Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa thành phố Đà Nẵng (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN HIỆP

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NỮ THỰC HIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN HIỆP

TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NỮ THỰC HIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘ, năm 2019



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa học và luận văn thạc sĩ Luật học của mình, trước hết tôi
xin chân thành cám ơn đến Ban giám đốc, các khoa, phòng và quý thầy, cô trong
Học viện Khoa học xã hội, đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi
suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn thạc sĩ Luật học.
Tôi xin chân thành cám ơn sâu sắc nhất đến GS.TS. Võ Khánh Vinh đã trực
tiếp hướng dẫn, định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều
kiện thuận lợi nhất trong quá trình thực hiện luận văn.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến gia đình đã tạo
mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể hoàn thành tốt mọi công việc trong quá trình
thực hiện luận văn. Bên cạnh đó, tôi cũng gởi lời cám ơn của mình đến cơ quan, bạn
bè, đồng nghiệp, luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện, chia sẻ, động viên tôi suốt thời
gian học tập và thực hiện luận văn. Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện
nhưng luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự
góp ý của quý thầy, cô và bạn bè.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Luật học “Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn
này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của
GS.TS. Võ Khánh Vinh.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Trần Văn Hiệp



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NỮ
THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................................6
1.1. Khái niệm tình hình tội phạm do nữ thực hiện ....................................................6
1.2. Phần hiện của tình hình tội phạm do nữ thực hiện...............................................7
1.3. Phần ẩn của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .. 12
1.4. Những yếu tố tác động đến tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng ....................................................................................................21
Chương 2. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NỮ THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .......................................................................................28
2.1. Phần hiện của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng ..........................................................................................................................28
2.2. Phần ẩn của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng... 51
Chương 3. GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NỮ
THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................................55
3.1. Dự báo tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ...55
3.2. Tình hình tội phạm do nữ thực hiện và việc hoàn thiện các giải pháp phòng
ngừa ...........................................................................................................................59
3.3. Tình hình tội phạm do nữ thực hiện và việc hoàn thiện tổ chức phòng ngừa ....70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ANTT

: An ninh trật tự


BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CAND

: Công an nhân dân

TAND

: Tòa án nhân dân

THTP

: THTP

TTATXH

: Trật tự an toàn xã hội

TTXH

: Trật tự xã hội

UBND


: Uỷ ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Mức độ tổng quan tuyệt đối của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018................................................................. 29
Bảng 2.2. Mức độ tổng quan tương đối của THTP do nữ thực hiện so với THTP trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 .......................................... 30
Bảng 2.3. Cơ số tội phạm của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ............................................................................. 31
Bảng 2.4. Cơ số hành vi phạm tội của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng..................................................................................................................... 31
Bảng 2.5. Mức độ tội danh xảy ra của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 so với số tội danh của Bộ luật Hình sự ......... 32
Bảng 2.6. Tỉ lệ giữa số bị cáo và số vụ phạm tội do nữ thực hiện đã xét xử từ năm
2014 đến năm 2018 ................................................................................................... 33
Bảng 2.7 Mức độ nhóm tội xâm phạm sở hữu của THTP do nữ thực hiện trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ................................................ 34
Bảng 2.8. Nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng do nữ thực hiện
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ................................... 35
Bảng 2.9. Mức độ nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến
năm 2018 ................................................................................................................... 36
Bảng 2.10. Nhóm tội phạm về ma túy do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ............................................................................. 37

Bảng 2.11. Mức độ nhóm tội phạm xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân
do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ........ 38
Bảng 2.12. Mức độ nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế do nữ thực
hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ........................... 38
Bảng 2.13. Nhóm tội phạm về môi trường do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018........................................................................ 39


Bảng 2.14. Mức độ nhóm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý hành chính do nữ thực
hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ........................... 39
Bảng 2.15. Mức độ nhóm tội phạm về chức vụ do nữ thực hiện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018................................................................. 40
Bảng 2.16. Mức độ nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp do nữ thực hiện
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ................................... 40
Bảng 2.17. Mức độ tội danh xảy ra nhiều nhất của THTP do nữ thực hiện trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ................................................ 41
Bảng 2.18. Diễn biến của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ
2014-2018.................................................................................................................. 43
Bảng 2.19. Diễn biến của THTP theo nhóm tội do nữ thực hiện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng từ 2014-2018 ....................................................................................... 44
Bảng 2.20. Diễn biến của một số tội phạm cụ thể do nữ thực hiện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng từ 2014-2018 ....................................................................................... 45
Bảng 2.21. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ....................................................... 46
Bảng 2.22. Cơ cấu theo loại hình phạt áp dụng của THTP do nữ thực hiện trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 ................................................ 47
Bảng 2.23. Cơ cấu theo độ tuổi của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018........................................................................ 48
Bảng 2.24. Tỉ lệ vụ án khởi tố và vụ án xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ
năm 2014 đến năm 2018 ........................................................................................... 52



