Nghiên cứu văn học dân gian từ góc độ type và motif –
Những khả thủ và bất cập
PGS.TS. Trần Thị An
Phòng văn học dân gian
Từ điển A-T hay là phương pháp biên soạn tư liệu về truyện dân gian theo type và motif
Một trường phái nghiên cứu folklore ảnh hưởng sâu rộng đến các nhà nghiên cứu văn học dân gian
trên thế giới là phương pháp địa lí - lịch sử (Historic- geographic Method) còn gọi là trường phái Phần Lan
(Finnish Method). Trường phái này được khởi xướng bởi các nhà nghiên cứu folklore Phần Lan là Julius
Leopold Fredrik Krohn (1835-1888), giáo sư văn học Phần Lan ở Đại học Tổng hợp Helsinki và con ông,
Kaarle Krohn (1863-1933), giáo sư ngành Folklore so sánh của trường Đại học Tổng hợp Helsinki, Chủ
tịch Hội Văn học Phần Lan. Phương pháp nghiên cứu này được tiếp tục bởi học trò của hai ông là Antti
Aarne (1867-1925)
(1)
. Các nhà nghiên cứu theo phương pháp trên đã tiến hành sưu tầm càng nhiều càng tốt
các dị bản truyện cổ tích, lập nên bảng tra rồi tiến hành so sánh để tìm ra bản cổ nhất, trên cơ sở đó mà xác
định được nơi phát tích của một truyện cổ và vạch ra con đường địa lí của sự lưu truyền truyện cổ ấy, giống
như “chúng ta có thể lần theo dấu vết con thú về hang ổ của nó”
(2)
. Stith Thompson (1885-1976), giáo sư
tiếng Anh của trường đại học Indiana, người có công thành lập Viện Folklore đầu tiên ở nước Mỹ thuộc
trường đại học Indiana vào năm 1942, là người có công mở rộng bảng tra type được lập nên bởi Antti
Aarne, xuất bản năm 1910.
Tính từ công trình được công bố lần đầu tiên, cuốn Danh mục các thể loại truyện cổ tích (Verzeichnis
der Märchentypen), 66 trang (đăng trên FF vào năm 1910), trong vòng 11 năm, từ năm 1910 đến năm 1920,
A. Aarne đã liên tục xuất bản 17 công trình
(3)
để vừa công bố các tập hợp dị bản cổ tích Phần Lan và cổ
tích châu Âu theo hệ thống cốt truyện mà ông xác lập, vừa công bố các chuyên luận nghiên cứu về cổ tích
so sánh. Với việc công bố một loạt công trình này, cùng với các đồng nghiệp của Hội các nhà folklore Phần
Lan, ông đã lập nên trường phái địa lý-lịch sử trong nghiên cứu cổ tích và trường phái này đã có ảnh hưởng
mạnh mẽ ra ngoài châu Âu. Chỉ 8 năm sau, S. Thompson đã công bố sự kế thừa và phát triển lí thuyết của
thầy mình trong cuốn The Type of the Folktale – A Classification and Bibliography, Antti Aarne's
Verzeichnis der Märchentypen (FF communications No.3) Translated and Enlarged by Stith Thompson
(4)
được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1928 tại Helsinki, dưới sự bảo trợ của Hội các nhà Folklore. Các lần
xuất bản sau là 1946, 1961, 1964, 1973, 1981 tại Hoa Kỳ. Công trình được biết đến với tên gọi tắt là Từ
điển A-T (do việc viết tắt họ của hai nhà khoa học Aarne và Thompson).
Quan điểm và đóng góp của S. Thompson cho phương pháp nghiên cứu này được thể hiện tập trung ở
ba công trình: 1) The Type of the Folktale – A Classification and Bibliography, 2) Motif- index of Folk-
Literature, A Classification of Narrative Elements in Folk- Tale, Ballads, Myths, Fables, Medieval,
Romances, Exempla, Local Legends
(5)
và 3) The Folktale
(6)
.
