Cảnh thu trong thơ Trung đại Việt Nam
PGS.TS. Nguyễn Huy Quát; Chu Thị Thúy Hằng
Khoa Ngữ văn, ĐHSP Thái Nguyên
Có thể nói, Cảnh thu là một trong những hình ảnh thiên nhiên nổi bật của bức tranh bốn
mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông trong thơ trung đại Việt Nam. Thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm
hứng, vừa là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân, theo lẽ “tức cảnh sinh tình”, “tả cảnh ngụ
tình”. Cảnh thu trong thơ trung đại có khi được miêu tả qua một số câu thơ trong bài tứ tuyệt, bát
cú Đường luật… hoặc ở rải rác trong truyện thơ Nôm, nhưng cũng có khi cả bài thơ hướng về
một đề tài “vịnh thu” (tả cảnh mùa thu) hoàn chỉnh…
Nói về đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt Nam cũng có nghĩa là tìm hiểu quá trình phát
triển của nó qua nhiều thế kỷ, nhất là từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Nguyễn Du, và đặc
biệt là Nguyễn Khuyến. Bởi vì, ban đầu các nhà thơ Việt Nam “vịnh thu” cũng giống như tả cảnh
mùa xuân, mùa hạ, mùa đông- thường thiên về sử dụng những hình ảnh có sẵn trong nguồn thơ
Đường (Trung Quốc) và mang tính ước lệ, tượng trưng. Nhưng qua một thời gian dài, đề tài này đã
đạt đến độ chín, vừa dễ hiểu, trong sáng, vừa gần gũi với thực tế thiên nhiên mùa thu Việt Nam.
1. Đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt Nam trước thế kỷ XIX
Trong mối quan hệ ảnh hưởng của văn học trung đại Trung Quốc đối với văn học trung đại
nước ta, thì thơ “vịnh thu” Việt Nam cũng có sự ảnh hưởng và học hỏi thơ Đường - một trong
những đỉnh cao của thơ ca nhân loại - cũng là điều tất nhiên. Cảnh thu có trong thơ Trung Quốc,
được thể hiện qua hình ảnh: lá đỏ, rừng phong, tuyết đưa hơi lạnh, chày đập vải, cây ngô đồng...
đã “du nhập” vào thơ thu Việt Nam, ở cả chữ Hán và chữ Nôm.
Bắt nguồn cảm hứng từ một đêm thu đất nước, trong bài “Thu dạ dữ Hoàng giang Nguyễn
Nhược thuỷ đồng phú” (Đêm thu cùng ngâm với Hoàng giang Nguyễn Nhược-thuỷ), Nguyễn Trãi
viết:
Hồng diệp đôi đình trúc ủng môn,
Mãn giai minh nguyệt quá hoàng hôn.
Cửu tiêu thanh lộ tam canh thấp,
Tứ bích hàn cùng triệt dạ huyên.
Thiên lại ngữ thu kinh thảo mộc,
Ngọc thằng đê Hán chuyển càn khôn...
(Lá đỏ chồng ở sân, trúc ôm lấy cửa,
Đầy thềm trăng sáng quá lúc chạng vạng rồi.
Móc trong chín tầng mây thấm ướt ba canh,
Dế lạnh ở bốn vách kêu ran suốt đêm.
Tiếng sáo trời báo tin thu khiến cây cỏ kinh động,
Sao Ngọc thằng xuống thấp ở Ngân hà, càn khôn
chuyển vần...)
(1)
.
Lá đỏ (hồng diệp) trong câu thơ trên là lá cây phong, thường có ở Trung Quốc, vào giữa tiết
thu nên ngả dần thành mầu đỏ tía. Còn trúc ôm lấy cửa, đầy thềm trăng sáng, khí thu lạnh nên
“móc… thấm ướt ba canh” là những nét hiện thực thường thấy vào dịp cuối thu ở vùng rừng núi
miền Bắc nước ta. Tiếng dế kêu, tiếng sáo trời, càn khôn chuyển vần là những âm thanh mùa thu
có phần yên ả hơn, sau những tháng xáo động mạnh mẽ của sấm sét, mây mưa mùa hè. Và
những âm thanh ấy được gợi lên từ cảm quan tinh tế, hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân sinh của một
nhà thơ lớn. Chất liệu tạo nên cảnh thu ở đây phần lớn vẫn được lấy từ cảnh vật và thời tiết Việt
Nam, nhưng ngay ở câu đầu, chữ đầu của bài thơ vẫn mang tính ước lệ, tượng trưng, vay mượn
cảnh thu trong thơ Trung Quốc.
