VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN QUỐC VŨ
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN QUỐC VŨ
CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Quốc Vũ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .......................................................................... 9
1.1. Các vấn đề lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội ................................... 9
1.2. Các vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.................................................................................................... 16
1.3. Kinh nghiệm quốc tế và một số nước về biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội............................................................................ 23
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC BIỆN PHÁP
TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................. 28
2.1. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các biện pháp
tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................................. 28
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Đà
Nẵng ................................................................................................................ 36
CHƯƠNG 3. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC BIỆN
PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ............................... 49
3.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các biện pháp
tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................................................. 49
3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................. 52
3.3. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật Hình sự
về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ...................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
LTHAHS:
Luật thi hành án hình sự
UBND:
Ủy ban nhân dân
XLVPHC:
Xử lý vi phạm hành chính
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
2.1:
So sánh áp dụng hình phạt của thành phố Đà Nẵng và
cả nước
Trang
38
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
2.1:
2.2:
Tên biểu đồ
Số người dưới 18 tuổi phạm tội từ 2012- 2016
Tình hình áp dụng một số chế tài pháp luật hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Đà Nẵng
Trang
37
37
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em là nhiệm vụ chung của toàn nhân loại, không
có sự phân biệt giữa các quốc gia có chế độ xã hội và bản sắc dân tộc khác
nhau. Với người Việt Nam, việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em không chỉ là
nhiệm vụ mà còn là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời của dân tộc. Quyền và
lợi ích trẻ em không chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trong
nước như Hiến pháp, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em.... mà còn
thể hiện ở những cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt
Nam là một trong những nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công ước về
quyền trẻ em của Liên hợp quốc.
Người dưới 18 tuổi hay còn được gọi là người chưa thành niên là những
người còn non nớt về thể chất và trí tuệ, nên việc nghiên cứu chính sách pháp
luật áp dụng khi họ có hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp
luật hình sự nói riêng là một việc làm cần thiết. Những kết quả nghiên cứu
này sẽ là cơ sở quan trọng của việc hoàn thiện pháp luật, từ đó đưa ra những
quy định phù hợp nhất đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vì chính những
quy định của pháp luật sẽ có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển toàn diện,
ổn định của người dưới 18 tuổi, chủ nhân tương lai của đất nước.
Bên cạnh đó, với đặc điểm non nớt của người dưới 18 tuổi nên đòi hỏi hệ
thống tư pháp áp dụng với dười 18 tuổi phải đảm bảo những yêu cầu khắt khe
trong khi áp dụng như vấn đề quy định của pháp luật phải phù hợp với hoàn
cảnh của người phạm tội, đặc điểm tâm lý của người phạm tội cũng như tính
chất của tội phạm, trong đó đặc biệt chú trọng đến hạnh phúc của người chưa
thành niên. Đây là những yêu cầu tối thiểu của tư pháp người dưới 18 tuổi thể
hiện trong các văn kiện quốc tế về tư pháp đối với người dưới 18 tuổi và quy
1
định của BLHS nước Việt Nam. Điều 69 BLHS quy định nguyên tắc xử lý
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện rõ mục đích của việc xử lý
đối với người dưới 18 tuổi, nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Nguyên tắc này đã
thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nước ta.