Qua ba công trình này, có thể thấy được những đóng góp của S. Thompson về việc nghiên cứu truyện
cổ tích, hơn nữa, còn có thể thấy sự phát triển quan điểm khoa học của ông, từ một nhà cổ tích học đến một
nhà tự sự học. Ở công trình thứ nhất, trong lời giới thiệu của lần xuất bản thứ 2 vào năm 1946, S.
Thompson nhận định rằng, bảng tra type truyện của A. Aarne chỉ mới bao quát được truyện cổ tích Bắc Âu
trong khi đó "truyện cổ tích của các nước đông nam Âu và truyện cổ tích châu Á trong đó có Ấn Độ chưa
có mặt ở đây, mặc dù rằng, đối với việc nghiên cứu so sánh truyện cổ tích, các dị bản của vùng Địa Trung
Hải, vùng Cận Đông và Ấn Độ luôn luôn là những tư liệu quan trọng hàng đầu” (The Type of the Folktale –
A Classification and Bibliography, tr.5). Ông cũng nói rõ là, "Tại cuộc hội thảo về việc nghiên cứu truyện
cổ tích tại Lund năm 1935, vấn đề tái bản Bảng tra type truyện cổ tích được đưa ra bàn bạc khá kỹ lưỡng"
và "trước khi kết thúc hội thảo, tôi đồng ý rằng, với sự giúp đỡ của các đồng nghiệp, tôi cần phải nhận trách
nhiệm tái bản bảng tra cứu này trong một thời hạn cho phép. Cùng với việc này, tôi mong muốn có một
công trình nghiên cứu đặc biệt về Ấn Độ để tạo nên sự cân bằng đông và tây trong nghiên cứu” (The Type
of the Folktale – A Classification and Bibliography, tr.6). Nhận định về tình hình tư liệu truyện cổ tích được
sưu tầm trên thế giới, S. Thompson viết: "Trong vòng 20 năm trở lại đây, rất nhiều truyện truyền miệng từ
nhiều nước khác nhau, bao gồm cả nam Âu và đông Âu, đều đã được sưu tầm, điều này làm nên sự cân
bằng đông tây, một điều mà thời của Aarne chưa có được. Những bảng tra cứu công phu ngày nay đã xuất
hiện ở Nga, Tây Ban Nha, Aixơlen, Litônia, Latvia, Thụy Điển, Đức, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Ấn Độ,
Tiệp Khắc, Hunggary, Rumania và châu Mỹ Latinh. Những bảng tra cứu này đều ra đời sau khi bảng tra
cứu đầu tiên được xuất bản; hiện tại có một số bảng tra cứu tương tự đang chờ xuất bản ở Hy Lạp, vùng nói
tiếng Pháp ở Canađa, Xcôtlen và Ailen. Cùng với các bộ sưu tập khác nhau, những năm qua đã chứng kiến
sự phát triển của các kho lưu trữ truyện cổ tích, một số trong đó có trữ lượng rất đáng kể. Tôi đã cố gắng
đến xem những kho lưu trữ đó trong khả năng có thể: tôi đã có một vài tuần ở hầu hết các nơi đó, chẳng hạn
như Quebec, Edinburgh, Dublin, Marburg, Copenhagen, Lund, Stockholm, Uppsala, Oslo, Helsinki,
Ljubljiana, Zagreb và Athen. Mục đích của tôi là xem thử bảng tra cứu tái bản năm 1928 đã sử dụng đến
mức nào các kho lưu trữ ở các nước đó. Đối với những truyện đã xuất hiện trong bộ sách tái bản đó thì tôi
kiểm tra lại thực trạng tư liệu và xem xét xem có cần phải thêm bớt hay thay đổi gì không”. Với tinh thần
làm việc không mệt mỏi, với khả năng bao quát tài liệu rộng rãi, S. Thompson cho rằng: “Bảng tra cứu này
thuần túy là bảng liệt kê thực tế truyện của từng vùng nhất định, từ đó, các nhà sưu tầm, các nhà nghiên cứu
đều có thể có cơ sở chung để tham khảo. Từ quan điểm lí thuyết thuần túy, rõ ràng có thể thấy những nhược
điểm của hệ thống này, nhưng xét trên thực tế, 50 năm kinh nghiệm làm việc chỉ ra rằng, những vùng mà
bảng tra cứu này “phủ sóng” được thì đều có thể tiến hành nghiên cứu rất hiệu quả”.