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người phụ nữ Việt Nam ngày nay tiếp tục kế thừa, phát huy những truyền
thống đạo đức quý báu, tốt đẹp mà các thế hệ trước để lại, mặt khác không ngừng
hình thành, phát triển những phẩm chất tiên tiến phù hợp với các yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, từng bước góp phần tạo
dựng hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện đại. Nói đến người phụ nữ Việt Nam, ta
luôn nhắc đến bốn chữ “công, dung, ngôn, hạnh”, những người phụ nữ “Giỏi việc
nước, đảm việc nhà” ấy đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự nghiệp bảo vệ và
xây dựng Tổ quốc, xây dựng quê hương. Cũng chính vì thế mà người phụ nữ luôn
được tôn vinh trong xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập hiện này bên cạnh những tác động tích
cực của những nét văn hóa tiên tiến, tích cực, đã xuất hiện không ít những biểu hiện
văn hóa tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp tới đạo đức của con người Việt Nam, nhất là
một bộ phận lớp trẻ là nữ giới. Ở một bộ phận nữ giới, qua cách trang phục, sinh
hoạt, suy nghĩ, lối sống… đã và đang hình thành sự phô trương, tư tưởng nữ quyền
thái quá, làm mất đi nét đẹp nữ tính, nét duyên dáng, dịu dàng và lòng nhân ái, bao
dung, sẻ chia vốn có của người phụ nữ Việt Nam.
Ở một góc độ khác, do ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, trong xã hội, nhất là
trong giới trẻ là nữ giới đang hình thành lối sống thực dụng, cá nhân, ích kỉ và
những quan niệm lệch lạc trong hôn nhân, tình yêu. Xuất hiện các hành vi như: mẹ
giết con, vợ giết chồng, bạo lực học đường liên quan tới nữ sinh trong các trường
học... Những biểu hiện này cho thấy một bộ phận phụ nữ đã bị xói mòn về phẩm
chất, đạo đức, lối sống dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội. Hình ảnh
người phụ nữ Việt Nam đã phần nào bị ảnh hưởng bởi không ít người phụ nữ (có
người còn rất trẻ) đã phải đứng trước vành móng ngựa, rồi sau đó chịu sự sự trừng
phạt của pháp luật bởi hành vi phạm tội của mình.


1


Thực trạng trong ba năm trở lại đây cho thấy, trên địa thành phố Đà Năng, số
người bị khởi tố, truy tố, xét xử là phụ nữ ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về
tội danh. Theo thống kê, năm 2014, trên địa bàn thành phố có 103 bị can là nữ
chiếm 8,42% trong tổng số bị can mới khởi tố; năm 2015 là 82 bị can chiếm 7,39%
trong tổng số bị can mới khởi tố; năm 2016 lên tới 104 bị can chiếm 9,11%; năm
2017 lên tới 101 bị can chiếm 8,68%; năm 2018 lên tới 110 bị can chiếm 6,43%. Về
tội danh, qua các năm, loại tội danh mà phụ nữ phạm phải cũng đa dạng hơn. Năm
2014, 2015, phụ nữ chủ yếu phạm các tội như Đánh bạc, Chứa mại dâm, Tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, thì đến năm 2016, xuất hiện thêm các
tội như: Cố ý gây thương tích; Buôn bán hàng cấm, Trộm cắp tài sản, Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản... Về thủ đoạn, tính chất của tội phạm do nữ giới thực hiện cũng
ngày một tinh vi hơn, ở một số tội phạm nhất định, phụ nữ biết lợi dụng hoàn cảnh,
thế mạnh giới tính để đạt được mục đích phạm tội, lôi kéo đồng phạm…
Trước thực trạng nêu trên, việc nghiên cứu các giải pháp nhằm ngăn chặn,
phòng ngừa tình trạng phụ nữ phạm tội trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng là một đòi hỏi cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tình hình tội
phạm do nữ thực hiện trên địa thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến vấn đề đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và THTP do nữ thực hiện
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã được công bố như:
- Đề tài “Tình hình tội phạm ở thành phố Đà Nẵng hiện nay” do Lê Thị Hồng
thực hiện năm 2013.
- Đề tài “Các tội xâm phạm sở hữu do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” do Phan Đình Vui thực
hiện năm 2014.

- Đề tài “Tình hình tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” do
Phạm Thị Thu Anh thực hiện năm 2018.

