Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.49 KB, 72 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ DUNG

CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ
CỦA CON NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN
TỈNH HƯNG YÊN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ DUNG

CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ
CỦA CON NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN
TỈNH HƯNG YÊN)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Dung

i


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................................i
Tôi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả
các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội........................................................................................................i
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.. .i

Tôi xin chân thành cảm ơn!.....................................................................................................i
NGƯỜI CAM ĐOAN.............................................................................................................i
Vũ Thị Dung............................................................................................................................i

ii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số vụ án về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người/Tổng
số vụ án hình sự tỉnh Hưng Yên tù năm 2009 - 2013......Error: Reference source not
found
Bảng 2.2. Số vụ án đã xét xử về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người trên tổng số các vụ án phải giải quyết..........Error: Reference source not found

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp
luật nói chung luật hình sự nói riêng bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là những vấn đề có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm,

danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta ln xác định con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nước
Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội,
thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền
vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn đấu cho mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả là vì con
người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ khẳng định sự tôn trọng và
bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng,
mà cịn làm hết mình để bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, tình hình kinh tế ở
Hưng Yên cũng có nhiều thay đổi. Là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng,
nhiều làng nghề truyền thống, giao thông thuận lợi, Hưng Yên thu hút nhiều nhà
đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nền kinh tế - xã hội
phát triển Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế nói trên thì bên cạnh đó
cũng xuất hiện các loại tội phạm trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội
1


trong đó có sự gia tăng của các loại tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người. Đây là vấn đề được sự quan tâm của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên. Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh Hưng Yên đã ra
nhiều văn bản yêu cầu các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội đế ra và áp dụng
nhiều biện pháp cụ thể nhằm đấu tranh với các loại tội phạm xâm phạm nhân phạm
nhân phẩm, danh dự của con người. Các cơ quan bảo vệ pháp luật như Cơng an,
Viện kiểm sát, Tịa án là những cơ quan được giao nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với
các loại tội phạm trên, đã áp dụng các biện pháp có hiệu quả để phát hiện, diều tra,
truy tố những kẻ phạm tội.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được, trong thực
tiễn công tác đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của

con người còn bộc lộ nhiều hạn chế và chưa mang lại kết quả cao, nhiều khó khăn,
vướng mắc về thực tiễn chưa được giải quyết. Các biện pháp đấu tranh phòng chống
đối với các loại tội phạm này cịn mang tính tổng qt chưa đi vào cụ thể. Do đó
nghiên cứu đề tài: “Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong
luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hưng
Yên)” là cần thiết, bảo đảm giữ gìn an ninh, trật tự và góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người có tính nhạy cảm cao,
phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Sau khi Bộ
luật hình sự năm 1999 được ban hành, các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người được đề cập trong cơng trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (phần các tội
phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS.ThS. Phạm Thanh Bình,
TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, NXB Công an
2


nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm,
tập 1 (Bình luận chuyên sâu) của ThS. Đinh Văn Quế, NXB thành phố Hồ Chí
Minh, 2002…Nhìn chung, các cơng trình nói trên nghiên cứu các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người trên khía cạnh quy định của luật hình sự, hoặc
nghiên cứu đối với từng tội phạm cụ thể trong phạm vi tồn quốc, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu về loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hưng n. Chính vì
những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài “Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa

bàn tỉnh Hưng Yên)” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có
tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật đối với các
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người và áp dụng chúng trong thực tiễn
tại tỉnh Hưng Yên. Từ đó, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong
luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả trong
công tác áp dụng, đặc biệt trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người.
- Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên
địa bàn tỉnh Hưng Yên.
- Đề xuất hệ thống những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định
đối với các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

3


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong Luật hình sự Việt Nam, kết hợp với
việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng nó trong thực tiễn xét xử của Tòa án

tỉnh Hưng Yên và những nguyên nhân, tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải
pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với các
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, phạm vi nghiên cứu của
luận văn tập trung vào các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và những vấn đề liên quan
đến việc định tội danh và quyết định hình phạt, thực tiễn xét xử đối với các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người ở Hưng Yên trong 5 năm (2007 – 2013)
với tư cách là tội phạm trong chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài đuợc thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính
sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội
Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQTW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ
Chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và
đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương
pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương
pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và
luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn

4



Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hồn thiện lý luận về các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong khoa học luật hình sự Việt Nam;
phân tích thơng qua nghiên cứu các số liệu thực tiễn xét xử sơ thẩm trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên từ năm 2008 đến năm 2013 và các bản án hình sự cụ thể để đánh
giá. Qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật hiện
hành; các sai sót trong q trình áp dụng các quy định đó, cũng như các nguyên
nhân tìm ra giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người ở khía cạnh lập pháp hình sự và việc áp dụng trong thực tiễn.
Về mặt thực tiễn
Luận văn cịn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, nghiên cứu, học tập.
Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa học
phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt
Nam liên quan đến các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, qua đó
góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Những quy định của pháp luật hình sự năm 1999 về các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự năm
1999 về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người và nâng cao hiệu quả
áp dụng.
Chương 1

5



MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM,
DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người trpng luật hình sư Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm nhân phẩm, danh dự của con người.
Như đã đề cập ở phần mở đầu, con người được coi là vốn quý của xã hội, là
đối tượng hàng đầu được luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung bảo
vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
và tự do của họ, trong đó bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng. Vì những lẽ đó, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người nằm trong chương thứ XII. Đây là một
trong những chương của Bộ luật hình sự bao gồm những quy phạm pháp luật trực
tiếp bảo vệ con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội. Vậy chúng
ta hiểu thế nào là nhân phẩm, danh dự của con người?
Theo tác giả, “danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về các
mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó”. Sự đánh giá của xã hội
có thể về mặt lao động như nói người cần cù, siêng năng hay lười nhác, có thể về
mặt tinh thần thái độ đối với công việc được giao, trong sinh hoạt cá nhân hay cư xử
với mọi ngươi xung quanh như người đó sống nghiêm túc hay bng thả, trong mối
quan hệ với mọi người thì thân ái đồn kết hay ích kỷ.
Như vậy, danh dự của một con người được hình thành từ những hành động
và cách cư xử của người đó, từ cơng lao và thành tích mà người đó có được qua
những năm tháng của cuộc đời và được xã hội đánh giá theo những tiêu chuẩn và
nguyên tắc đạo dức xã hội chủ nghĩa. Danh dự là một khái niệm rộng gắn liền với
một cá nhân hoặc một tổ chức nhất định. Danh dự của một cá nhân bao gồm các yếu
tố sau:
- Lòng tự trọng: tức là sự tự đánh giá mình, tự ý thức về giá trị, vị trí của
mình trong xã hội (chà đạp lên lịng tự trọng của người khác chính là xúc phạm đến

danh dự của người đó).

6


- Uy tín: chính là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một
cá nhân thơng qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong một tổ
chức, một dân tộc cảm phục tơn kính và tự nguyện nghe theo. Trong danh dự có uy
tín, phá hoại uy tín cũng chính là phá hoại danh dự.
Nhân phẩm là phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với
tính cách là một con người. Chà đạp lên nhân phẩm của người khác cũng là xúc
phạm đến danh dự người đó.
Mặc dù nhân phẩm cũng là một yếu tố của danh dự, song giữa danh dự và
nhân phẩm cũng có những điểm khác nhau nhất định:
Nếu danh dự được hình thành qua nhiều năm tháng của cuộc đời và được xã
hội đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức xa hội chủ nghĩa thì nhân
phẩm lại có từ khi con người mới sinh ra. Danh dự có thể của một cá nhân hay tổ
chức, nhưng nhân phẩm chỉ là một khái niệm được áp dụng đối với cá nhân. Mặc dù
danh dự của một con người được hình thành từ những hành vi và cách cư xử, từ
cơng lao và thành tích của người đó có được qua nhiều năm tháng của cuộc đời và
được thừa nhận, nhưng mọi người dân đều có quyền được bảo vệ danh dự và nhân
phẩm như nhau không phân biệt vào công lao, công tác và những đặc điểm riêng
của người có quyền; những người khơng có năng lực hành vi dân sự, những người
mất năng lực hành vi dân sự cũng có quyền bảo vệ danh dự và nhân phẩm như mọi
công dân khác.
Cũng giống như những quyền dân sự khác, quyền được bảo vệ danh dự và
nhân phẩm của cá nhân chấm dứt khi cá nhân đó chết. Tuy nhiên cũng có trường
hợp vì lợi ích của xã hội đòi hỏi phải phục hồi danh dự và nhân phẩm cho một cá
nhân mặc dù cá nhân đó đã chết.
Xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm thường thể hiện bằng cách: Dùng

những lời lẽ hoặc hành động có tính chất thóa mạ khinh bỉ để làm nhục người khác
hoặc gán một sự kiện xấu xa cho người khác làm cho xã hội đánh giá sai hoặc hình
dung sai về người đó. Sự đánh giá sai sự thật khơng phụ thuộc vào việc người đưa
ra những tin tức đó vơ tình hay cố ý. Tiêu chuẩn để đánh giá những sự việc nêu ra là