Ở công trình thứ hai, S. Thompson đặt vấn đề lập bảng tra cứu motif. Để nói về sự cần thiết phải tiến
hành biên soạn một bộ từ điển truyện dân gian không phải ở cấp độ cốt truyện (type) mà là ở cấp độ chi tiết
(motif) cấu thành cốt truyện, ông đã bắt đầu từ việc nhận định công trình type truyện của A. Aarne: “Bên
ngoài châu Âu, tuy nhiên, bảng tra cứu của A. Aarne lại tỏ ra không thật hữu ích. Ở những vùng xa xôi, nơi
mà việc nghiên cứu đòi hỏi chúng ta thì bảng tra type truyện châu Âu chỉ áp dụng cho một số ít trường hợp.
Đó là tình trạng chung trong văn học dân gian trên thế giới. Sự tương đồng ở cấp độ cả một câu chuyện
phức hợp hoàn chỉnh không thường xuyên bằng sự tương đồng ở cấp độ motif. Vì vậy, nếu một cố gắng có
thể làm giảm tư liệu truyện kể truyền thống của toàn thế giới xuống thành các trật tự (giống như việc các
nhà khoa học đã làm với các hiện tượng sinh học toàn thế giới) thì đó chắc chắn phải là bảng phân loại từng
motif đơn nhất - những motif được lẩy ra từ những câu chuyện đã được sáng tác hoàn chỉnh. Những thành
tố đơn giản này có thể lập thành một cơ sở chung cho sự sắp xếp hệ thống văn học truyền thống. Chỉ sau
khi lập nên những bảng phân loại như thế, thì mới có thể sử dụng các bộ sưu tập đã được in ấn và cả các tập
bản thảo” (Motif- index of Folk- Literature, tr.1).
Nhận ra rằng, “thực ra, đôi khi motif cũng tương đương như là các type truyện, bởi vì rất nhiều truyện
chỉ có một motif mà thôi”, Thompson đã hết sức chú ý đến motif và coi motif chính là đơn vị hạt nhân hình
thành nên truyền thống tự sự trong văn học dân gian và từ đó làm nên kinh nghiệm nền tảng cho nghệ thuật tự
sự trong văn học viết. Ông đã trình bày mục đích của công trình này như sau: “Mục đích của công trình
nghiên cứu này là sắp xếp những yếu tố làm nên văn học tự sự truyền thống trong một bảng phân loại logic
những motif đơn nhất. Những truyện kể này đã tạo nên từng phần của truyện kể truyền thống, dù là văn học
viết hay truyền miệng đều tìm thấy chỗ ở trong bảng phân loại này. Truyện cổ tích, thần thoại, ballad, truyện
ngụ ngôn, văn học lãng mạn trung đại, fabliaus, truyện cười, exemplum và truyền thuyết vùng đều được tập
trung vào đây mặc dù một số thể loại chỉ là những sưu tập lẻ tẻ. Nói chung, tôi sử dụng bất cứ truyện kể nào,
truyền miệng hay là văn học viết, miễn là chúng hình thành nên được một truyền thống có đủ sức mạnh để
lặp đi lặp lại trong các hình thức tự sự”. Và để đi đến mục đích đó, cách thức làm việc của S. Thompson là:
“Trong những tài liệu mà tôi chọn, tôi cố gắng để lẩy ra được hết những motif có ở trong đó. Vì vậy, trong khi
đọc, tôi đã cố gắng mở rộng lĩnh vực điều tra. Những công việc này giới thiệu cho độc giả một thế giới đầy
hứng thú về truyện kể dân gian và với một số lượng lớn các motif. Điều này rất có ích cho mục đích của tôi.