2


Bên cạnh đó còn có một số công trình khoa học nghiên cứu về THTP do nữ
thực hiện trên phạm vi của chuyên ngành Luật hình sự. Nhìn chung các công trình
nghiên cứu đã đưa ra nhiều nguyên nhân, điều kiện và các giải pháp thiết thực để
phòng ngừa THTP do nữ thực hiện, tình hình các tội phạm cụ thể do nữ thực hiện,
nên có giá trị tham khảo cho việc thực hiện công trình nghiên cứu đã nêu. Các yếu
tố thời gian, không gian (đặc trưng về địa bàn) nghiên cứu liên quan đến THTP do
nữ thực hiện là yếu tố bảo đảm không có sự trùng lặp của đề tài, vừa là điều kiện để
có thể kế thừa những công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tiếp cận một cách có hệ thống và
toàn diện THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trên cả hai bình
diện lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó thiết lập hệ thống các biện pháp phòng ngừa
THTP do nữ thực hiện trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Một là, những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Hai là, tình hình tội phạm do nữ thực hiện và thực trạng những yếu tố tác
động đến THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Ba là, tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và
những vấn đề đặt ra đối với hoạt động phòng ngừa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn

thành phố Đà Nẵng.
- Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.

3


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên
ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu tình hình tội phạm do nữ thực hiện
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian: Luận văn sử dụng số liệu thực tế từ năm 2014 đến năm 2018,
gồm các số liệu thống kê của Tòa án về tội phạm do nữ thực hiện.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng ngừa tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phuơng pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp phân
tích, Phương pháp tổng hợp, Phương pháp so sánh; Phương pháp thống kê; Phương
pháp tổng kết kinh nghiệm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn thể hiện tính khoa học trong việc đánh giá, phân tích làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận về THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời
gian vừa qua.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất
lượng, hiệu quả hoạt động phòng ngừa THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4


Chương 2: Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NỮ
THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. Khái niệm tình hình tội phạm do nữ thực hiện
”Khái niệm “tình hình tội phạm” (hay tình trạng tội phạm) là khái niệm cơ
bản đầu tiên của khoa học tội phạm học. Đó là một thuật ngữ khoa học nhưng đồng
thời cũng là một thuật ngữ thường được dùng trong ngôn ngữ thông dụng, ngôn
ngữ đời thường” [45, tr.54]. “Đấu tranh với tội phạm dưới góc độ Tội phạm học
không phải chỉ dựa trên quan điểm xem tội phạm là những hành vi riêng lẻ - đơn
nhất, mà phải nhìn nhận tội phạm trong tổng thể của nó, trong mối quan hệ của nó
với “toàn bộ xã hội”, tức là với tư cách là một chỉnh thể của một hiện tượng xã hội

tiêu cực, phát sinh và phát triển do những nguyên nhân và điều kiện xã hội nhất
định, vận động theo những quy luật riêng và sẽ bị “tiêu vong” thông qua sự biến
đổi của xã hội” [47, tr. 57].
Với tính cách là khách thể nghiên cứu cơ bản của tội phạm học, THTP được
hiểu là hiện tượng tâm - sinh lý - xã hội tiêu cực, vừa có tính lịch sử và lịch sử cụ
thể, vừa có tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện bằng
tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra và các chủ thể đã thực hiện các hành vi đó
trong một đơn vị hành chính - lãnh thổ nhất định và trong một đơn vị thời gian
nhất định.
Như vậy, khi đi vào nghiên cứu về THTP do nữ thực hiện ta cần xác định
THTP do nữ thực hiện chỉ là một trường hợp cụ thể, một “cái riêng” của THTP, “Cái chung”, cho nên khái niệm này cũng phải tuân theo khái niệm chung về THTP
như đã nêu ở trên.
THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong tổng thể THTP
là một quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong đó THTP do nữ thực hiện ở Đà
Nẵng vừa phù hợp, thống nhất với những lý luận về THTP nói chung nhưng cũng

6


có những đặc điểm, thông số riêng mang đặc trưng của một chủ thể trên một địa bàn
cụ thể.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu: Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng là một hiện tượng xã hội pháp lý hình sự tiêu cực, phản
ánh toàn bộ thực trạng (mức độ), động thái (diễn biến), cơ cấu và tính chất tội
phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian
nhất định.
1.2. Phần hiện của tình hình tội phạm do nữ thực hiện
1.2.1. Mức độ của tình hình tội phạm do nữ thực hiện
Có thể hiểu thực trạng THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng là số lượng các tội phạm do nữ đã được thực hiện và những người thực hiện

các tội phạm đó trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất
định. “Khi xác định số lượng các tội phạm do nữ đã được thực hiện cần phải tính
tổng cộng các số lượng sau: (1) Số lượng các tội phạm do nữ thực hiện và những
người bị Tòa án xét xử và tuyên bản án buộc tội; (2) Số lượng các vụ án hình sự về
các tội do nữ thực hiện bị đình chỉ điều tra, truy tố vì không chứng minh được sự
tham gia của bị can trong các tội phạm đã thực hiện; (3) Các số liệu về số lượng
các tội phạm do nữ thực hiện không được phát hiện (các tội phạm tiềm ẩn); (4) Hệ
số của THTP do nữ thực hiện; (5) Mức độ của THTP do nữ thực hiện tái phạm”
[29, tr.14].
- Mức độ tổng quan: “Được xác định bằng tổng số vụ án và tổng số bị cáo
đã được đưa ra xét xử trong một địa bàn (đơn vị hành chính lãnh thổ) nhất định và
trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính trong một năm)” [29, tr.27].
Cơ số hành vi phạm tội được tính bằng số hành vi phạm tội (số bị cáo) trên
10.000 dân trong một năm. Chỉ số tội phạm được tính bằng tổng số vụ phạm tội trên
10.000 dân trong một năm. “Căn cứ vào các chỉ số, bằng thực tiễn nghiên cứu
người ta phân chia thành các mức độ nào là bình thường, mức độ nào là nguy hiểm,
đáng báo động. Bằng cách đối chiếu với chỉ số của THTP mà ta nghiên cứu với các
mức độ để đánh giá tính chất của THTP tại một đơn vị lãnh thổ, so sánh với chỉ số