Xuất phát những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đó, các quy định áp dụng
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS nước ta
đều nhằm mục đích giáo dục, uốn nắn, răn đe những hành vi lệch lạc, làm cho
họ thấy được sai phạm của mình và tự giác sửa chữa với sự giúp đỡ của gia
đình, nhà trường và xã hội. Thể hiện điều này, về nguyên tắc xử lý người dưới
18 tuổi phạm tội sẽ ưu tiên áp dụng các quy định riêng quy định tại Chương X
- Những quy định đối với người chưa thành niên, đồng thời có thể áp dụng
những quy định khác trong phần chung của Bộ luật nếu không trái với những
quy định của chương này. Điều này có nghĩa là, trong trường hợp nếu thấy
không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi, Tòa án ưu
tiên áp dụng một trong các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 của BLHS
năm 1999.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật, biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội còn tồn tại một số điểm hạn chế như hiệu quả áp
dụng của biện pháp không cao, người bị áp dụng lẫn gia đình, cộng đồng nơi
người đó sinh sống thường có tâm lý được “tha bổng”, cơ chế phân công,
theo dõi không chặt chẽ, việc tái hòa nhập của người dưới 18 tuổi bị áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là khó khăn, phạm vi áp dụng còn hạn
chế, biện pháp lựa chọn còn ít…, chưa tương thích với các chuẩn mực quốc
tế. Xuất phát từ những điểm hạn chế trên cho thấy cần phải nâng cao hiệu quả
của các biện pháp tư pháp đang được quy định trong BLHS. Đồng thời, cần
nghiên cứu bổ sung thêm một số biện pháp tư pháp để tăng thêm sự lựa chọn
2
nhằm có những biện pháp áp dụng hiệu quả nhất đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của BLHS về
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc làm quan
trọng và mang tính cấp thiết, đây cũng chính là lý do tôi lựa chọn đề tài "Các
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật thình
sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng" làm luận văn Thạc sĩ Luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư pháp người dưới 18 tuổi đã được nghiên cứu ở những mức độ
khác nhau trong các công trình khoa học sau đây:
Các bài viết đăng trên Tạp chí và sách chuyên khảo:
1) TSKH - PGS. Lê Cảm và ThS. Đỗ Thị Phượng: Tư pháp hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, những khía cạnh tội phạm học - Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 22/2004;
2) TS. Phạm Hồng Hải: Các biện pháp tư pháp trong BLHS năm 1999 và
vấn đề hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục áp dụng các biện
pháp đó - Tạp chí Luật học, số 5/2000;
3) Long Hà: Xóa án tích và công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người
chưa thành niên phạm tội đã chấp hành xong hình phạt - Tạp chí khoa học xét
xử, số 3/2006;
4) TS. Phạm Mạnh Hùng: Bàn về trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam - Tạp chí Kiểm
sát năm 2007;
5) Chí Hiếu: Các biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm
tội Tạp chí khoa học xét xử, số 3/2006;
6) Đỗ Thị Phượng và Bùi Đức Lợi: Đề tài nghiên cứu cấp Trường Đại
3
học Quốc gia Hà Nội: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tư pháp hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội, Hà Nội năm 2005;
7) Minh Quân: Thực tiễn xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo là người
chưa thành niên - Tạp chí khoa học xét xử, số 3/2006;
8) Hồ Sỹ Sơn: Thi hành các biện pháp tư pháp không phải là hình phạt Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2004;
9) Trịnh Đình Thể: Áp dụng chính sách hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội - Nxb Tư pháp, Hà Nội 2006;
10) Nguyễn Tùng: Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên
phạm tội - Tạp chí khoa học xét xử, số 3/2006;
11) TS. Trần Quang Tiệp: Vai trò của gia đình trong việc thi hành các
hình phạt không tước tự do và các biện pháp tư pháp - Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 2/2004;
Đặc biệt trong những năm gần đây (2010 - 2015), ở các mức độ nghiên
cứu khác nhau về lĩnh vực tư pháp hình sự đã có các công trình, bài viết như:
1) Lưu Hoài Bảo, Một số giải pháp phòng chống tội phạm do người chưa
thành niên thực hiện, Tạp chí Kiểm sát, số 14/2014.
2) Nguyễn Lai Bình, Vai trò của Nhà trường trong phòng ngừa tội phạm
do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Điện Biên, Tạp chí Kiểm
sát, số 09/2012.
3) Hồng Phong Minh, Thành lập “Tòa Gia đình và người chưa thành
niên” một phương thức thực hiện nguyên tắc hiến định và đáp ứng yêu cầu
thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân số 09/2014.
