Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.63 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ ĐỨC ANH

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ ĐỨC ANH

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn là những kiến


thức của bản thân tôi có được trong quá trình học tập, nghiên cứu tài liệu và thực
tiễn công tác dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn. Những nội dung của các
tác giả khác đã được trích dẫn, ghi chú theo đúng quy định. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

VŨ ĐỨC ANH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN..................................................... 6
1.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản ................................................................................................ 6
1.2. Cơ sở, nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.................. 11
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .................................. 18
1.4. Nội dung, biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản .............. 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ......................... 29
2.1. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................................................. 29
2.2. Thực trạng xây dựng và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình
tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................. 31
2.3. Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa
bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................................................. 43
Chương 3: TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ......................... 52
3.1. Dự báo tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk
.....................52

3.2. Tăng cường nhận thức mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản....................................................... 55
3.3. Tăng cường xây dựng và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội trộm cắp tài sản .................................................................................. 57
3.4. Tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ............................................. 64
3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất – kỹ thuật và kinh phí cho hoạt
động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.............................................. 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANQG

:

An ninh quốc gia

ANTT

:

An ninh trật tự

CAND

:

Công an nhân dân


TTATXH :

Trật tự an toàn xã hội

TTXH

:

Trật tự xã hội

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đắk Lắk - trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội khu vực Tây Nguyên, là
địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh, quốc phòng của cả nước nói
chung và khu vực Tây Nguyên nói riêng. Trong những năm qua, được sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước và sự quyết tâm của chính quyền địa phương, tình
hình kinh tế, văn hóa, xã hội tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều bước chuyển biến đáng
kể, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng giảm nông nghiệp, tăng dịch vụ và công
nghiệp; an sinh xã hội ngày càng được bảo đảm; trình độ dân trí, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những
thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội thì tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và các hiện tượng xã hội

tiêu cực khác đang diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Đáng chú ý, tình hình
tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tình hình tội phạm và diễn
biến hết sức phức tạp; các đối tượng phạm tội trộm cắp tài sản hoạt động
manh động, tinh vi, xảo quyệt gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà
nước, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và
TTATXH trên địa bàn tỉnh. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk, từ năm 2014 đến năm
2018, Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử tổng cộng 2.065 vụ án trộm cắp tài
sản, với 2.944 bị cáo, trung bình 413 vụ/năm và 588,8 bị cáo/năm,
chiếm
36,1% trong tổng số vụ phạm pháp hình sự xảy ra trên toàn tỉnh.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình tội trộm cắp tài sản, trong
những năm qua cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp tỉnh Đắk Lắk đã có nhiều
nỗ lực, áp dụng nhiều biện pháp để phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn và đã đạt được những kết quả quan trọng góp phần vào sự

1


nghiệp bảo đảm ANTT tại địa phương. Mặc dù vậy, thực tiễn phòng ngừa
tình hình tội trộm cắp tài sản của các cơ quan, ban ngành tỉnh Đắk Lắk vẫn

2


còn những hạn chế, bất cập nhất định, nhất là: Công tác nắm tình hình của
lực lượng chức năng chưa kịp thời; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
chưa được chú trọng đúng mức; các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm
cắp tài sản đã được triển khai nhưng hiệu quả đạt được chưa cao; việc phối
hợp giữa các cơ quan, ban ngành trong phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài

sản chưa kịp thời, chặt chẽ; công tác phát hiện, điều tra xử lý tội phạm này
còn nhiều hạn chế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để tìm ra
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tình hình tội trộm cắp tài sản
tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa nhằm từng
bước ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tình hình tội trộm cắp tài sản ra khỏi đời sống
xã hội là vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk
Lắk” làm luận văn thạc sĩ Luật học chuyên ngành Tội phạm học và Phòng
ngừa tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Dưới góc độ tội phạm học, phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng là vấn đề có tầm quan
trọng hàng đầu. Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp
tài sản. Trong số đó, có thể kể đến một số công trình khoa học sau:
- Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng
chống tội này ở Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật học.
- Nguyễn Mạnh Cường (2015), Nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở của công dân trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi của lực lượng Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội, luận
văn thạc sĩ Luật học.