Vẫn chưa thoát khỏi công thức, ước lệ, tượng trưng, trong bài Thôn xá thu châm (Tiếng châm
mùa thu ở thôn xóm) của Nguyễn Trãi, hình ảnh chính vẫn là hòn đá (châm) để đập vải và giặt,
với tiếng chày nện thình thình và nỗi buồn biệt ly của người chinh phụ có chồng ngoài quan ải xa
xôi. Là vùng thôn dã đang độ thu về mà cảnh thiên nhiên mùa thu chỉ được biết qua vài nét chung
chung như khắp sông đâu đấy… Và người chinh phụ oán vì nỗi biệt ly tình, chẳng rõ ở thời nào,
nơi nào? Bài này chỉ có 4 câu, được dịch thành thơ như sau:
Khắp sông đâu đấy nện thình thình,
Đất khách trăng khuya bỗng giật mình.
Quan ải mịt mù chinh phụ oán,
Tiếng thu thảy gửi biệt ly tình.
Đến Hồng Đức quốc âm thi tập gồm 328 bài thơ Nôm, ra đời cuối thế kỷ XV, khi văn học dân
tộc được viết bằng chữ Nôm đã phát triển khá mạnh, thế mà thơ tả cảnh thu (trong mục Thiên địa
môn) cũng chưa thực sự gắn với sắc màu cụ thể của thiên nhiên Việt Nam, vẫn còn chung chung,
mơ hồ như là tả cảnh vật ở đâu đó. Chẳng hạn như bài thơ sau đây:
Lác đác ngô đồng mấy lá bay,
Tin thu hiu hắt lọt hơi may.
Ngàn kia cách nước so le địch,
Mái nọ bên đường đủng đỉnh chày.
Lau chổng bãi Nam ngàn dặm rợp,
Nhạn về ải Bắc mấy hàng bay.
Quí Ưng, Tống Ngọc dường bao nữa,
Khi ấy nhiều người cám cảnh thay.
Là người Việt Nam, làm thơ tả cảnh thu tại quê hương mình, được viết bằng tiếng dân tộc
mình thì không ít những hình ảnh cụ thể mang mầu sắc Việt Nam có thể dùng, thế mà cứ phải
lặp lại những “mô típ” người nước ngoài và nhiều người trong nước đã viết, đến sáo mòn như lá
ngô đồng, đủng đỉnh chày, nhạn về ải Bắc, Quý Ưng, Tống Ngọc từ đời nào bên Trung Quốc!
Phải chăng trong một thời gian dài, cách dạy và học theo lối giáo điều, khuôn sáo của nhà
trường phong kiến đã hạn chế sự linh hoạt, sáng tạo của các nhà thơ trung đại, xuất thân từ các
nhà nho?
Nhà thơ - nhà phê bình văn học Xuân Diệu có lời khen bài Mùa thu của Ngô Chi Lan, một nữ
sĩ dưới thời Lê Thánh Tông là “một bước tiến của thơ”, “lời văn ở đây đã trong sáng, liền, thoải
mái, không vất vả, không gợn, và có nhạc điệu”, đồng thời ông cũng chỉ ra hạn chế có tính cố hữu
của các nhà thơ ở giai đoạn này: “Còn thì vẫn các yếu tố ước lệ: Gió vàng, bóng nhạn, giếng ngọc,
rừng phong”
(2)
. Bài thơ Nôm có nhan đề Mùa thu thể hiện rõ chủ ý của Ngô Chi Lan là dành trọn
cho việc tả cảnh thu, đã được Xuân Diệu nhận xét ở trên, gồm bốn câu:
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa.
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
Những thế kỷ XVI-XVIII tiếp theo, các nhà thơ trung đại Việt Nam tuy ít sử dụng những
hình ảnh mang tính công thức, ước lệ khi tả cảnh thu, nhưng vẫn còn hạn chế ở sự thiếu sáng tạo
hình ảnh và chưa thể hiện rõ nét riêng, độc đáo trong mỗi nhà thơ.
Bài thơ Thu tứ của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hình ảnh mây, nhạn, trăng:
Vân biên nhạn quá hồn vô số,
Thiên thượng nguyệt minh ứng hữu kỳ.
(Tầng mây đàn nhạn bay qua,
Trời quang, trăng sáng như là hẹn nhau).