Việc khảo sát của các nhà nghiên cứu folklore từ việc đọc rộng rãi của họ đã đem lại một số lượng lớn các dị
bản truyện kể dân gian và nhờ vậy mà nới rộng phạm vi của việc phân loại”.
Ông đã lập nên được một bảng phân loại các motif trong 23 chương từ A đến Z như sau: A- Những
motif thần thoại, B- Loài vật, C- Cấm kị, D- Phép thuật, E- Cái chết, F- Điều kỳ diệu, G- Yêu tinh, H- Thử
thách, J- Khôn ngoan và ngốc nghếch, K- Lừa dối, L- Sự đảo ngược của vận mệnh, M- Việc phán truyền
tương lai, N- May rủi và số phận, P- Xã hội, Q- Thưởng và phạt, R- Bắt giữ và bỏ trốn, S- Sự độc ác trái tự
nhiên, T- Giới tính, U- Bản chất của đời sống, V- Tôn giáo, W- Tính cách nhân vật, X- Hài hước, Z- Nhóm
hỗn hợp các motif.
So sánh 23 chương phân loại này với 5 chương (Truyện loài vật, Truyện thường gặp, Truyện cười và
giai thoại, Truyện công thức, Truyện không phân loại được) trong bảng phân loại của công trình Type
truyện mà Thompson phát triển từ A. Aarne, có thể thấy rõ bước tiến của Thompson trong ý đồ tìm tòi
những quy luật của truyền thống tự sự của văn học thế giới được hình thành từ văn học dân gian.
Trong cuốn sách thứ ba, S. Thompson đã thể hiện sự phát triển mới trong nhận thức của mình khi
nghiên cứu truyện cổ tích. Ông không chỉ dừng lại nghiên cứu truyện cổ tích từ góc độ cấu trúc ngôn từ
(type, motif) mà đã hướng tới nghiên cứu nó từ góc độ nguyên tắc tổ chức văn bản (tự sự học) và, trong một
chừng mực nào đó, còn từ phương diện văn hóa học. Điểm cốt lõi trong ý tưởng khoa học của ông được
trình bày ở đây là: truyện cổ tích là một hình thức tự sự mang tính phổ quát trong xã hội loài người, nó thiết
lập cơ sở cho các hình thức tự sự trong các thể loại tự sự dân gian khác; nó đặt nền móng cho các hình thức
tự sự của văn học viết; nó mang tính tương đồng lớn trong các cộng đồng ở mọi châu lục [“Giới hạn của
cuộc sống con người và sự tương đồng của những hoàn cảnh sống đã sản sinh ra những truyện cổ tích ở
khắp mọi nơi và chúng giống nhau ở các chi tiết cấu trúc quan trọng. Chúng có một hình thức tương đối ổn
định, tương tự như sự ổn định của văn hóa loài người chẳng hạn như cái ấm, cái cuốc, cái cung, cái tên; và
một vài hình thức truyện kể này gần như là được chấp nhận rộng rãi” (The Folktale, tr.7)]; vì thế nó xứng
đáng được khảo cứu kỹ lưỡng. Ông viết: “Mục đích của cuốn sách này, trước hết là: 1) trình bày truyện cổ
tích như là một nghệ thuật quan trọng, cần cho mọi tộc người, chúng nằm dưới các hình thức tự sự văn học;
2) giúp độc giả làm quen với những truyện cổ tích nổi tiếng thế giới, không chỉ để thỏa mãn hứng thú của
họ đối với truyện cổ tích mà còn làm quen với các thành tố quan trọng của văn hóa; 3) trình bày tóm lược
mục đích của chuyên ngành nghiên cứu tự sự học và các phương pháp nghiên cứu mà chuyên ngành này sử
dụng” (The Folktale, tr.viii). Chính vì vậy, trong cuốn sách này, S. Thompson đã khảo các hình thức tự sự
truyền thống trong các thể loại từ truyện cổ tích (folktale, marchen, conte populaire) đến hình thức trung
gian giữa truyện dân gian và sáng tác văn xuôi trung đại châu Âu là novella, đến truyền thuyết (local
legend, sage, tradition populaire), loại truyện có mục đích giải thích (explanatory tale, Natursage,
pourquoi story), thần thoại (myth), truyện động vật (animal tales), ngụ ngôn (fable), truyện có yếu tố gây
cười (jet, humourous, anecdote, merry tale, schwank, thậm chí cả truyện có yếu tố tục obscenen tale).