4) Nguyễn Đức Mai, Các yêu cầu đặt ra đối với việc thành lập Tòa án
người chưa thành niên, Tạp chí Tòa án, số 16/2014.
5) Phạm Thị Thanh Nga, Thực thi Công ước Quyền trẻ em ở Việt Nam:
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự và chế tài đối với người chưa thành niên phạm
4
tội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 18 (274) T9/2014.
6) Lại Viết Quang, Nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện Kiểm sát
trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích do người chưa thành niên
gây ra, Tạp chí Kiểm sát, số 05/2015.
7) Lương Ngọc Trâm, Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án, số
19/2014.
8) ThS. Phạm Anh Tuyên, Các biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề,
tháng 8/2014.
Các luận văn thạc sĩ luật học:
1) Lưu Ngọc Cảnh: Luận văn thạc sĩ luật học: “Các hình phạt và biện
pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt
Nam (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)”, Khoa
Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010;
2) Lê Ngọc Duy: Luận văn Thạc sĩ luật học: “Miễn trách nhiệm hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam”, Khoa
Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012;
3) Nguyễn Thị Tố Nga: Luận văn Thạc sĩ luật học: “Các biện pháp tư
pháp đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của pháp luật
hình sự”, Khoa Luật - Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011;
Tuy nhiên, các nghiên cứu do phạm vi và mục đích của mình nên chưa
đi sâu về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi, thường là các bài
viết nghiên cứu trên các tạp chí. Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
thường chỉ là một phần trong toàn bộ nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của
người dưới 18 tuổi hoặc các chế tài áp dụng đối với người dưới 18 tuổi. Chính
vì vậy, các nghiên cứu về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi chỉ
5
dừng lại ở việc nghiên cứu các điều kiện áp dụng mà chưa có sự so sánh với
các chế tài khác, tìm hiểu về sự thay đổi trong quy định của pháp luật liên
quan đến biện pháp tư pháp. Đây chính là những vấn đề nghiên cứu còn bỏ
ngỏ mà luận văn này mong muốn góp phần giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như những nội
dung cơ bản của hệ thống biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở đánh giá thực tiễn áp dụng các biện
pháp này để kiến nghị việc hoàn thiện các quy định về biện pháp tư pháp đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận để làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ bản của
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, phân tích các nguyên
tắc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp
luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở đó có sự phân tích, đối chiếu với một số
biện pháp không tước tự do đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp
luật quốc tế.
- Đánh giá việc áp dụng các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi trong thực tiễn áp dụng pháp luật, phân tích những điểm
hạn chế của từng biện pháp tư pháp.
- Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác giả đưa ra đề
xuất việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm đạt được mục đích của việc xử lý tội
phạm.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp
tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Phần chung (Chương VI,
Chương X) của BLHS Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở các số liệu thực tiễn
giai đoạn 2012 - 2016 của các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Đà Nẵng
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa vào cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về pháp luật, về đấu tranh phòng chống tội phạm và trên cơ sở chính
sách hình sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm
các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu
khoa học pháp lý nói riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, hệ thống hóa pháp luật...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học về mặt lý luận và thực tiễn
của biện pháp tư pháp đối với ngưới dưới 18 tuổi phạm tội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn phân tích một cách cụ thể và toàn diện các quy định của pháp
luật hình sự về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Phân
7
tích, đánh giá đặc điểm của biện pháp tư pháp, đồng thời có sự so sánh, đối
chiếu với pháp luật quốc tế. Nghiên cứu, đưa ra các giải pháp kiến nghị việc
hoàn thiện các quy định đối với việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội bằng
biện pháp tư pháp, từ đó, tăng cường hiệu quả của công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và tội phạm lứa tuổi vị thành niên nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội và các
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Chương 2: Thực trạng và thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự
năm 1999 về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự và giải
pháp áp dụng đúng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi.