7


xấu xa hay không xấu xa là những nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên
tính chất nghiêm trọng của những tin tức đưa ra có thể khác nhau tùy theo nhân thân
của người bị hại. Ví dụ: Nếu nói một em học sinh quay cóp khi thi mà khơng đúng
sự thật thì cũng là điều đáng chê trách và cũng có thể bị dư luận lên án, nhưng
khơng nghiêm trọng bằng việc nói một nhà văn đã ăn cắp văn của người khác.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người trong luật hình sư Việt Nam.
Việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong
luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa dưới các góc độ chính sau đây:
Thứ nhất, dưới góc độ chính trị xã hội, đã góp phần cụ thể hóa các quy định
của Hiến Pháp về bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Khoản 1 Điều 20 của
Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm [27]. Như vậy, việc bảo vệ quyền con
người, quyền công dân đã được Hiến Pháp xác lập, ghi nhận và được pháp luật
Hình sự bảo vệ. Những quy định trong chương XII – “Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” của Bộ luật Hình sự nói chung, từ
Điều 111 đến Điều 122 về các tội xâm phạm “nhân phẩm, danh dự của con người”
nói riêng đã thể hiện thái độ kiên quyết đấu tranh chống các tội phạm về nhân
phẩm, danh dự của con người của Đảng và Nhà nước ta để bảo vệ sự nghiệp cách
mạng, sự lãnh đạo của Đảng, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như bảo

đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với xã hội, tiến tới mục tiêu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh.
Thứ hai, về mặt lý luận, là cơ sở pháp lý hình sự đầy đủ và thống nhất để các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có căn cứ để tiến hành điều tra,
truy tố, xét xử các hành vi xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự của con người sao
cho đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không xử oan người vô tội.
Thứ ba, việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
trong luật hình sự Việt Nam khơng chỉ trừng trị và giáo dục chính bản thân người

8


phạm tội khơng phạm tội mới mà cịn có mục đích răn đe, giáo dục đối với các
thành viên khác trong xã hội nhất là đối với các nhân viên khác trong xã hội không
vững vàng, dễ bị lôi kéo; qua đó bồi dưỡng cho mọi cơng dân có tinh thần, ý thức
tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngùa và chống tội phạm xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người.
Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, tính chất và mức độ của hành vi
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người ngày càng diễn biến phức tạp. Bởi
vậy, việc quy định các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong luật
hình sự Việt Nam có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong q trình đấu tranh phịng
chống các loại tội phạm này.
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự
Việt Nam về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
1.2.1. Giai đoạn từ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
– Nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời đã ban hành một loạt các văn
bản quy phạm pháp luật hình sự nhằm bảo vệ chính quyền nhân dân, chống thực
dân Pháp, trừng trị bọn việt gian phản động.

Do tình hình kháng chiến diễn ra rất khẩn trương, không thể ban hành kịp
các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự nói
riêng, ngày 10-10-1945 Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời
giữ các luật lệ cũ trong đó có Bộ “Luật hình An Nam”, Bộ “Hồng Việt hình luật”
và Bộ “Hình luật pháp tu chính” với điều kiện “khơng trái với nguyên tắc độc lập
của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”. Trong bối cảnh này, việc đấu
tranh chống các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người chưa được đặt ra.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc
hoàn tồn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống
trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây

9


dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền Nam tiến
hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc Mỹ và tay sai thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con người, pháp luật chủ yếu đề cập các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
như giết người, gây thương tích, làm chết người trong thơng tư số 442-TTg ngày
19-11-1955 của Thủ tướng Chính Phủ mà chưa có văn bản pháp luật hình sự nào
quy định về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người.
Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nước nhà
về mặt Nhà nước, trên thực tế tồn tại hai Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam; mỗi Nhà nước có một hệ
thống pháp luật riêng. Nhà nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban hành ngay
một số chính sách, văn bản quy phạm pháp luật hình sự nhằm phục vụ thực hiện
một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và
tội phạm khác, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội ở nửa đất
nước mới được giải phóng.