3


- Bàn Văn Minh (2016), Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, luận văn thạc sĩ
Luật học.
- Hoàng Thị Hoa (2016), Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, luận văn thạc sĩ Luật học.
- Từ Vương Thông (2010), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
điều tra các vụ án trộm cắp tài sản xảy ra tại chỗ ở của công dân trên địa bàn
tỉnh Kon Tum, luận văn thạc sĩ Luật học.
Các công trình khoa học trên đây đã tập trung nghiên cứu, đánh giá
khái quát tình hình tội trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc tại một số
địa phương nhất định, từ đó rút ra các nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa
tình hình tội phạm này. Mặc dù vậy, liên quan đến phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk thì chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện với tư cách là một đề tài độc lập. Vì vậy, đề
tài luận văn có tính độc lập và không trùng lặp với các công trình khoa học đã
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, phân tích làm rõ nhận thức lý luận về phòng ngừa tình
hình tội trộm cắp tài sản và thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường phòng
ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản.

4


- Phân tích, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình
tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Luận văn được nghiên cứu, khảo sát trong khoảng
thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.
- Phạm vi không gian: Luận văn được nghiên cứu, khảo sát tại địa bàn
tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng
ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi chủ thể xem xét: Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa
tình hình tội trộm cắp tài sản là Các cơ quan, ban ngành của tỉnh Đắk Lắk.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phép biện chứng duy vật của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật Nhà nước trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống
tội phạm, bảo đảm TTATXH.
Quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương thống kê, so sánh;
phương pháp tổng kết thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương
pháp chuyên gia.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung
làm phong phú thêm lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được

nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và triển khai các hoạt động phòng
ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Bên cạnh đó,
luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên
cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật trên phạm vi cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp
tài sản.
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại
địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Phòng ngừa tình hình tội phạm là một trong những nội dung quan trọng
và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội phạm học. Nghiên cứu về
phòng ngừa tình hình tội phạm chính là nghiên cứu cơ sở, nền tảng và điểm
xuất phát để tiếp tục nghiên cứu những nội dung khác trong lý luận tội phạm
học. Cho nên, phòng ngừa tội phạm vừa là bộ phận cấu thành quan trọng của
tội phạm học, vừa là mục tiêu, chức năng cơ bản của tội phạm học. Hơn nữa,
suy cho cùng thì mục đích của ngành khoa học về tội phạm học chính là để

phòng ngừa tội phạm, để cho tội phạm không xảy ra, không gây ra các hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
Liên quan đến khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm, các nhà
nghiên cứu hiện nay có hai xu hướng chính: Xu hướng thứ nhất cho rằng
phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm cả hoạt động phòng và chống tội
phạm; xu hướng thứ hai cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm chỉ bao gồm
hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nhằm ngăn
ngừa không cho tội phạm xảy ra.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ
thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà
nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu, hạn chế) chúng và bằng cách đó làm
giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [53, tr.154].

7


Giáo trình Tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa:
“Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện
pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và
công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa
các nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm
tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã
hội” [48, tr.210].
Qua nghiên cứu, tham khảo các quan điểm lý luận về phòng ngừa tình
hình tội phạm, có thể hiểu: Phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động của
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân trong xã hội áp dụng
tổng hợp và đồng bộ các biện pháp chính trị, kinh tế, pháp luật, nghiệp vụ
chuyên ngành, hành chính, giáo dục… hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến

quá trình hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, từ đó từng bước hạn chế,
đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Tình hình tội trộm cắp tài sản là một thuộc tính của xã hội tái sản xuất
ra các hành vi nguy hiểm đối với con người, xã hội và Nhà nước, là một hiện
tượng pháp luật – xã hội, được thay đổi về mặt lịch sử, tiêu cực, phổ biến, bao
gồm tổng thể các tội phạm trộm cắp tài sản được thực hiện ở một không gian
và giai đoạn nhất định, được đặc trưng bởi các chỉ số về lượng và chất. Dưới
gốc độ tội phạm học, tình hình tội trộm cắp tài sản là một bộ phận cấu thành
của tình hình tội phạm, do đó phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản không
thể tách rời phòng ngừa tình hình tội phạm. Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp
tài sản là hoạt động mang tính hệ thống, đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan, ban ngành, đoàn thể. Chủ thể chính của hoạt động phòng
ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội và mọi công dân. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