8
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
VÀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI
1.1. Các vấn đề lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Tại Điều 1, Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định: “Trong phạm
vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp
luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Như
vậy, khái niệm người dưới 18 tuổi được xác định khác nhau tùy vào điều kiện
của mỗi một quốc gia. Một cách khái quát nhất, người dưới 18 tuổi hay người
chưa thành niên được hiểu là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ
về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và
nghĩa vụ của công dân. Ở Việt Nam, độ tuổi của người dưới 18 tuổi đã được
xác định trong nhiều văn bản pháp luật. Các văn bản pháp luật này đều quy
định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và đồng thời đều có
những chế định pháp luật riêng áp dụng đối với người chưa thành niên theo
từng lĩnh vực. Cụ thể:
Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự để áp dụng các chế định liên
quan đến người dưới 18 tuổi, Điều 68 BLHS năm 1999 của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật
không trái với những quy định của Chương này” [44].
Điều 18 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là
người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Điều
9
161 Bộ luật Lao động năm 2012 cũng quy định: “Người lao động chưa thành
niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên, khi nói về khái niệm trẻ em,
Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ
em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Luật XLVPHC năm 2012 quy định
người chưa thành niên thuộc đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính bao gồm:
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành
chính nếu vi phạm hành chính do lỗi cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử
phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra [1,tr.21].
Như vậy, trên thực tế, hiện nay có rất nhiều các quy định khác nhau trong hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật, khi áp dụng tuổi được coi là người
chưa thành niên, trẻ em. Tuy nhiên, mỗi văn bản quy phạm pháp luật lại có
những phạm vi điều chỉnh riêng phù hợp với từng lĩnh vực của đời sống xã
hội. Có thể hiểu một cách khái quát về khái niệm người chưa thành niên như
sau: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện
về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
- Đặc điểm phát triển của người dưới 18 tuổi
Đặc điểm phát triển của người dưới 18 tuổi được thể hiện ở đặc điểm
phát triển về thể chất, tâm lý và nhân cách của người dưới 18 tuổi. Sự phát
triển này ảnh hưởng đến năng lực nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi cũng
như ảnh hưởng đến năng lực điều khiển hành vi theo những đòi hỏi của xã hội
của người dưới 18 tuổi. Ở những độ tuổi khác nhau, năng lực trên có mức độ
phát triển khác nhau. Khoa học đã chứng minh, con người sinh ra vốn đã có
cơ sở để phát triển ý thức, đó là bộ não người. Trong bản thân mỗi con người
phát triển bình thường, đã chứa đựng khuynh hướng hình thành và phát triển
khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của họ. Nhưng không
phải từ khi sinh ra con người đã có nhận thức toàn diện về tự nhiên, về xã hội
10
và về chính mình. Khả năng nhận thức được những đòi hỏi của xã hội không
tồn tại một cách bẩm sinh trong mỗi con người, mà là kết quả của quá trình
sống, quá trình hoạt động giao tiếp trong môi trường xã hội, với một khoảng
thời gian nhất định. Trong môi trường đó con người được hoạt động, được
giao tiếp, được giáo dục, được giao lưu với bạn bè, thầy cô, các thế hệ đi
trước, trên cơ sở tiếp thu những tri thức và những kinh nghiệm sống, năng lực
nhận thức được những đòi hỏi của xã hội mới dần được hình thành và phát
triển. Khi khả năng nhận thức những đòi hỏi của xã hội của con người đạt đến
một giới hạn nhất định, thì họ mới hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình
trong cuộc sống xã hội, mới thấy được những đòi hỏi của xã hội đối với chính
bản thân họ. Từ đó mới có thể đánh giá được ý nghĩa xã hội của hành vi mà
mình thực hiện.
Cho đến nay, trong các văn bản pháp luật hình sự của nước ta vẫn chưa
có một khái niệm chính thức nào về “người dưới 18 tuổi phạm tội”. Trong
Luật hình sự Việt Nam giai đoạn sau năm 1945 đến trước khi BLHS năm
1985 có hiệu lực, mới chỉ có định nghĩa về “người vị thành niên”, bên cạnh
đó là quy định về giới hạn tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó,“người vị
thành niên được hiểu là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi”.