(Ý thu - bản dịch của Hoàng Việt thi văn tuyển)
Trong Chinh phụ ngâm, khi nói về sự lạnh lẽo, cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến,
nhất là ở những đêm thu, tác giả viết:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Bài thơ Thu dạ I của Nguyễn Du cũng có sao sáng, tiếng dế kêu não nề trong đêm lạnh:
Phiền tinh lịch lịch lộ như ngân,
Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
(Sao vàng lấp lánh ánh sương dầy,
Dế khóc tường đông giọng đắng cay).
(Quách Tấn dịch)
Trong Ngẫu hứng I, Nguyễn Du cũng tả trăng sáng và gió lạnh mùa thu:
Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố,
Tây phong xuy ngã chính thê thê.
(Trăng sáng trời cao vằng vặc thế,
Gió tây ta quá lạnh lùng thôi)
(Đào Duy Anh dịch )
Trước Nguyễn Du, nhưng sau Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều viết:
Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.
(Cung oán ngâm khúc)
Đến Thu dạ II, Nguyễn Du vẫn không có gì mới:
Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp,
Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân.
(Muôn dặm tiếng thu dồn lá rụng,
Đầy trời sắc lạnh quét mây bay)
(Quách Tấn dịch)
Điểm lại một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu của thơ trung đại Việt Nam viết về mùa thu,
chúng ta thấy rõ những hạn chế trong bút pháp miêu tả, ở cả thơ chữ Hán và chữ Nôm là thiên về
sách vở, ước lệ, tượng trưng, chung chung, thiếu tính hiện thực, sinh động, cụ thể và chưa có được
nét riêng biệt, độc đáo ở mỗi nhà thơ. Nhưng đến Nguyễn Khuyến (1835-1909), với ba bài thơ thu
nổi tiếng, thì những ưu điểm trong bút pháp miêu tả của ông sáng rỡ lên như một dấu son tươi
mới. Theo Bùi Văn Nguyên, đó là “thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hoá nội dung mùa thu
cho thật là thu Việt Nam..., và dân tộc hoá hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là Nôm, là Việt
Nam”
(3)
... của Tam nguyên Yên Đổ.
2. Nguyễn Khuyến với chùm thơ Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm
Nguyễn Khuyến, bằng tài năng của mình, đã đưa thơ Việt Nam phát triển lên một bước mới,
đặc biệt là đến gần với hiện thực, cụ thể và sinh động hơn trong bút pháp miêu tả. Thiên nhiên
làng quê trong thơ Yên Đổ đến với độc giả bằng tất cả vẻ đẹp giản dị, thanh sơ mà vẫn có được
những nét hấp dẫn riêng của nó.
Trong số rất nhiều bài thơ tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, có ba bài thơ đã luôn toả
ra thứ ánh sáng êm dịu và trong trẻo, làm say đắm lòng người. Thiên nhiên bao la của những ngày
thu muộn, có ao nước trong veo lóng lánh bóng trăng, có đom đóm “lập loè ngõ tối” đã tạo nên ba
bức tranh đặc sắc về cảnh thu Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Trong cuốn Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX), Nguyễn Lộc nhận
định: ''Nói về thiên nhiên, trong văn học cổ có rất nhiều, tả cái đẹp của thiên nhiên mùa thu
trong văn học cổ rất hay. Nhưng trước Nguyễn Khuyến, chưa bao giờ có một thiên nhiên nào
đậm đà phong vị của đất nước quê hương đến thế''
(4)
. Xuân Diệu cũng đã từng nhận xét:
''Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm, mà trong thơ Nôm của
Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh''. Ba bài thơ
này được nhân dân ghi nhớ và truyền tụng bởi mùa thu của miền Bắc nước ta được miêu tả rất
sinh động, sát thực, chứ không phải mùa thu mượn ở nơi khác. Tiêu biểu cho thu Việt Nam phải
nói đến Thu điếu. Đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng ra trước mắt một bức tranh thuỷ
mặc, có bối cảnh xa, gần thật sống động. Khung cảnh thu được gói vào trong một không gian
hẹp, chiếc ao thu be bé, xinh xắn, chiếc thuyền câu cũng bé tẻo teo. Nguyễn Khuyến dường như
hoá thân thành một nhà quay phim tài ba bậc nhất: Tầm nhìn của ông như chiếc máy quay, lúc
phóng lên cao, khi vụt xuống thấp, bao quát cả không gian mùa thu. Làn nước trong veo làm nổi
bật chiếc thuyền câu nhỏ nhắn. Cả khung cảnh ấy làm phông duy nhất cho một chiếc lá thu vàng
rơi trước gió. Chữ vèo gợi tả dáng thanh mảnh của chiếc lá thu bay. Tuy nhỏ bé nhưng dường
như nó có sức thu cả đất trời vào mình. Khí thu làm cho ao thu lạnh, nhưng cái lạnh lẽo ấy
không đáng để người ta sợ hãi và chạy trốn. Trái lại, nó khơi nguồn hứng khởi cho con người
ngắm cảnh thu, yêu thu hơn. Bài thơ xinh xắn đã mở ra trước mắt chúng ta cảnh vật thiên nhiên
nơi làng quê: Đây là từng gợn lăn tăn của dòng nước xanh biếc; kia là chiếc lá vàng khẽ rơi làm
duyên cùng làn gió nhẹ; ngước mắt lên nhìn là bầu trời xanh ngắt, rộng lớn, không hề vẩn tạp,
cao vời vợi, sâu thăm thẳm trong không gian đa chiều.