8


được tiến hành dưới hai dạng, đó là phòng ngừa xã hội (hay còn gọi là phòng
ngừa chung) và phòng ngừa nghiệp vụ (hay còn gọi là phòng ngừa riêng).
Trong đó, phòng ngừa xã hội là hoạt động của tất cả các cơ quan, ban ngành,
đoàn thể và toàn xã hội với chức năng và nhiệm vụ của mình tiến hành các
hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn tình hình tội phạm; phòng ngừa nghiệp vụ
có thể hiểu là hoạt động của các cơ quan chuyên môn áp dụng các biện pháp,
phương tiện, chiến thuật nghiệp vụ vào hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn tình
hình tội phạm.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: “Phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản là hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và
mọi công dân áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp chính trị, kinh tế,
pháp luật, nghiệp vụ chuyên ngành, hành chính, giáo dục… nhằm hạn chế,

thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản, từ đó
ngăn chặn, hạn chế và tiến tới loại bỏ tình hình tội trộm cắp tài sản ra khỏi
đời sống xã hội”.
1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản nói riêng là hoạt động mang tính tất yếu, mang tính chiến
lược, lâu dài, hỗ trợ và tạo điều kiện cho các hoạt động đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Đây là hoạt động có mục đích và có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, cụ thể:
Thứ nhất, về mục đích:
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới” đã chỉ rõ: “Trong thời gian tới, công tác phòng, chống tội
phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm mới; tạo ra môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu
9


quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình
yên của nhân dân” [4, tr.3]. Từ nhận thức trên, có thể xác định mục đích của
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là nhằm hướng đến không để hình
thành và tồn tại các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm trộm cắp
tài sản, từ đó hạn chế, làm giảm, chặn đứng để không có sự gia tăng phát triển
và tiến tới xóa bỏ, thủ tiêu tình hình tội phạm trộm cắp tài sản ra khỏi đời
sống xã hội góp phần bảo đảm ANTT của đất nước. Cụ thể hóa mục đích
phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản bao gồm 2 mục đích chính sau:
- Phát hiện, hạn chế, tiến tới thủ tiêu các nguyên nhân, điều kiện của
tình hình tội trộm cắp tài sản, không để nảy sinh và phát triển loại tội phạm
này trong xã hội.

- Kịp thời ngăn chặn không để xảy ra các hành vi phạm tội trộm cắp tài
sản mới; tập trung quản lý, giáo dục đối với những người có điều kiện, khả
năng phạm tội trộm cắp tài sản và phòng ngừa tái phạm tội.
Thứ hai, về ý nghĩa:
Dưới góc độ tội phạm học, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện trên các khía cạnh sau:
- Ở khía cạnh xã hội, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản có ý
nghĩa chiến lược và nhân văn sâu sắc. Thực tế đã chứng minh rằng, nếu
không có các biện pháp phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản thích hợp
và có hiệu quả thì những người phạm tội trộm cắp tài sản hôm nay là “nguồn
bổ sung” tội phạm trưởng thành và có kinh nghiệm phạm tội trong tương lai.
Vì vậy, việc phát hiện, hạn chế và triệt tiêu các nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội trộm cắp tài sản không chỉ làm giảm tình hình tội trộm cắp tài
sản trong hiện tại mà còn giúp làm giảm tình hình tội phạm này trong tương
lai, đây là vấn đề mang tính chiến lược trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Bên cạnh đó, thông qua phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sẽ