Nghiên cứu sự vận động này, Thompson chỉ ra sự đan xen các thể loại, trong đó, truyện cổ tích đóng vai trò
là nhân vật trung tâm, và cuối cùng, theo sở trường của mình, ông vẫn quay về cốt truyện để nghiên cứu
chứ không phải là đặc trưng thể loại. Ông viết: “Chúng tôi sẽ không tìm ra những hình thức cứng nhắc như
các nhà lí thuyết thường làm bởi vì các loại truyện đan xen vào nhau một cách đáng ngạc nhiên. Truyện cổ
tích trở thành thần thoại, thành truyện động vật, hoặc có khi lại trở thành truyền thuyết. Bởi vì các câu
chuyện được lưu truyền từ nhiều thời đại khác nhau, từ nhiều nơi khác nhau, truyền từ thời cổ đại đến với
chúng ta ngày nay hay từ chúng ta lại trở về thời nguyên thủy và khi di chuyển, chúng thường thay đổi về
phong cách và mục đích. Và bởi vì cấu trúc cốt truyện (plot structure) của truyện kể bền vững hơn và ổn
định hơn là hình thức của chúng” (The Folktale, tr.10).
Như vậy, qua ba công trình trên, có thể nhận thấy sự phát triển dần dần quan điểm học thuật của S.
Thompson, người đã từ việc phân tích cấu trúc văn bản (type và motif) đi đến việc phân tích nguyên tắc tổ
chức văn bản (các hình thức tự sự) và cuối cùng là việc đặt văn bản đó trong các mối tương quan nội tại
(các thể loại tự sự dân gian), ngoại vi (tự sự dân gian và tự sự trong văn học viết) và các mối quan hệ hữu
quan giữa yếu tố và chỉnh thể (truyện cổ tích như là một thành tố của văn hóa). Con đường đi của ông, tự
bản thân nó, đã chỉ ra sự khả thủ và bất cập của lí thuyết về type và motif với tư cách là một phương pháp
nghiên cứu truyện dân gian.
Sự ứng dụng phương pháp type và motif trong việc biên soạn các bảng tra cứu văn học dân gian
và nghiên cứu văn học dân gian
Bảng tra cứu của Thompson đã dấy lên một phong trào nghiên cứu truyện dân gian theo type và motif
ở trường Indiana. Cuối những năm 1940 và những năm 1950, một loạt luận án tiến sĩ triển khai hướng
nghiên cứu này được bảo vệ ở trường Indiana: William Hugh Jansen với luận án về người kể chuyện ở
vùng Indiana có tên là Abraham Smith, John Mason Brewer với luận án về những câu chuyện về nhà truyền
đạo của người da đen ở Texas, Marie Campbell với luận án về truyện cổ tích châu Âu mà cô sưu tầm được
từ những người kể chuyện ở vùng đông Kentucky, Herbert Halpert với luận án về truyện cổ tích và truyền
thuyết vùng New Jersey, Warren Roberts với luận án Truyện cổ về những cô gái tốt bụng và xấu tính…
Chính bản thân Thompson cũng đã ứng dụng phương pháp này để thực hiện một nghiên cứu cụ thể, một
chuyên khảo công phu về truyện cổ tích về người chồng là ngôi sao (The Star Husband Tale) của vùng Bắc
Mỹ (1953). Những ứng dụng này cho thấy sự cắm rễ của một phương pháp nghiên cứu của châu Âu vào
thực tế folklore Hoa Kỳ.