Theo hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 46 - TH ngày 14/01/1969 củaToà
án nhân dân Tối cao và Báo cáo tổng kết 4 năm 1965 - 1968 của Toà án nhân
dân Tối cao đã xác định độ tuổi bắt đầu phải chịu trách nhiệm hình sự là từ 14
tuổi [16,tr.12-20]. Như vậy, có thể hiểu người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam trước khi BLHS 1985 có hiệu lực là
những người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
hình sự bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo các quy định
của pháp luật. Trong luật hình sự giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 có hiệu
lực tới trước khi BLHS năm 1999 có hiệu lực, mặc dù trong BLHS năm 1985
11
không có điều luật nào trực tiếp ghi nhận khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm
tội”. Tuy nhiên, thông qua một số quy định tại các điều luật, chẳng hạn như
Điều 58 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, Điều 64, 65 về quyết định hình phạt
tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi, có thể đưa ra khái niệm về người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Theo đó, người dưới 18 tuổi hay còn được gọi chưa thành niên phạm tội
là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được BLHS quy định là tội phạm. Người dưới 18 tuổi phạm tội thì bị xử lý
hình sự nhẹ hơn so với người đã thành niên. Trong BLHS năm 1999 đề cập
người dưới 18 tuổi dưới hai phương diện.
Một mặt, họ là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt bằng luật hình sự
khỏi những hành vi bị coi là tội phạm. Mặt khác, người dưới 18 tuổi là chủ
thể của tội phạm. Mặc dù trong BLHS năm 1999 không ghi nhận trực tiếp
khái niệm “người dưới 18 tuổi phạm tội”, nhưng khi đề cập đến thuật ngữ
này, Điều 68 BLHS 1999 đã đưa ra giới hạn độ tuổi của người chưa thành
niên phạm tội: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng
thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những
quy định của Chương này”. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 12 BLHS
năm 1999 quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Với góc độ nghiên cứu chuyên sâu GS.TSKH Lê Cảm và TS Đỗ Thị
Phượng đã đưa ra khái niệm đầy đủ và lập luận việc quy định trong luật hình
sự về người chưa thành niên phạm tội, cụ thể là: “Người chưa thành niên
phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm
12
hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và đã có lỗi
(cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm” [8, tr.9].
Gần đây, tham gia góp ý sửa đổi, bổ sung BLHS, các nhà nghiên cứu đã
đưa ra khái niệm ngắn gọn hơn: “Người chưa thành niên phạm tội là người ở
thời điểm thực hiện hành vi phạm tội đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi”.
Từ những quy định nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về người chưa thành
niên phạm tội theo những quy định của pháp luật hiện hành như sau: Người
chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực
trách nhiệm hình sự và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội được BLHS quy định là tội phạm.
1.1.2. Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc thứ nhất, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành công dân có ích cho xã hội.
Đây là nguyên tắc bao trùm, mang tính chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Mục đích của việc xử lý là giúp
cho họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích
cho xã hội. Đây cũng là quan điểm xử lý chung của Đảng và Nhà nước ta đối
với mọi chủ thể tội phạm, tuy nhiên, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì
quan điểm này càng được nhấn mạnh vì những đặc điểm đã phân tích ở trên
của người dưới 18 tuổi. Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các cán bộ khi tham gia
vào quá trình xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cũng phải đứng trên quan
điểm vì lợi ích tốt nhất đối với người dưới 18 tuổi, vì sự phát triển lành mạnh
của các em. Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với các quy định của Liên hợp
quốc về Quyền trẻ em, Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về tư pháp người dưới 18
tuổi.
13
Nguyên tắc thứ hai, người dưới 18 tuổi có thể được miễn trách nhiệm
hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây
hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ
chức nhận giám sát, giáo dục.