7


này của các đơn vị lãnh thổ có điều kiện xã hội tương đương để đánh giá THTP tại
nơi nào nghiêm trọng hơn” [29, tr.28].
Để đánh giá mức độ tổng quan THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng một cách chính xác, có thể chia thành mức độ tổng quan tuyệt đối và mức
độ tổng quan tương đối. Trong đó, mức độ tổng quan tuyệt đối trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng cho biết toàn bộ số người phạm tội là nữ thực hiện cùng số tội phạm
do họ thực hiện trong giai đoạn 2014 - 2018 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Số
liệu này là cơ sở để phục vụ cho việc nghiên cứu các thông số khác của THTP do

nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng như diễn biến, cơ cấu và tính chất.
Mức độ tổng quan tương đối, tức là so sánh ở dạng % (Kết quả này là tỷ lệ THTP
do nữ thực hiện (tính theo %) trên địa bàn thành phố Đà Nẵng).
- Mức độ nhóm: Là tổng số vụ phạm tội của nhóm các tội phạm do nữ thực
hiện trong tổng số vụ án đã xảy ra. Mức độ tội phạm cụ thể là tổng số vụ phạm tội
của một tội phạm cụ thể nào đó trong tổng số vụ án về các tội phạm do nữ thực hiện
đã xảy ra.
1.2.2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm do nữ
Động thái (diễn biến) của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng là sự phản ánh xu hướng tăng, giảm, ổn định tương đối của THTP do nữ thực
hiện ở địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định (05 năm).
“Để khảo sát được diễn biến của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng trong một chu kỳ nhất định (05 năm), người ta chọn năm thứ nhất của
chu kỳ là năm gốc, số liệu về tổng số vụ phạm tội và người phạm tội trong năm đó
được tính là 100%. Sau đó ta lấy số liệu về tổng số vụ phạm tội và người phạm tội
của các năm tiếp theo đối chiếu với số liệu của năm gốc để tìm ra xu thế tăng hay
giảm của các năm tiếp theo (tính theo tỷ lệ %). Qua đó, ta thấy được xu hướng tăng,
giảm hay ổn định tương đối của một chu kỳ mà còn giúp cho việc dự đoán có cơ sở
về xu hướng vận động của THTP do nữ thực hiện trong những năm tiếp theo giúp
cho việc thiết kế, áp dụng các biện pháp phòng ngừa sát với thực tế” [29, tr.15].

8


Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu cần lưu ý, diễn biến của THTP nói chung và
diễn biến của THTP do nữ thực hiện nói riêng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng bị
tác động, làm thay đổi bởi hai loại yếu tố:
Một là, các yếu tố xã hội (thuộc về nguyên nhân điều kiện): Sự tăng trưởng
hay suy thoái của nền kinh tế, vấn đề nhập cư ồ ạt, gia tăng dân số nhanh chóng, tỷ
lệ thất nghiệp, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, mất đất sản xuất, suy thoái của đạo

đức, mất ổn định xã hội ... Đây còn là điều để minh chứng THTP do nữ thực hiện
chịu sự tác động sâu sắc của các quá trình xã hội, hiện tượng xã hội khác. Các yếu
tố xã hội thay đổi sẽ tác động lên diễn biến của THTP do nữ thực hiện. Điều này rất
có ý nghĩa khi tìm nguyên nhân điều kiện của THTP do nữ thực hiện ở một địa bàn
nào đó tăng lên một cách đột ngột, xác định nguyên nhân cơ bản, chủ yếu nhất để
áp dụng biện pháp phòng ngừa.
Hai là, các yếu tố về mặt pháp lý: Cơ sở pháp lý thay đổi, đặc biệt là sự thay
đổi về pháp luật hình sự, đó là việc hình sự hóa các quan hệ dân sự hay dân sự hóa
các quan hệ hình sự sẽ ảnh hưởng đáng kể đến “đồ thị” diễn biến của THTP do nữ
thực hiện.
Nghiên cứu sự tác động của hai yếu tố này rất có ý nghĩa trong việc đánh
giá được hiệu quả của sự thay đổi chính sách hình sự, đồng thời làm rõ được
nguyên nhân điều kiện của sự tác động đến sự thay đổi của diễn biến THTP do nữ
thực hiện từ đó đưa ra các giải pháp góp phần phòng ngừa THTP do nữ thực hiện
trên địa bàn.
1.2.3. Cơ cấu của tình hình tội phạm do nữ thực hiện
“Cơ cấu của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tỷ
trọng và mối tương quan của các loại tội phạm khác nhau do nữ thực hiện trong số
lượng chung của chúng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời
gian nhất định” [28, tr.18].
Luận văn tập trung nghiên cứu những cơ cấu sau:
“Cơ cấu của THTP do nữ thực hiện theo tên chương của các tội phạm cụ thể
được quy định trong BLHS: Cơ cấu này được tính theo tỷ trọng giữa các tội của