Cùng với việc ban hành Sắc luật về Tổ chức của Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân, sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, đồ
vật của người phạm tội, Nhà nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc
luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 quy định các tội phạm và hình phạt. Sắc luật này
được áp dụng trong phạm vi toàn quốc trước khi Bộ luật hình sự được ban hành.
Sắc luật số 03-SL/76 có quy định về các tội xâm phạm đến thân thể và nhân
phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với Thơng tư 442-TTg ngày 19-111955 của Thủ tướng Chính phủ Điểm d Điều 5 Sắc luật quy định: “Phạm các tội
khác xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của cơng dân thì bị phạt tù từ 3 tháng
đến 5 năm những kẻ lập công chuộc tội” [29, 236]. Trên cơ sở quy định này, Toà án
đã vận dụng xử lý một số trường hợp phạm tội xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự
của con người.

10


1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV,
V của Đảng, nhân dân ta đã giành được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh
vực chính trị, kinh tế xã hội tạo ra cho những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều khó
khăn và khuyết điểm do duy trì khá lâu cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp nên không
thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế - xã
hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự, các văn bản quy phạm pháp luật
hình sự đơn hành khơng thể hiện được tồn diện, đầy đủ chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh đó việc ban hành Bộ luật hình sự là vấn đề
mang tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần phục vụ thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Ngày 27 – 6 – 1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII đã thơng qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực ngày 11-1986 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1985).

Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu lập pháp
hình sự Việt Nam, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời
gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình trong thời gian tới.
Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm phạm
an ninh quốc gia chương 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự ở chương 2. Đây là những quy phạm pháp luật trực
tiếp bảo vệ con người với tính chất là chủ thể của các quan hệ xã hội. Theo đó Bộ
luật hình sự năm 1985 quy định 7 Điều về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người (từ Điều 112 đến Điều 118). Việc ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
đã đánh dấu trưởng thành về mặt kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh
vực bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người.

11


1.3. Nghiên cứu so sánh các quy định về các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con người trong luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự của
một số nước.
Nghiên cứu những quy định về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người trong pháp luật hình sự của Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên
Bang Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cho thấy các nước quy định rất khác
nhau về tội phạm này.
1.3.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản:
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam và Nhật Bản ngày càng có những mối
quan hệ mật thiết, khơng chỉ có mối quan hệ kinh tế mà cịn về mọi mặt như văn
hóa, xã hội, xây dựng tương trợ pháp luật…Do vậy, việc nghiên cứu quy định pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng là cần thiết.
Bộ luật hình sự của Nhật Bản được cơng bố ngày 24/4/1907 và có hiệu lực
ngày 01/10/1908. Đây là một trong những bộ pháp điển cơ bản được cấu thành từ
06 văn bản luật. Bộ luật hình sự Nhật Bản được sửa đổi và bổ sung gần đây nhất là

vào ngày 24/06/2011.
Bộ luật hình sự của Nhật Bản gồm có 40 chương và 264 điều khoản cụ thể,
trong đó các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người được quy định trong
chương XXXIV gồm nhiều tội khác nhau:
- Tội nói xấu người và xỉ nhục người khác: Điều 231 Bộ luật quy định:
“Người nào cơng khai sỉ nhục người khác thì bị phạt giam hình sự hoặc bị phạt tiền
về tội hình sự nhỏ, thậm chí nếu người đó thực hiện hành vi sỉ nhục mà không đưa
ra sự kiện [43, trang 64]. Điều 232 Bộ luật này còn quy định: “1. Các tội phạm quy
định tại chương này chỉ bị khởi tố căn cứ vào đơn yêu cầu.
2. Khi người làm đơn u cầu là Hồng đế, Nữ hồng, Hồng hậu góa,
Hồng thái hậu góa hoặc người thừa kế ngơi hồng đế và Thủ tướng Chính Phủ thì
những người đó đều nhân danh cá nhân hoặc khi người làm đơn yêu cầu là Vua
hoặc Tổng thống của một nước ngoài, là người đại diện của nước ngồi hữu quan
thì những người đó cũng đều nhân danh cá nhân”. [43, trang 64].