Nguyên tắc này cũng thể hiện quan điểm nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta. Với người dưới 18 tuổi do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh
thần nên ngoài những điều kiện chung để có thể xem xét, miễn trách nhiệm
hình sự, trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nhưng
gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (tức là có hai tình tiết giảm nhẹ
trở lên) và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục thì có
thể được miễn trách nhiệm hình sự. Quy định này đã mở rộng điều kiện để
người phạm tội có cơ hội sửa chữa những lỗi lầm của mình ngay trong cộng
đồng mà không cần cách ly họ. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội. Đồng thời, việc quy định nguyên
tắc cũng xuất phát từ chính lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi. Nguyên
tắc này được áp dụng trong thực tiễn sẽ hạn chế việc cách ly người dưới 18
tuổi khỏi cộng đồng, gia đình. Điều này sẽ mang lại tính phục hồi cao, giúp
người chưa thành phạm tội tránh được những mặc cảm tâm lý, có cơ hội sửa
chữa trong chính cộng đồng và sớm hòa nhập xã hội.
Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi
phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp
cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc
điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi xuất phát từ tinh thần lấy giáo dục, phòng
ngừa là chính nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi chỉ thực hiện trong trường hợp thật cần thiết và phải
căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, căn cứ mức độ nghiêm trọng của
14
hành vi phạm tội, nhân thân của người dưới 18 tuổi (người dưới 18 tuổi có
nhân thân tốt hay đã từng có tiền án, tiền sự) và yêu cầu của việc phòng ngừa
tội phạm (việc xử lý người dưới 18 tuổi có ý nghĩa như thế nào trong việc
phòng ngừa chung, trong việc ngăn ngừa người dưới 18 tuổi tiếp tục việc
phạm tội). Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội dựa trên những yếu tố này có một ý nghĩa quan trọng, giúp cho việc
xử lý tội phạm được đúng đắn và đảm bảo mục đích phòng ngừa, giáo dục
của việc áp dụng các chế tài hình sự. Đồng thời cũng thể hiện tinh thần của
pháp luật quốc tế trong việc hạn chế áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
Nguyên tắc thứ tư, ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng thay thế cho hình phạt trong
trường hợp không cần thiết.
Nguyên tắc này giữ vị trí chủ đạo trong việc lựa chọn biện pháp áp dụng
đối với người chưa thành niên phạm tội, hình phạt phải được coi là biện pháp
cần thiết cuối cùng trong việc lựa chọn chế tài xử lý. Hay nói một cách khác,
nếu phải đưa ra xét xử thì Tòa án cần cân nhắc khả năng áp dụng các biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng trước
khi quyết định áp dụng hình phạt đối với họ. Nguyên tắc này chính là sự cụ
thể hóa nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và bổ
sung, hoàn thiện cho nguyên tắc trước, đó là ưu tiên áp dụng biện pháp tư
pháp thay thế cho hình phạt trong trường hợp không cần thiết và trường hợp
cuối cùng mới áp dụng hình phạt.
Nguyên tắc thứ năm là không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
người dưới 18 tuổi, hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn,
Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án
áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng
15
hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi.
Nguyên tắc này thống nhất với các nguyên tắc trên, hình phạt tù chung
thân, tử hình là những hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt
của luật hình sự, do đó không thể áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội, họ là những người còn non nớt và hạn chế về thể chất và nhận thức. Việc
xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ nhằm mục đích giáo dục và cải tạo họ.
Đồng thời, quy định không áp dụng hình phạt tiền đối với độ tuổi đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi là phù hợp vì độ tuổi này chưa tham gia các quan hệ lao
động, các em không có thu nhập hoặc tài sản riêng.
Nguyên tắc thứ sáu, án đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi khi chưa đủ
16 tuổi, thì không để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Quy định này có ý nghĩa trong việc tạo cơ hội để người dưới 18 tuổi
phạm tội có điều kiện phấn đấu, sửa chữa sai lầm của họ. Việc không ghi
nhận án tích đối với hành vi phạm tội trước 16 tuổi của người dưới 18 tuổi
không tạo ra tâm lý nặng nề, mặc cảm về tội lỗi, tạo điều kiện để người dưới
18 tuổi phấn đấu, tu dưỡng, trở thành công dân có ích cho xã hội.