9


từng chương (được quy định trong BLHS) đã xảy ra với tổng số các tội phạm do nữ
thực hiện đã xảy ra” [47, tr.146].
“Cơ cấu của THTP do nữ thực hiện theo tội danh cụ thể được quy định trong

BLHS: Loại cơ cấu này thường được áp dụng khi nghiên cứu về một nhóm tội nào
đó do nữ thực hiện, được tính bằng tỷ trọng giữa tội danh cụ thể do nữ thực hiện đã
xảy ra với tổng số tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra của một nhóm tội trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng trong một thời gian nhất định”[47, tr.154].
“Cơ cấu của THTP do nữ thực hiện theo hình thức phạm tội: Tội phạm do
nữ thực hiện có thể được thực hiện dưới hình thức đơn lẻ, đồng phạm hay tội phạm
có tổ chức. Loại cơ cấu này nhằm xác định tỷ lệ phần trăm của từng hình thức
phạm tội do nữ thực hiện đó chiếm bao nhiêu trong tổng số tội phạm do nữ thực
hiện đã xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” [47, tr.126].
Cơ cấu của THTP do nữ thực hiện theo địa bàn phạm tội là việc xác định tỉ lệ
tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra theo địa bàn hành chính (quận, huyện) đã xảy ra
so với tổng số tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó xác
định nguyên nhân điều kiện gắn với địa bàn cụ thể, trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp phù hợp với từng địa bàn.
“Cơ cấu của THTP do nữ thực hiện theo đặc điểm về nhân thân của người
phạm tội gồm: Cơ cấu tội phạm theo độ tuổi, theo nghề nghiệp... Cơ cấu theo đặc
điểm nhân thân là cơ sở để áp dụng các biện pháp phòng ngừa xã hội, kiểm soát xã
hội có hiệu quả trong phòng ngừa tội phạm” [47, tr.128].
“Cơ cấu của THTP do nữ thực hiện theo loại hình phạt áp dụng cho người
phạm tội: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù
chung thân, tử hình, Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt
tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình
phạt chính” [47, tr.157].
Chúng ta không chỉ nghiên cứu về mức độ của các cơ cấu mà còn phải xem
xét đến diễn biến của các cơ cấu trên cơ sở đó giúp chúng ta tìm ra chiều hướng vận

10



động của nó để nhận thức đầy đủ, đánh giá đúng tính chất của THTP do nữ thực
hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
1.2.4. Tính chất của tình hình tội phạm do nữ thực hiện
Tính chất của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thể
hiện ở số lượng của các tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội do nữ thực hiện, trong
cơ cấu của THTP do nữ thực hiện cũng như các đặc điểm nhân thân những người
nữ thực hiện tội phạm. Tính chất của THTP do nữ thực hiện được làm sáng tỏ thông
qua cơ cấu của nó. Tính chất của THTP do nữ thực hiện có thể được thể hiện qua
một số nội dung cụ thể, như:
“Thứ nhất, tính chất của THTP do nữ thực hiện là đặc điểm về chất thể hiện
ở tính nguy hiểm cho xã hội và xu thế tăng lên. Ví dụ: Tội cướp tài sản, tội cố ý gây
thương tích các đối tượng cũng trở nên manh động nên tính chất của tội phạm ngày
càng nguy hiểm hơn” [47, tr.126].
“Thứ hai, tổng số tội phạm do nữ thực hiện có xu hướng tăng lên. Ví dụ: Tội
phạm ma túy, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra liên tục, tăng cả về số vụ
và số người thực hiện hành vi phạm tội” [47, tr.134].
“Thứ ba, tội phạm do nữ thực hiện đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
chiếm tỷ lệ cao trong tổng số tội phạm và ngày càng tăng lên. Ví dụ: Tội trộm cắp
tài sản, cướp giật tài sản, cướp tài sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng số tội phạm
xảy ra và ngày càng gia tăng” [47, tr.142].
“Thứ tư, hậu quả thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần, sự bất ổn của xã hội
và xu thế tăng. Ví dụ: Tội phạm về tai nạn giao thông đường bộ, tội trộm cắp tài
sản gây thiệt hại rất lớn về tài sản, tính mạng của nhiều người và có xu hướng ngày
càng tăng” [47, tr.146].
“Thứ năm, đặc điểm nhân thân nhất định là người phạm tội như: Người
chưa thành niên là nữ, người có chức vụ, người có trình độ cao là nữ cũng phản
ánh tính chất nguy hiểm của THTP do nữ thực hiện. Ngoài ra tính chất nguy hiểm
của phương thức thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội, công cụ, phương tiện phạm
tội cũng phản ánh tính chất của THTP do nữ thực hiện” [47, tr.151].