10


hạn chế số người bị pháp luật trừng phạt, xã hội cách ly, đồng thời giúp nại
nhân và cộng đồng xã hội không phải gánh chịu các hậu quả do tội phạm trộm
cắp tài sản gây ra, đây là vấn đề mang tính nhân văn sâu sắc.
- Ở khía cạnh kinh tế, phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản mang
lại những hiệu quả kinh tế nhất định. Trước hết, phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản hiệu quả sẽ ngăn chặn những thiệt hại to lớn về kinh tế do tội
phạm này gây ra, kể cả những thiệt hại gián tiếp mà Nhà nước và xã hội phải
bỏ kinh phí để khắc phục hậu quả. Mặt khác, phòng ngừa tình hình tội trộm
cắp tài sản hiệu quả sẽ giúp nhà nước và xã hội không phải tốn kém nguồn
nhân lực và tài chính cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và tái hòa

nhập cộng đồng cho người phạm tội trộm cắp tài sản.
- Ở khía cạnh quản lý xã hội, thông qua phòng ngừa tình hình tội trộm
cắp tài sản, các cơ quan chức năng kiểm soát được tình hình tội trộm cắp tài
sản, góp phần bảo đảm ANTT, duy trì trật tự, kỹ cương của nhà nước. Từ đó,
tạo được niềm tin trong nhân dân và tạo thuận lợi cơ bản cho hoạt động quản
lý xã hội. Điều này còn kéo theo sự ủng hộ, phát huy tính tích cực, tự giác của
quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo ra hưởng
ứng của xã hội, của cộng đồng trong đấu tranh với những hành vi tiêu cực,
lệch chuẩn, vi phạm pháp luật.
- Ở khía cạnh chuyên môn nghiệp vụ, phòng ngừa tình hình tội trộm
cắp tài sản có hiệu quả sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động đấu
tranh chống tội phạm. Đặc biệt, trong lĩnh vực điều tra, khám phá tội phạm
trộm cắp tài sản, nếu làm tốt hoạt động phòng ngừa, huy động được sức mạnh
của toàn dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, quản lý chặt chẽ các
đối tượng sưu tra, làm tốt công tác xác minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án
sẽ là điều kiện thuận lợi phục vụ cho hoạt động điều tra, khám phá các vụ án
trộm cắp tài sản được tiến hành kịp thời, chính xác, hiệu quả.

11


1.2. Cơ sở, nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
1.2.1. Cơ sở phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
- Cơ sở chính trị:
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của Đảng. Trong suốt quá trình lịch sử, Đảng ta luôn đưa ra các quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo tạo cơ sở chính trị quan trọng cho hoạt động phòng
ngừa loại tội phạm này, cụ thể:
Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 của Ban Bí thư Trung ương

Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào Toàn dân
bảo vệ ANTQ trong tình hình mới” đã đặt ra nhiệm vụ: “Chú trọng, nâng cao
hiệu quả các biện pháp phòng ngừa xã hội, phòng ngừa tội phạm trong gia
đình, từ gia đình. Xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, có
hiệu quả trong nhân dân về phòng, chống tội phạm theo hướng tự quản, tự
phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải về an ninh trật tự từ cơ sở. Huy động sự tham
gia tích cực của toàn dân trong phòng ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, cải
tạo, giáo dục, cảm hóa người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư” [2,
tr.4].
Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới” nhấn mạnh mục tiêu: “Trong thời gian tới, công tác phòng,
chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm mới; tạo ra môi trường lành mạnh, phục vụ có
hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và
bình yên của nhân dân” [4, tr.5].
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã
xác định: “Sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, tổ chức - hành chính,
12


kinh tế - xã hội, pháp luật, nghiệp vụ, vũ trang, ngoại giao để phòng, chống
tội phạm. Kết hợp giữa phòng ngừa và đấu tranh trấn áp, lấy phòng ngừa làm
chính. Coi trọng hoạt động phòng ngừa xã hội, phòng ngừa tội phạm từ gia
đình và cơ sở. Huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và sức mạnh tổng
hợp của toàn xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm” [1, tr.6].
Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANTT trong tình hình mới”
đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động phòng, chống tội phạm: “Bảo đảm vai

trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phòng, chống
tội phạm, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể quần chúng, huy động mọi nguồn lực xã hội vào công tác
phòng, chống tội phạm... Các chỉ tiêu về phòng, chống tội phạm cần được coi
là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ
chức và cá nhân trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy
định của Đảng và Nhà nước về trách nhiệm phòng, chống tội phạm” [5, tr.5].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ 12 đã đặt ra
nhiệm vụ trong tâm trong công tác bảo đảm ANTT: “Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước;
bảo đảm ANQG, giữ gìn TTATXH” [18, tr.9].
- Cơ sở pháp lý:
Trên cơ sở chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm, Nhà nước ta đã cụ thể hóa thành các văn bản
pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm,
trong đó có phòng ngừa tình tội trộm cắp tài sản, cụ thể:

13


Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013. Trong toàn bộ
nội dung chương IV của Hiến pháp “Bảo vệ Tổ quốc” đã quy định những nội
dung liên quan đến bảo vệ Tổ quốc, trong đó có phòng ngừa tình hình tội
phạm. Điển hình là các quy định về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; lực lượng bảo
vệ Tổ quốc; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có những
điều luật quy định về nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự trong đó có nhiệm vụ

phòng ngừa tình hình tội phạm; trách nhiệm trong phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm; dấu hiệu pháp lý và hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản.
Chẳng hạn, điều 4, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
quy định trách nhiệm trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm: “(1) Cơ
quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan hữu
quan khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ
chức, cá nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám sát và giáo dục
người phạm tội tại cộng đồng.

(2)

Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục

những người thuộc quyền quản lý của mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ
và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa;
kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong
cơ quan, tổ chức của mình.

(3)

Mọi công dân có nghĩa vụ tích cực tham gia

phòng, chống tội phạm” [27, tr.3]. Những quy định trên là cơ sở pháp lý quan
trọng để các cơ quan, ban ngành triển khai các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội phạm, trong đó có phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng có những điều luật quy định
liên quan đến phòng ngừa tình hình tội phạm tạo cơ sở cho việc triển khai các
hoạt động phòng ngừa. Chẳng hạn: Điều 2 quy định nhiệm vụ của Bộ luật Tố


14


tụng hình sự trong đó có nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm; điều 5 quy
định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm; điều 6 quy định phát hiện và khắc phục nguyên nhân,
điều kiện phạm tội [28].
Luật CAND năm 2014 quy định một cách cụ thể chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của CAND; tổ chức của CAND; điều kiện hoạt động và chế độ
chính sách đối với CAND; trách nhiệm của các cơ quan, ban ngành đối với sự
nghiệp bảo đảm ANTT và xây dựng CAND. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
để lực lượng CAND, đơn vị chủ công, nòng cốt trong phòng ngừa tình hình
tội phạm tổ chức lực lượng, triển khai các phương tiện, biện pháp phòng ngừa
tình hình tội trộm cắp tài sản một cách có hiệu quả [30].
Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 cũng đưa ra các quy
định về phòng ngừa tình hình tội phạm, điển hình: Khoản 4, Điều 8, Luật Tổ
chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định: “Cơ quan điều tra có
nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ
chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa” [31, tr. 7]
Bên cạnh đó, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan, ban
ngành, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng ban hành các văn bản pháp
luật quy định về phòng ngừa tình hình tội phạm trong đó có phòng ngừa tình
hình tội trộm cắp tài sản.
Những văn bản pháp luật trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ
quan, ban ngành triển khai các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng.
1.2.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là hoạt động khó khăn, phức
tạp, lấy con người và các mối quan hệ xã hội của con người làm đối tượng tác
động, đồng thời hoạt động này có sự tham gia của các cấp, các ngành và của