1.2. Các vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
1.2.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, chế tài hình sự có thể áp dụng đối
với người thực hiện hành vi trái pháp luật hình sự bao gồm hình phạt và các
biện pháp tư pháp.
Như vậy, bên cạnh hình phạt, các biện pháp tư pháp là một trong hai
biện pháp chế tài hình sự có thể được áp dụng đối với tội phạm nói chung và
người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng.
16
Một cách khái quát, các biện pháp tư pháp là những biện pháp hình sự
được quy định trong BLHS do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có
hành vi nguy hiểm cho xã hội có tác dụng bổ trợ hoặc thay thế hình phạt. Như
vậy, khác với hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội thì các
biện pháp tư pháp nói chung là một chế tài hình sự ít nghiêm khắc hơn, do
pháp luật hình sự quy định, được các cơ quan tư pháp hình sự tuỳ vào từng
trường hợp cụ thể sẽ áp dụng đối với người phạm tội.
Khác với biện pháp tư pháp hình sự biện pháp XLVPHC là biện pháp
được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã
hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Với góc độ nghiên cứu chuyên sâu, GS.TSKH Lê Cảm nêu khái niệm
bao hàm cả tính chất, vị trí, vai trò của biện pháp tư pháp trong hệ thống chế
tài hình sự, cụ thể là: Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế về hình sự
của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự quy định và
được cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai đoạn tố tụng
hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm hạn chế
quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt [11,
tr.679].
Từ khái niệm ở trên, có thể xác định khái niệm: Các biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là những chế tài hình sự của Nhà nước áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, có tính chất ít nghiêm khắc hơn
hình phạt, được các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng nhằm hỗ
trợ hay thay thế cho hình phạt Các biện pháp tư pháp áp dụng cho người dưới
18 tuổi phạm tội nói riêng có những dấu hiệu như sau:
17
Thứ nhất, các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
các biện pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt. Có
thể thấy rất rõ hình phạt được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của hình sự, bao gồm cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất;
tù có thời hạn; tù chung thân; và tử hình. So với hai biện pháp tư pháp có thể
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục tại xã, phường, thị
trấn và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, hình phạt thể hiện tính nghiêm
khắc hơn rất nhiều. Tính nghiêm khắc của hình phạt so với các biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn thể hiện ở việc, khi áp dụng các
biện pháp tư pháp nhằm thay thế, hỗ trợ cho việc áp dụng hình phạt, sẽ không
để lại án tích đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: Cùng với hình phạt, các biện pháp tư
pháp còn giúp cho việc xử lý tội phạm và người phạm tội được triệt để và
toàn diện hơn. Đặc biệt, điều này còn phản ánh việc áp dụng hình phạt với tư
cách là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do BLHS quy
định không phải là phương tiện, cách thức duy nhất trong cuộc đấu tranh
phòng ngừa, chống tội phạm, cải tạo, giáo dục người phạm tội.
Cũng theo TS. Trịnh Tiến Việt, nếu các biện pháp tư pháp chung có mục
đích hỗ trợ hay thay thế cho hình phạt, thì các biện pháp tư pháp riêng áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội lại có mục đích thay thế cho hình
phạt với ý nghĩa giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội và phòng ngừa
tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện [50, tr.33].
Thứ hai, các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có
tính chất thay thế, hỗ trợ cho hình phạt. Theo quy định tại khoản 4 Điều 69
BLHS 1999, khi xét thấy trong trường hợp không cần thiết phải áp dụng hình
phạt thì Toà án quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp để thay thế. Đây là
một đường lối xử lý mang tính nhân đạo, hoàn toàn phù hợp với mục đích đầu
18