11


Tóm lại, muốn đánh giá được tính chất của THTP do nữ thực hiện địa bàn
thành phố Đà Nẵng phải qua số liệu và qua phân tích thực trạng, diễn biến, cơ cấu.
1.3. Phần ẩn của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng
1.3.1. Khái niệm tội phạm ẩn của tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng
“Nghiên cứu về THTP nói chung và THTP do nữ thực hiện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng nói riêng không thể không đề cập đến vấn đề tội phạm ẩn (hay
phần ẩn của tội phạm). Bởi vì, THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng luôn là một thể thống nhất, được tạo thành bởi hai thành phần, đó là phần
ẩn và phần hiện của tội phạm. Vì vậy, để nhận thức về THTP do nữ thực hiện trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng thì vấn đề tội phạm ẩn không thể không được xem
xét” [28, tr. 28].
Là một bộ phận cấu thành của THTP, tội phạm ẩn hay THTP ẩn nói chung
và tội phạm ẩn do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tất yếu, khách
quan. Chúng ta có thể hiểu: Tội phạm ẩn của tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng là tổng thể các tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng nhưng chưa được phát hiện, xử lý hình sự và chưa có trong
thống kê của cơ quan chức năng.
Nếu tỷ lệ tội phạm ẩn do nữ thực hiện chiếm tỷ lệ cao trong tổng số tội phạm
do nữ thực hiện đã xảy ra, tổng quan về THTP do nữ thực hiện được phản ánh qua
tội phạm rõ là không trung thực, sai lệch về bản chất.
Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề về tội phạm ẩn của tội phạm do nữ
thực hiện, chúng ta đưa ra được những dự báo chính xác cũng như đặt ra các giải
pháp hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm do nữ thực hiện nói
chung và công tác phòng ngừa tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng nói riêng.


12


1.3.2. Phân loại tội phạm ẩn của tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng
1.3.2.1. Tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện
“Tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện là một thuật ngữ chỉ
khái niệm có nội dung bao hàm tất cả những tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra
trong thực tế, song do các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự không có
thông tin về những tội phạm này” [47, tr.156].
Theo quy định của BLTTHS, các cơ quan có quyền khới tố vụ án bao gồm:
Cơ quan điều tra các cấp, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra, viện kiểm sát nhân dân các cấp, tòa án nhân dân các cấp. Nguyên nhân dẫn
đến các cơ quan này không có thông tin về tội phạm gồm nhiều yếu tố khác nhau.
Thể hiện ở các phương diện sau: Sự kiện phạm tội, Chủ thể thực hiện hành vi phạm
tội, Người bị hành vi tội phạm xâm hại, Người biết về sự việc phạm tội. Cho nên
loại tội phạm này không chịu bất kỳ một sự tác động nào từ phía Nhà nước và rõ
ràng nó không thể có trong hồ sơ thống kê tội phạm.
Như vậy tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện đoạt trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng được hiểu như sau: Tội phạm ẩn khách quan của tội phạm
do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tổng thể các tội phạm do nữ
thực hiện đã xảy ra trên thực tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhưng các cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án chưa có thông tin về các tội phạm này.
1.3.2.2. Tội phạm ẩn chủ quan của tội phạm do nữ thực hiện
Tội phạm ẩn chủ quan nói chung và tội phạm ẩn chủ quan của tội phạm do
nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng, lý do ẩn xuất phát từ các
chủ thể mà pháp luật đã quy định cho nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội
phạm, kể từ khi phát hiện dấu hiệu của tội phạm hoặc tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm cho đến quá trình xét xử vụ án hình sự. “Các chủ thể này là các chủ thể

được Nhà nước trao quyền và có trách nhiệm trước Nhà nước trong việc giải quyết
vụ án hình sự, mỗi chủ thể có một phạm vi trách nhiệm riêng của mình, trong phạm
vi đó khi hành vi phạm tội đã xảy ra và chủ thể đã nắm được mà không xử lý theo