15


toàn xã hội. Do đó, quá trình phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản phải
tuân thủ những nguyên tắc nhất định, bao gồm:
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý:
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản nhất định phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh
rằng, có Đảng lãnh đạo phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sẽ đi đúng
đường lối, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, có Đảnh lãnh
đạo mới xác định đúng đối tượng đấu tranh, biện pháp đấu tranh; đồng thời có
sự quản lý của Nhà nước thì hoạt động phòng ngừa mới đảm bảo thống nhất,
hiệu quả, tiết kiệm, tránh được sự chồng chéo.
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm
cắp tài sản phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng,
sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Đảng lãnh đạo hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm thông qua việc ban hành các chủ trương, đường lối, chính
sách chỉ đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm; tổ chức kiểm tra, giám
sát, kịp thời phát hiện, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong phòng ngừa
tình hình tội phạm; trực tiếp cử cấp ủy viên phụ trách hoạt động phòng ngừa
tình hình tội phạm. Nhà nước quản lý hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm thông qua xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, kế
hoạch, phương án phòng ngừa tình hình tội phạm và bảo đảm điều kiện cần
thiết cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm; ban hành và triển khai
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm;
kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và hợp tác quốc tế trong phòng
ngừa tình hình tội phạm…
- Nguyên tắc pháp chế:
Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản phải tuân thủ các quy định của pháp

16


luật là vấn đề mang tính nguyên tắc. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động phòng
ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản phải được thực hiện trên cơ sở pháp luật,
đó là hệ thống các quy định pháp luật về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài
sản được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau (Hiến pháp, Bộ luật
Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác).
Để nguyên tắc pháp chế được thực hiện trên thực tế, đòi hỏi phải có hệ
thống pháp luật về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản hoàn chỉnh,
thống nhất, toàn diện và được tuyên truyền phổ biến rộng rãi trong nhân dân
để người dân hiểu và làm theo đúng các quy định của pháp luật; đồng thời các
chủ thể phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản (nhất là các cơ quan bảo vệ
pháp luật) phải tuân thủ pháp luật nghiêm ngặt, không được lạm dụng pháp
luật để làm sai đường lối, chính sách của Đảng.
- Nguyên tắc dân chủ:
Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là hoạt động có tính chất
phức tạp và tính xã hội rộng rãi, điều này đòi hỏi sự tham gia tích cực và có
hiệu quả của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân, phải phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để đạt được vấn đề này đòi
hỏi phải phát huy tính tích cực, tự giác của các cơ quan, ban ngành và toàn thể
nhân dân trong phòng ngừa tình hình tội phạm, mỗi cơ quan ban ngành, mỗi
người dân phải được dân chủ bàn bạc, phát huy sáng kiến, sáng tạo trong
phòng ngừa tình hình tội phạm.
Để nguyên tắc này được đảm bảo thực hiện trong thực tế, đòi hỏi phải
có cơ chế hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào hoạt
động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. Đồng thời phải phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản về

ANTT; tăng cường tuyên truyền ý thức phòng, chống tội trộm cắp tài sản
trong toàn dân, tập huấn chuyên môn, kỹ năng cho các tổ chức tự quản.

17


- Nguyên tắc cụ thể:
Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản ở mỗi địa bàn, mỗi lĩnh vực
có nét đặc thù riêng, do đó, phải đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng của các biện
pháp, giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm sao cho khả thi và phù hợp với
điều kiện thực tế của mỗi địa phương, mỗi ngành. Để phát huy nguyên tắc cụ
thể trong phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, đòi hỏi ngoài chương
trình, kế hoạch chung của quốc gia, các địa phương, các ngành phải căn cứ
vào đặc điểm tình hình địa bàn, tình hình tội trộm cắp tài sản tại địa phương,
thực tiễn của đơn vị để xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình
hình tội trộm cắp tài sản riêng, gắn với nét đặc thù của địa phương, của ngành
đó. Từ đó triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch hiệu quả, khắc phục
tình trạng phòng ngừa tình hình tội phạm theo kiểu hình thức, phong trào,
kém hiệu quả.
- Nguyên tắc phối hợp giữa các chủ thể:
Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là trách nhiệm chung của toàn
xã hội, mặc dù vậy, mỗi lực lượng, mỗi ngành, mỗi cấp lại có chức năng,
nhiệm vụ khác nhau, nội dung, đối tượng phòng ngừa khác nhau. Do vậy, cần
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong phòng ngừa tình hình tội
trộm cắp tài sản, phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng, nhiều
biện pháp, phương tiện. Để nguyên tắc này phát huy hiệu quả, đòi hỏi phải
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng trong phòng gừa tình
hình tội trộm cắp tài sản; xây dựng quy chế phối hợp giữa các lực lượng một
cách cụ thể, rõ ràng. Đồng thời hoạt động phối hợp phải có sự chỉ đạo thống
nhất từ một cơ quan đầu mối chuyên trách, có như vậy mới ngăn ngừa tình

trạng đùn đẩy, cản trở hoặc trì hoãn quá trình phối hợp.
- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ:
Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản có sự tham gia của nhiều chủ
thể với nhiều phương tiện, biện pháp khác nhau, do đó đòi hỏi phải được tiến