Ngoài những luận án và chuyên khảo kể trên, trường phái Phần Lan còn thu hút sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu văn học dân gian Hoa Kỳ trong việc thể nghiệm sự nghiên cứu của mình. Một đặc điểm dễ nhận
thấy của “sắc thái” Hoa Kỳ trong khi ứng dụng trường phái này vào nghiên cứu văn học dân gian là sự kết
hợp nhuần nhuyễn với nhân học. Chúng ta biết rằng, Hội Folklore Hoa Kỳ (American Folklore Society)
được thành lập năm 1888, cơ quan ngôn luận của nó là Tạp chí Folklore Hoa Kỳ (Journal of American
Folklore) được ra đời sau đó một năm, năm 1889. Trong những năm đầu hoạt động, định hướng của Hội
chịu ảnh hưởng của vị Chủ tịch Hội đầu tiên là Francis James Child (1825-1896), giáo sư trường đại học
Harvard, một nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến ngữ văn dân gian. Tuy nhiên, định hướng này thay đổi
nhiều khi vị trí Tổng biên tập tờ Tạp chí Folklore Hoa Kỳ được Franz Boas (1858-1942), chủ tịch Hội Nhân
học Hoa Kỳ (American Anthropological Association, thành lập năm 1902), đảm nhiệm trong 16 năm liền
(từ 1908 đến 1924), và sau đó, vai trò này được kế tiếp bởi học trò xuất sắc của ông là Ruth Benedict (1887-
1948) từ 1925 đến 1939. Tuy nhiên, song song với sự lãnh đạo của các nhà nhân học đối với tờ Tạp chí
Folklore Hoa Kỳ thì từ giữa những năm 1920 đến những năm 1930, vị trí chủ tịch Hội Folklore Hoa Kỳ
chuyển sang cho Stith Thompson (1885-1976), giáo sư tiếng Anh của trường đại học Indiana, là học trò của
George Lyman Kittredge ở trường Harvard (đã nói ở trên), một người có hứng thú nghiên cứu văn học dân
gian trên các văn bản đã sưu tầm và công bố.
Một sự điểm qua sơ lược như vậy cho thấy quá trình phát triển của ngành folklore học Hoa Kỳ là sự
kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp nghiên cứu văn học dân gian truyền thống của châu Âu là việc nghiên
cứu dựa trên văn bản (di sản văn học dân gian của người châu Âu di cư) với việc nghiên cứu vốn văn học
dân gian còn tồn tại trong môi trường diễn xướng (của người da đỏ bản địa) theo cách làm của các nhà nhân
học. Các công trình về truyện kể dân gian của người da đỏ Bắc Mỹ của S. Thompson (1929), truyện kể của
người vùng nam Appalachian của Richard Chase (1943), truyện kể dân gian có màu sắc kinh dị của Maria
Leach (1959, 1974), truyện kể của người da đen châu Phi của Roger D. Abrahams (1963), truyện kể của
người theo Do Thái giáo của Dan Ben-Amos & Jerome R. Mintz (1970), truyện kể dân gian của những
người sống ở vùng bán đảo (Florida) của Richard M. Dorson (1976), bảng tra type và motif của các truyện
kể về các kho báu và các mỏ vàng biến mất của người Arizonna của Byrd Howell Granger (1977), truyện
kể của người Hoosier, một tộc người bản địa ở bang Indiana (Hoa Kỳ) của Ronald L. Baker (1982) hay
bảng tra type và motif truyện kể dân gian người Mỹ ở giai đoạn sơ kỳ của J. Michael Stitt và Robert K
Dodge (1991)… là những ví dụ minh chứng cho sự kết hợp nhuần nhuyễn phương pháp địa lý – lịch sử
Phần Lan và phương pháp nhân học trong nghiên cứu truyện kể dân gian Hoa Kỳ.