13


đúng quy định của pháp luật hình sự thì hành vi pham tội đó rõ ràng không phải là
tội phạm ẩn khách quan mà là tội phạm ẩn chủ quan” [47, tr.172].
Chúng ta có thể hiểu: Tội phạm ẩn chủ quan của tội phạm do nữ thực hiện
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là toàn bộ các tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng mà thông tin về tội phạm đã được các cơ quan có
thẩm quyền khởi tố vụ án nắm được, song vì các lý do khác nhau, các tội phạm đó
không bị phát hiện, xử lý.
1.3.2.3. Tội phạm ẩn thống kê của tội phạm do nữ thực hiện
Theo quan điểm giả việc nghiên cứu THTP do nữ thực hiện trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 và thiết kế các biện pháp phòng
ngừa phải dựa trên hệ thống số liệu thống kê đầy đủ, chính xác. Sự ghi nhận về số
vụ phạm tội và số người phạm tội không đầy đủ nghĩa là số liệu thống kê được tạo
ra không chính xác.
“Tội phạm ẩn thống kê nói chung và tội phạm ẩn thống kê của tội phạm do
nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng là khái niệm dùng để chỉ tội
phạm đã xảy ra trên thực tế và đã được phát hiện, xử lý nhưng vì lý do nào đó (không
phải do sai số thống kê) mà việc thống kê không đếm hết được số vụ phạm tội hay số
người phạm tội dẫn đến số liệu thống kê không chính xác về THTP do nữ thực hiện.
Đây là nguyên nhân dẫn đến các cơ quan khi dựa vào số liệu thống kê để nghiên cứu
và thiết kế các biện pháp phòng ngừa chưa đảm bảo độ tin cậy cao” [47, tr.156].
Như vậy, lý do tồn tại tội phạm ẩn thống kê của tội phạm do nữ thực hiện
nằm trong phạm vi công tác thống kê tội phạm, điều này nằm ở những quy định có
tính chất pháp lý đối với công tác thống kê tội phạm. Có thể nói, tội phạm ẩn thống

kê của tội phạm do nữ thực hiện có tồn tại hay không phụ thuộc vào khả năng của
công tác thống kê ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương, có đếm được hết và ghi chép
được hết số vụ tội phạm cũng như số người phạm tội đã được cơ quan có thẩm
quyền xử lý hay không. Điều đó có nghĩa là, tội phạm ẩn thống kê của tội phạm do
nữ thực hiện có thể tồn tại ở một địa phương này hay một địa phương khác, ở giai

14


đoạn này hay một giai đoạn khác (trong cùng một nước) còn số liệu thống kê thì
luôn có khả năng đúng.
1.3.3. Nguyên nhân tội phạm ẩn của tội phạm do nữ thực hiện trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng
1.3.3.1. Nguyên nhân tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện
Nguyên nhân ẩn của loại tội phạm ẩn khách quan nói chung và tội phạm ẩn
khách quan của tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng
rất đa dạng. Trên cơ sở của tình hình chính trị, kinh tế, pháp luật, xã hội cũng như
căn cứ vào những nghiên cứu thực tế, phần hiện của THTP do nữ thực hiện cho
thấy cần phải tìm kiếm và xem xét lý do ẩn của tội phạm ẩn khách quan từ các góc
độ: (1) Lý do ẩn bắt nguồn từ chủ thể của hành vi phạm tội; (2) Lý do ẩn xuất phát
từ phía người bị hại của hành vi phạm tội; (3) Lý do ẩn xuất phát từ những người
khác có biết về tội phạm hoặc có liên quan (nhân chứng, người có quyền lợi,
nguyên đơn dân sự).
- Tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện có lý do từ phía chủ
thể của hành vi phạm tội
“Về mặt tâm lý, những người phạm tội nói chung và đặc biệt là những người
phạm tội do nữ thực hiện với lỗi cố ý thường không mong muốn hành vi phạm tội
của mình bị phát hiện, xử lý. Vì thể, trong thực tế của THTP do nữ thực hiện luôn
luôn có xu hướng “tinh vi hóa” hành vi phạm tội, tận dụng mọi khả năng và điều
kiện có thể để che giấu tội phạm và tạo ra những cản trở để tránh sự phát giác và bị

phát hiện” [47, tr.180].
Theo tác giả, tội phạm do hai chủ thể này thực hiện sẽ có tỷ lệ ẩn cao nhất.
Thứ nhất, tội phạm ẩn khách quan có lý do xuất phát từ loại nhân thân người
phạm tội liên tục. Người phạm tội nếu thực hiện hành vi phạm tội lần đầu trót lọt,
đặc biệt là những tội phạm thu được lợi ích về kinh tế như người phạm tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản sẽ làm cho người phạm tội bắt đầu có niềm tin ở thủ đoạn đã áp
dụng và tiếp tục thực hành vi phạm tội tiếp theo. “Ngoài ra, việc thực hiện trót lọt
đã cũng cố niềm tin cho người phạm tội không bị phát hiện và xử lý nên việc thực