12


- Điều 177 Bộ Luật hình sự Nhật Bản quy định: “Người nào dung vũ lực
hoặc đe dọa mà giao cấu với người nữ giới từ 13 tuổi trở lên thì phạm tội hiếp dâm
và bị phạt tù có lao động bắt buộc từ hai năm trở lên. Tương tự như vậy áp dụng với
giao cấu với nữ giới dưới 13 tuổi”.
1.3.2. Bộ luật hình sự Thụy Điển
Bộ luật hình sự của Vương quốc Thủy Điển quy định các tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người nằm trong chương V, chương VI
- Điều 2 chương V: “Người nào xỉ vả người khác bằng lời lẽ lăng mạ hoặc
có những hành động khác mang tính sỉ nhục đối với người đó, thì bị kết án về tội
làm nhục người khác và bị phạt tiền nếu hành vi này không bị xử phạt theo Điều 1
hoặc Điều 2.
Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tiền hoặc bị phạt tù đến 6

tháng” [44, trang 13].
Điều 5 của Bộ luật cịn quy định: Các điều nói từ Điều 1 đến Điều 3 có thể
khơng bị truy tố trừ trường hợp có đơn yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên nếu
người bị hại khơng có đơn u cầu truy tố nhưng vì lợi ích cơng cộng thì cơng tố
viên có thể truy tố các tội:
1. Vu khống và vu khống người khác trong trường hợp nghiêm trọng;
2. Làm nhục nhà chức trách hoặc lăng mạ nhà chức trách khi thi hành cơng vụ;
3. Làm nhục người khác vì lý do sắc tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc hoặc tơn
giáo của người đó;
4. Làm nhục người khác vì lý do bệnh đồng tính luyến ái của người đó.
Hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người đã chết có thể bị truy tố
theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng còn sống, những người thừa kế trực tiếp,
cha, mẹ hoặc anh chị em ruột của người chết. Công tố viên phải truy tố hành vi nói
trên; việc truy tố là vì lợi ích cơng cộng do những lý do đặc biệt.
- Điều 1 Chương 6 BLHS Thụy Điển quy định: “người đàn ông hoặc đàn bà
nào dung vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc gây nguy hiểm cho người
khác nhằm buộc người đó giao cấu hoặc có hành động tình dục khác thì bị phạt tù

13


từ 2 đến 6 năm về tội hiếp dâm. Hiện nay đã sửa đổi thành “người nào” nhưng cách
hiểu vẫn theo như bộ luật cũ, tức là cả nam giới và nữ giới.
1.3.3. Bộ luật hình sự Liên Bang Nga
Trong Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga quy định nhiều tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người. Cụ thể: tại Điều 131: “1. Làm nhục nghĩa là hạ thấp
danh dự và nhân phẩm của người khác, bằng hình thức thơ tục.
- Thì bị phạt tiền đến 100 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay thu
nhập khác của người bi kết án trong thời gian đến 1 tháng, hoặc bị phạt lao động bắt
buộc đến 120 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 6 tháng.

2. Làm nhục trên diến đàn công cộng, trong tác phẩm được công bố công
khai hay trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Thì bị phạt tiền đến 200 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay thu
nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến 2 tháng, hoặc bị phạt lao động bắt
buộc đến 180 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 01 năm [45, trang 84 – 85].
Điều 328 Bộ luật này còn quy định tội xúc phạm quân nhân: “1. Quân nhân
nào xúc phạm đồng đội trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội hoặc liên
quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ đó thì phạt hạn chế phục vụ qn đội đến 6
tháng hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 6 tháng.
2. Cấp dưới xúc phạm người chỉ huy hoặc người chỉ huy xúc phạm cấp dưới
trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội hoặc liên quan đến việc thực hiện
các nghĩa vụ đó, thì bị phạt hạn chế phục vụ qn đội đến 1 năm hoặc bị phạt giữ ở
đơn vị kỷ luật của quân đội đến 1 năm [45, trang 136].
1.3.4. Bộ luật nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Bộ luật hình sự nước Cộng hịa dân chủ nhân dân Lào quy định tội xúc phạm
danh dự người khác tại Điều 87, tội chửi rủa lăng nhục người khác tại Điều 88, tội
xúc phạm mồ mả và thanh danh của người đã chết tại Điều 89.
Điều 87 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào xúc phạm danh dự của người
khác bằng lời nói, viết hoặc những hình thức khác thì bị phạt tước quyền tự do từ 3
tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền 5.000 đến
10.000 kíp.

14


Người nào đặt ra những điều khơng có thực bằng lời nói, viết hoặc bằng các
hình thức khác xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự của người khác thì bị phạt tước
quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc bị phạt tuênf từ 5.000 kíp đến 10.000 kíp”
[46, trang 46].
Như vậy, theo pháp luật nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc

phạm danh dự của người khác và hành vi vu khống người khác được quy định
chung trong một điều luật quy định về tội xúc phạm danh dự của người khác.
Điều 88 Bộ luật còn quy định về tội chửi rủa lăng nhục người khác: “Người
nào dùng lời nói, viết hoặc thực hiện hành vi xấu xa, trụy lạc xúc phạm nghiêm
trọng danh dự của người khác thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm
hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000 kíp đến 10.000 kíp”.
Ngồi ra, Điều 89 Bộ luật này cịn quy định về tội xúc phạm mồ mả và thanh
danh của người đã chết: “Người nào có hành động hoặc dùng lời nói xấu xa đối với
hài cốt, thanh danh của người đã chết, ảnh hưởng xấu tới sự tôn trọng của quần
chúng nhân dân với những người đã chết thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến
1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000 kíp đến 10.000
kíp” [46, trang 29].
Như vậy ta có thể thấy rằng các quy định về các tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con người của các nước Nhật Bản, Thụy Điển, Liên Bang Nga và Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào rất khác nhau phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của từng nước.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Tóm lại, qua chương I tác giả đã trình bày khái quát những vấn đề chung
về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người; khái quát được lịch sử
hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người và nghiên cứu so sánh các quy định về các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người trong luật hình sự Việt Nam với pháp luật
hình sự của một số nước trên thế giới… Từ đó, chúng ta có những nhận thức ban
đầu về các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người.

15


Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999

VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI VÀ
THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN
2.1. Những quy định của pháp luật hình sự năm 1999 về các tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999.
2.1.1. Khái niệm chung.
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự là những hành vi cố ý xâm phạm đến
quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự.
Trong Bộ luật hình sự có 10 tội thuộc nhóm tội này. Đó là các tội:
- Tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự);
- Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 Bộ luật hình sự);
- Tội cưỡng dâm (Điều 113 Bộ luật hình sự);
- Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 Bộ luật hình sự);
- Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 Bộ luật hình sự);
- Tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116 Bộ luật hình sự);
- Tội mua bán phụ nữ (Điều 119 Bộ luật hình sự);
- Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự);
- Tội làm nhục người khác (Điều 121 Bộ luật hình sự);
- Tội vu khống (Điều 122 Bộ luật hình sự).
Các tội phạm trong nhóm tội này có những đặc điểm chung sau:
- Hành vi phạm tội của tất cả các tội trong nhóm đều dưới dạng hành động
phạm tội.
- Hậu quả của những hành vi phạm tội là những thiệt hại gây ra cho nhân
phẩm, danh dự của con người thể hiện dưới dạng những thiệt hại tinh thần. Hậu quả
này không phải là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm của nhóm tội
này. Tất cả các tội phạm của nhóm tội này đều có cấu thành tội phạm hình thức.
- Lỗi ở tất cả các tội phạm thuộc nhóm tội này đều là lỗi cố ý.
16



Người phạm tội biết hành vi của mình xâm hại đến nhân phẩm, danh dự của
người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi nhằm đạt mục đích của mình.
- Trong 10 tội của nhóm tội này có 5 tội địi hỏi chủ thể phải là chủ thể đặc
biệt (các Điều 111, 112, 113, 114, 115 Bộ luật hình sự).
- Hình phạt cho những nhóm tội này có mức thấp nhất là cảnh cáo, mức cao
nhất là tử hình. Trong nhóm tội này có một tội được quy định ln ln là tội phạm
ít nghiêm trọng, 6 tội được quy định có thể là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Các
tội cịn lại được quy định có thể là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng
hoặc tội phạm rất nghiêm trọng. Ngồi hình phạt chính, nhiều điều luật của nhóm
tội này cịn quy định hình phạt bổ sung. Đó là hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; phạt tiền, quản chế, cấm cư trú.
2.1.2. