốc.”
Những câu văn của Hồ Chí Minh có cái nhịp nhàng, cân đối của những
câu thơ. Văn xuôi của Người vì thế mà tăng sức thuyết phục, truyền cảm mạnh
mẽ, dễ khắc sâu vào trái tim và khối óc của nhân dân.
2. Cấu trúc cân đối trong câu văn tiếng Việt là một loại phương tiện
tu từ biểu cảm đặc sắc
Phương tiện tu từ đó là các phương tiện ngôn ngữ (âm thanh, từ ngữ, cú
pháp) được vận dụng nhằm mục đích tu từ biểu cảm.
Sự đối lập giữa câu văn có cấu trúc cân đối và câu văn không có cấu trúc
cân đối là sự đốiập về kiểu câu nói chung, không phải là đối lập từng câu cụ thể.
Sự đối lập của hai loại câu này về tổ chức hình thức và tổ chức nội dung như vậy
làm nảy sinh các sắc thái ý nghĩa.
Cấu trúc cân đối có thể mang lại một số sắc thái ý nghĩa như sau:
a.Tạo nên tính chính xác về nội dung
Cấu trúc cân đối làm nội dung biểu đạt được hiểu một cách rõ ràng, chính
xác, tránh được những cách hiểu khác nhau.
Ví dụ: “Gần mực thì đen/ gần đèn thì rạng”
Nhờ cấu trúc cân đối mà ta xác định được quan hệ ngữ nghĩa giữa hai vế
và đưa đến một cách hiểu: Vế 1: Nếu ta tiếp xúc với những điều không tốt thì sẽ
bị lây nhiễm. Vế 2: Ngược lại, nếu ta tiếp xúc với những điều hay lẽ phải thì ta
cũng học được những điều tốt đẹp. Câu tục ngữ là bài học kinh nghiệm được
Nhóm 10 - Văn 3C
9
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
đúc kết từ cuộc sống về mối quan hề giữa môi trường xã hội với việc hình thành
nhân cách con người.
Một ví dụ khác: “Người chửa/ cửa mả”
Cũng nhờ có cấu trúc cân đối mà ta có thể xác định một cách hiểu đúng
nhất cho câu tục ngữ trên. Ở đây câu tục ngữ nói lên một nhận xét, một kinh
nghiệm của ông cha ta: người có mang (vế 1) nếu không giữ gìn cẩn thận thì dễ
gặp nguy hiểm, có khi thiệt mạng như chơi (vế 2).
Ví dụ khác là câu thành ngữ “Đau thiết/ thiệt van” . Nhờ có cấu trúc cân
đối chúng ta mới có thể xác định một cách chính xác về ý nghĩa của câu thành
ngữ. Đây vốn là câu thành ngữ có sử dụng yếu tố từ cố là “thiết”. Nếu không
nhờ cấu trúc cân đối thì rất khó để có thể hiểu nghĩa chính xác. Câu thành ngữ
trên có nghĩa là đau thì rên rỉ mà thiệt thì năn nỉ.
- Cấu trúc cân đối sẽ giúp ta hiểu đúng nội dung trong trường hợp do yêu
cầu của cấu trúc văn bản, thể loại, câu văn lược bỏ các hư từ (quan hệ từ, liên
từ...) làm cho chúng ta khó xác lập quan hệ ngữ nghĩa giữa các vế, thành phần
trong câu.
Ví dụ:
Để thông báo được ngắn gọn, nội dung thông báo được cô đọng, súc tích,
thành ngữ, tục ngữ có thể giản lược những từ không cần thiết. Do được hình
thành từ lâu đời và được truyền miệng qua nhiều thế hệ, nên cấu trúc của thành
ngữ, tục ngữ đã lược bỏ những từ làm nhiệm vụ chuyển nối (liên từ, quan hệ từ)
và mang chức năng đưa đẩy như mà, và, là, thì, nhưng, mắc dù, tuy, nếu...Việc
lược bỏ những yếu tố trên tạo ra các cấu trúc cân đối, đối xứng. Chẳng hạn,
thành ngữ “mình đồng da sắt” có cấu trúc cân xứng, cân đối về cả âm thanh, ngữ
pháp và ngữ nghĩa. Yếu tố bị lược bỏ là liên từ “và” có tác dụng nối kết hai vế
Nhóm 10 - Văn 3C
10
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
có ý nghĩa bổ trợ nhau. Bởi vậy ở nhiều tục ngữ, thành ngữ có thể xen thêm các
yếu tố tỉnh lược, nhất là các hư từ làm công cụ ngữ pháp bị tỉnh lược, để thấy rõ
thêm mối quan hệ giữa các bộ phận trong thông báo, do vậy mà nội dung thông
báo được sáng rõ.
“Được làm vua (còn) thua làm giặc”.
“Con nhà lính (mà) tính nhà quan”.
“Trẻ không tha (mà) già (cũng) không thương”.
- Một trường hợp khác là trong chữ Nôm trước đây không có dấu câu
nhưng đọc lên người nghe vẫn có thể tự mình phân định các câu nói để từ đó
hiểu rõ nội dung biểu đạt. Điều đó thực hiện được là do hình thức cân đối của
câu và một số tiểu từ tình thái ở cuối câu hoặc cuối vế câu như vậy, há, chăng ...
đã giúp cho người nghe khắc phục khó khăn trên.
Ví dụ: “Uống nước quên nguồn, người xưa chê trách. Trái thầy mà học,
người hiền vốn tránh. Nước ta ở thiên về phương Nam, tiếng nói khác với Trung
Quốc. Những học sĩ nho sinh, tuy tập theo văn tự Trung Hoa, song hát vịnh nói
năng đều chẳng lìa bỏ thanh âm của bản quốc. Lẽ nào lại có thể chỉ một điều
cho chữ Hán là thanh cáo mà lại chối bỏ tiếng ta, cho là thô bỉ”
(Phạm Đình Toái)
Nhóm 10 - Văn 3C
11
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
b. Tạo sự chặt chẽ trong diễn đạt
Hình thức cân đối mang lại cho sự diễn đạt sắc tháu chặt chẽ, khúc chiết
của câu văn lý luân và góp phần tạo nên tính khái quát của nội dung (tính quy
luật).
Câu văn lý luận là câu văn ngắn gọn, cân đối, khúc chiết, ít sử dụng hư từ
(nhất là các liên từ). Tuy không sử dụng các liên từ nhưng khi đọc lên ta vẫn
hiểu được tất cả các mối quan hệ lý luận cần thiết của câu văn lý luận.
Chúng ta có thể nhận thức được những mối quan hệ lý luận đó qua cấu
trúc cân đối của các thành ngữ, tục ngữ:
- Quan hệ nguyên nhân: “Bút sa/ gà chết”
“Có tật/ giật mình”
“Đất lành/ chim đậu”
- Quan hệ điều kiện:
“Ở hiền/ gặp lành”
“Nhà sạch thì mát/, bát sạch ngon cơm”
“Trời nồm/ tốt rạ”
- Quan hệ so sánh:
“Người ta/ hoa đất”
“Tấc đất/ tấc vàng”
“Nước mưa/ cưa trời”
- Quan hệ đối lập:
“Được mùa lúa/ úa mùa cau”
“Ăn một miếng/ tiếng cả đời”
“Làm phúc/ phải tội”
Nhóm 10 - Văn 3C
12
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
c. Tạo nhiều sắc thái biểu cảm
Cùng với việc kiến tạo những yếu tố, những bộ phận thành đôi tương
xứng với nhau để nhấn mạnh sự tương đồng, hoặc tương phản trong nội dung
thông báo nhằm tăng thêm hiệu quả diễn đạt thì cấu trúc câu cân đối còn tạo ra
nhiều sắc thái biểu cảm cho câu thơ.
Ví dụ trong đoạn thơ:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Chỉ bốn câu thơ trích trong “Truyện Kiều” đã cho ta thấy tác giả Nguyễn
Du sử dụng cấu trúc cân đối một cách thật tài tình.
Trước tiên ta có thể thấy sự đối xứng trong các cụm từ “dày gió dạn
sương”, “bướm chán ong chường”. Tiếp theo là sự đối xứng giữa các câu thơ
“Khi sao”/ “Giờ sao”, “Mặt sao”/ “Thân sao”. Các cấu trúc đã tạo sự đối lập
về ý nghĩa trong câu thơ, đoạn thơ. Đó là sự đối lập giữa quá khứ êm đềm, tươi
đẹp, gắn với tình yêu trong trắng của Thúy Kiều và Kim Trọng với hiện tại bị
dày xéo, bẽ bàng, tủi hổ.