Không chỉ trong phạm vi Hoa Kỳ, việc vận dụng lí thuyết type và motif để nghiên cứu truyện dân gian
được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới suốt nửa cuối thế kỷ XX. Chỉ điểm sơ lược một số công trình của
các châu lục cũng đủ thấy trường phái này đã có ảnh hưởng sâu rộng đến mức nào. Theo thống kê chưa đầy
đủ của chúng tôi, hầu hết các châu lục đều có một vài nước làm những bộ sách tra cứu truyện dân gian theo
lí thuyết type và motif. Các nước châu Á như Ả Rập, Úc, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mông
Cổ; các nước thuộc châu Âu như Latvia, Bulgari, Đức, Anh, Ai len, Ai-xơ-len, Hy Lạp, Na Uy, Thụy Điển,
Phần Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha; các nước thuộc châu Mỹ như Canada, Hoa Kỳ; các vùng Tây Phi,
Nam Phi… đều có các công trình nghiên cứu truyện dân gian ứng dụng phương pháp Phần Lan. Điều này
cho thấy phổ ảnh hưởng rộng của phương pháp nghiên cứu mà các nhà folklore học Phần Lan đề xướng
cách đây một thế kỷ.
Nói về công lao của các nhà nghiên cứu Phần Lan, sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nói về hoạt động
của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn học Phần Lan (Academia Scientiarum Fennica - Finnish Academy of
Science and Letters) được sáng lập năm 1910. Viện Hàn lâm khoa học này đã tổ chức và tài trợ cho ấn phẩm
Thông báo của các nhà nghiên cứu folklore (Folklore Fellows’ Communication, gọi tắt là FFC) là một seri
chuyên khảo về văn học dân gian, so sánh tôn giáo, nhân học văn hóa và dân tộc học được xuất bản tại
Helsinki với địa chỉ Suomalainen Tiedeakatemia xuất hiện trên bìa các ấn phẩm đã trở nên quen thuộc với các
nhà nghiên cứu folklore trên thế giới. Các chuyên khảo của ấn phẩm này được định hướng nghiên cứu khía
cạnh phi vật thể (non-material aspects) của văn hóa truyền thống, đặc biệt là văn học dân gian, hệ thống tín
ngưỡng, huyền thoại và nghi lễ, phương pháp luận và lịch sử. Trong suốt gần 100 năm hoạt động, Thông báo
đã cho công bố 291 chuyên khảo (tính đến năm 2006), trong số đó, có mặt hầu hết những công trình nghiên
cứu văn học dân gian theo lí thuyết type và motif mà chúng tôi đã nhắc tới ở trên.
Về đại thể, các công trình ứng dụng lí thuyết type và motif đều được ứng dụng để nghiên cứu truyện
cổ tích (112/291). Điều này có cơ sở từ nguồn gốc: các công trình đặt nền móng cho lí thuyết này (17 công
trình chúng tôi liệt kê ở chú thích) của Antti Aarne, trong một chừng mực nào đó, đã mang tính hướng đạo
cho một diễn đàn. Tuy vậy, bên cạnh việc nghiên cứu truyện cổ tích theo lí thuyết type và motif, các nhà
nghiên cứu công bố chuyên luận của mình ở Thông báo này còn hướng tới nhiều thể loại khác như: huyền
thoại:13; sử thi: 16; tục ngữ: 13; câu đố: 3; truyền thuyết: 18… Có lẽ các nhà sáng lập trường phái địa lý-
lịch sử Phần Lan cũng không ngờ lí thuyết do mình đề xướng lại nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt và
gợi mở nhiều hướng nghiên cứu folklore đến thế.
Nhận định về giá trị của lí thuyết này, khi viết về cuốn Bảng tra type truyện dân gian Bulgari (Index of
Bulgarian Folktales), Ulrika Wolf- Knuts, giảng viên trường Đại học Åbo Akademi (Phần Lan) đã viết:
“Bảng tra type tựa như một tấm bản đồ, chỉ ra lối đi nhanh chóng để có cái nhìn tổng quát về một vùng
miền đặc biệt, một dân tộc hay một vùng nhỏ hẹp nào đó. Ở nhiều phương diện, bảng tra type là một thư
mục đối với nhà nghiên cứu folklore hay là một cơ sở dữ liệu (data base) đối với sinh viên những ngành
khoa học khác… Không có bảng tra type, nhà nghiên cứu folklore trên văn bản rất dễ rơi vào tình trạng