15


hiện tội phạm tiếp theo là gần như chắc chắn. So với việc thực hiện lần đầu thì lần
tiếp theo có khả năng sẽ hoàn hảo hơn cả về độ tinh vi về phương thức thủ đoạn lẫn
sự nguy hiểm cho xã hội. Thời gian ẩn của tội phạm do nữ thực hiện càng lớn thì
mức độ thiệt hại càng lớn” [47, tr.160].
Thứ hai, tội phạm ẩn khách quan do nữ thực hiện có nguyên nhân từ những
người phạm tội có đặc điểm nhân thân là tái phạm. Theo quy định của pháp luật thì
tái phạm là việc một người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa được xóa án tích mà
lại tiếp tục phạm tội. “Những người này có đặc điểm nhân thân tiêu cực và rất
thuận lợi cho sự phát sinh tội phạm. Sự tái phạm và tái phạm nguy hiểm chính là
chỉ báo rõ nét nhất về một loại hình nhân thân người phạm tội có khuynh hướng
chống đối xã hội bền vững” [47, tr.182].
Những người tái phạm thực hiện hành vi tội phạm tốt hơn, phương thức thủ
đoạn tinh vi hơn, hạn chế đến mức thấp nhất việc để lại dấu vết, khả năng đối phó
và cản trở việc phát hiện tội phạm nhiều hơn, nhất là những người phạm tội chuyên
nghiệp dẫn đến tội phạm ẩn cao hơn. Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tội phạm do
nữ thực hiện thường hành vi tái phạm ở rất nhiều loại tội phạm khác nhau, nhưng
tập trung ở một số nhóm hành vi như: Trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản...

- Tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện có lý do từ phía
nạn nhân
Tội phạm nào khi xảy ra cũng đều gây ra cho xã hội những hậu quả nguy
hiểm nhất định, hậu quả này có thể được thể hiện ở các dạng thiệt hại về thể chất,
tinh thần và vật chất. Các thiệt hại này có thể gây ra đối với cá nhân cơ quan hay tổ
chức. Do vậy, để làm rõ nguyên nhân ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện
xuất phát từ phía nạn nhân chúng ta cần nghiên cứu trên cả hai khía cạnh: Nạn nhân
là cá nhân; Nạn nhân là cơ quan, tổ chức.
Thứ nhất, tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện có nguyên
nhân từ phía nạn nhân là cá nhân. Thực tế có nhiều trường hợp nạn nhân không tố
giác tội phạm với cơ quan chức năng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình

16


trạng tội phạm ẩn nói chung và tội phạm ẩn của tội phạm do nữ thực hiện trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Những người này không tố giác tội phạm đến cơ
quan chức năng có thể xuất phát từ các lý do sau:
Một là, nạn nhân không dám tố giác. Thực tế THTP nói chung và THTP do
nữ thực hiện nói riêng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, có rất nhiều nguyên nhân
làm cho nạn nhân không dám tố giác người phạm tội trong đó chủ yếu đó là do nạn
nhân sợ bị trả thù như nạn nhân trong các vụ cưỡng đoạt tài sản.
Ngoài ra, có những trường hợp nạn nhân bị gây thiệt hại và có nguy cơ còn
tiếp tục tái diễn nhưng lại không dám tố giác, mặc dù họ mong muốn người phạm
tội phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. “Những nạn nhân này có thể bị đe
dọa hoặc chưa bị đe dọa nhưng họ nhận thức rằng nếu tố giác thì chính những
người phạm tội đó sẽ gây bất lợi, thiệt hại cho mình. Với những trường hợp này nạn
nhân có thể bị phụ thuộc vào các mối quan hệ như quan hệ nuôi dưỡng, quan hệ
phụ thuộc về kinh tế” [28, tr.26]... Chính điều đó đã trở thành một trong những
nguyên nhân gây ra trình trạng tội phạm ẩn của tội phạm do nữ thực hiện trên địa

bàn thành phố Đà Nẵng.
Hai là, nạn nhân muốn giữ kín sự kiện phạm tội. Đó có thể là sự che đậy về
tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do tài sản họ
có được bằng con đường không hợp pháp, che đậy cũng có thể là vì trước đó nạn
nhân hoặc chính người thân nạn nhân có hành vi vi phạm pháp luật là yếu tố tác
động để tội phạm xảy ra. Ví dụ: Có những gia đình bị mất trộm tài sản nhưng tài
sản đó lại có được bằng con đường bất hợp pháp như đánh bạc hay tài sản là hàng
nhập lậu, vì vậy nạn nhân không dám tố giác vì sợ ảnh hưởng đến bản thân.
Ba là, trường hợp nạn nhân ngại tiếp xúc với cơ quan chức năng. Nghiên cứu
tình tình tội phạm ẩn của tội phạm do nữ thực hiện ở địa bàn thành phố Đà Nẵng có
thể thấy, nhiều trường hợp sự kiện phạm tội xảy ra, nạn nhân lại không báo và
không tích cực hợp tác với cơ quan chức năng vì họ không muốn liên quan đến
pháp luật, do tâm lý e ngại khi đến các cơ quan công quyền, đó có thể do họ thấy

17


×