Có thể lấy một ví dụ khác trong “Truyện Kiều” để thấy rõ thêm tác dụng
biểu cảm của cấu trúc cân đối. Với cấu trúc cân đối, nhất là câu bát là dòng thơ
tám âm tiết này có thêm khả năng diễn đạt vì lúc này nó bao gồm tổ hợp 4 âm
tiết rất thuận lợ cho việc biểu đạt hai ý hoặc hai vế của một ý, vì thế mà hàm
Nhóm 10 - Văn 3C
13
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
súc, khúc chiết. Thật không thể không nhân thấy mặt mạnh đó qua những câu
thơ như thế này:
“Xót thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý/ còn vương tơ lòng”
Đây là câu thơ nêu bật mâu thuẫn giữa ý thức và tình cảm của Thúy Kiều
đối với tình nhân là Kim Trọng. “Dẫu lìa ngó ý” vì gặp cơn gia biến, Kiều phải
bán mình chuộc cha, Kiều phải trao duyên cho em mình là Thúy Vân để “tình
sâu mong trả nghĩa dày” cho chàng Kim, sau đó bị lừa phỉnh phải đành dấn thân
vào quảng đường gió bụi. “Còn vương tơ lòng” vì con tim có những lý lẽ của
riêng nó mà khối óc không thể nào biết được. Bi kịch tình yêu và ý thức đã thể
hiện trọn vẹn trong câu thơ.
Ví dụ khác trong hai câu thơ trong bài thơ “Thói đời” của Nguyễn Bình
Khiêm:
“Còn bạc/ còn tiền/ còn đệ tử
Hết cơm/ hết rượu/ hết ông tôi”
Cấu trúc của hai câu thơ có sự cân đối với nhau: câu đối với câu, từ đối
với từ, nhịp đối nhịp, ý đối ý. Nhìn hình thức câu trên là câu khẳng định (“còn”)
đối với câu dưới là câu phủ định (“hết”). Hai câu phản ánh hai hiện tượng khác
nhau nhưng thực chất đều có giá trị khẳng định: Quan hệ bạc tiền thay thế quan
hệ đạo đức. Bạc tiền làm cơ sở cho quan hệ thầy trò, cơm rượu là đầu mối của
quan hệ ông tôi. Qua đó cho ta thấy xã hội, thói đời, tình người đảo điên, chua
xót. Cấu trúc cân đối đã góp phần thể hiện điều đó.
Không chỉ trong thơ, trong văn xuôi, cấu trúc cân đối cũng phát huy giá trị
biểu cảm của nó. Có thể dẫn ra một dẫn chứng tiêu biểu như sau:
Nhóm 10 - Văn 3C
14
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
Trong tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, Nguyễn Đình Chiểu đã
khắc học thành công hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ. Thời cuộc loạn lạc, nỗi
nhức nhối về cái nhục mấy nước, ý thức về dân tộc đã biến những người nông
dân hiền lành thành những người chiến đấu vì đại nghĩa. Họ đã trở thành người
nghĩa binh tự nguyện gánh vác việc đánh giặc cứu nước. Với những câu văn đối
nhau từng ý ngắn, vụn với hàng loạt đông từ nhanh, mạnh; với những chi tiết
dồn dập... Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa được khoảnh khắc hào hùng của
người chiến sĩ trên chiến trận:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc
như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình
như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho lũ mã tà ma ní hồn kinh; bọn
hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”
Với cấu trúc cân đối kết hợp với các chi tiết, hai câu văn tế vừa khắc họa
dũng khí, sự can đảm đến liều lĩnh của người nghĩa sĩ khiến quân thù khiếp sợ,
vừa diễn tả cách đâm ngang chém ngược của những người nông dân chưa thạo
chiến trường.
Nói tóm lại cấu trúc cân đối trong câu văn mang lại nhiều sắc thái diễn
đạt, góp phần nâng cao hiệu quả giao tiếp và hiệu quả thẩm mỹ.
Nhóm 10 - Văn 3C
15
Bài thuyết trình: Phong cách học tiếng Việt hiện đại
C.Phần kết luận
Qua tìm hiểu lý thuyết và đi vào phân tích, từ những biểu hiện của cấu
trúc cân đối trong văn chương đến các sắc thái ý nghĩa mà cấu trúc cân đối mang
lại cho câu văn tiếng Việt, chúng ta có thể khẳng định rằng cấu trúc cân đối
trong câu văn tiếng Việt là một phương tiện tu từ đặc sắc. Cấu trúc cân đối phổ
biến không những trong giao tiếp mà trong cả văn chương của người Việt. Cấu
trúc cân đối trong câu văn tiếng Việt thể hiện sự sáng tạo, bản sắc cá nhân của
mỗi cá nhân trong diễn đạt đồng thời góp phần làm giàu thêm các quy tắc diễn
đạt trong tiếng Việt.
Nhóm 10 - Văn 3C
16