Ngõ trúc là một hình ảnh rất đặc trưng cho cảnh làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Yêu thay
dáng trúc thẳng thắn với tán lá xanh biếc như bầu trời thu kia. Đâu dễ có được hình ảnh thơ thuần
Việt tuyệt đối ấy nếu không có một tình yêu quê hương đằm thắm thiết tha đến vô cùng, cộng với
ngòi bút tả thực tài hoa của tác giả! Quan sát, miêu tả cảnh thu có chiều sâu, từ gần đến xa, từ xa
đến gần trong Thu điếu thật là sinh động và tinh tế! Các từ láy lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng vừa gợi
cảm, gợi hình, rất xác thực, sinh động và gần gũi.
Ngồi trên chiếc thuyền bé tẻo teo ấy, nhà thơ cũng trở nên bé nhỏ, cô đơn trong khoảng không
gian giữa mặt nước và bầu trời. Trước thời cuộc đảo điên, vận nước đen tối, một ông quan thanh
liêm đã về vườn liệu có thể làm gì cho dân cho nước? Chưa thể “đắp tai, cài trốc”, “ngoảnh mặt
làm ngơ” vì còn chút lo đời, nhà thơ muốn gửi gắm tâm sự của mình vào cảnh thu để bớt đi nỗi
buồn vì bất lực. Song, thiên nhiên làng quê mộc mạc, thân thiết ấy lại càng làm cho ông cảm thấy
day dứt về trách nhiệm của bản thân. chưa đủ kiên nhẫn để ngồi chờ, vì không còn cách nào khác
để giải toả niềm u uẩn của mình. Nỗi trống vắng không cùng khiến nhà thơ nghe được tiếng cá
đớp mồi thật nhỏ - âm thanh duy nhất trong khung cảnh thu tĩnh lặng. Nhờ có âm thanh ấy, cảnh
thu sống động hơn và đủ để đánh thức thi sĩ trở về với thực tại, sau những suy ngẫm mơ màng. Có
thể nói, sự xuất hiện bất ngờ của một âm thanh trong khung cảnh tĩnh lặng ấy, là nét sắc sảo và
tinh tế trong nghệ thuật tả cảnh của nhà thơ. Nếu tiếng chó nhỏ bên ao cắn tiếng người (Đến chơi
nhà bác Đặng - Nguyễn Khuyến) làm cho buổi trưa hè ở làng quê trở nên có sức sống hơn, thì ở
đây cá đâu đớp động dưới chân bèo (Thu điếu) lại chứa đựng một âm thanh đa nghĩa, vừa cô đơn,
vừa bất lực...
Cũng trong mạch cảm xúc ấy, Nguyễn Khuyến đã đưa cái thần của cảnh thu Việt Nam vào bài
Thu vịnh. Cái thanh thoát nhẹ nhõm, cái cao vời vợi của không gian được gói gọn trong bầu trời
thu xanh ngắt kia. Điểm nhấn trên nền trời ấy là cần trúc - Một sự tạo hình trong không gian thật
cụ thể. Cây trúc còn non trông yếu ớt, mong manh, khi có làn gió thu hiu hiu thổi nhẹ, giống như
chiếc cần câu nghiêng bóng xuống mặt ao, đu đưa trước gió. Đường nét cong cong của thân cây,