18


hành một cách khoa học. Bên cạnh đó, các đối tượng thực hiện hành vi phạm
tội trộm cắp tài sản ngày càng tinh vi, xảo quyệt, luôn có ý thức che giấu tội
phạm và triệt để lợi dụng khoa học kỹ thuật để thực hiện hành vi phạm tội, do
đó hoạt động phòng ngừa đối với loại tội phạm này phải luôn được cải tiến.
Để hoạt động phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tuân thủ nguyên tắc
này đòi hỏi phải xây dựng các chương trình, kế hoạch phòng ngừa thống nhất;
nghiên cứu đưa ra các quy trình, phương pháp phòng ngừa tình hình tội trộm
cắp tài sản hiệu quả; áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào phòng ngừa
tội phạm; mua sắm các trang thiết bị hiện đại phục vụ phòng ngừa, điều tra
khám phá tội phạm trộm cắp tài sản.
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản
- Các tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ
tiến trình cách mạng Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Với tư cách là chủ thể ở vị trí lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm trong đó có phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, vai trò của các tổ
chức Đảng trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm là: Vạch các chủ
trương, đường lối cho phòng ngừa tình hình tội phạm thông qua các chỉ thị,
nghị quyết, chương trình hành động của Đảng; nghe báo cáo, cho chủ trương
về phòng ngừa tình hình tội phạm đối với các cơ quan, ban ngành; lãnh đạo
trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện đối với các cơ quan trực tiếp đấu tranh phòng,
chống tội phạm (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án); tổ chức kiểm tra, giám sát,

kịp thời phát hiện, uốn nắn nhằm khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong
phòng ngừa tình hình tội phạm.
- Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp:
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của cả nước và ở
từng địa phương, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là nơi thể hiện ý chí

19


của nhà nước và của nhân dân, vì vậy Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
có vai trò đặc biệt quan trọng trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong đó
có phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản. Vai trò của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp trong phòng ngừa tình hình tội phạm được thể hiện
trên các khía cạnh sau: Ban hành các đạo luật, các nghị quyết, các văn bản
pháp lý làm cơ sở và tạo điều kiện cho các cơ quan, ban ngành và mọi công
dân thực hiện tốt hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm; thành lập các ủy
ban, các tiểu ban giúp Quốc hội soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật để
quản lý xã hội, phòng ngừa tình hình tội phạm; giám sát chặt chẽ việc tuân
thủ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
- Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp:
Trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình
hình tội trộm cắp tài sản nói riêng, Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp là
cơ quan quản lý, tổ chức và điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều kiện cần
thiết cho hoạt động phòng ngừa, cụ thể: Cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quết của
Đảng bằng các văn bản có tính pháp quy hướng dẫn, tổ chức các chủ thể
phòng ngừa tình hình tội phạm; sử dụng các cơ quan chuyên trách trực thuộc
phạm vi quản lý (như Công an, Quân đội, thanh tra) để tiến hành hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm; phối hợp điều hành đồng bộ hoạt động giữa
các chủ thể khác nhau thuộc thẩm quyền quản lý nhằm hướng tập trung các

lực lượng này theo một kế hoạch thống nhất; đảm bảo về cơ sở vật chất (ngân
sách, phương tiện, điều kiện làm việc…) cho hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm; thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm của các cơ quan, ban ngành thuộc thẩm quyền quản lý; có các hình
thức, biện pháp nhằm động viên, khuyến khích, huy động sức mạnh của toàn
dân tham gia đấu trah phòng, chống tội phạm.

20


×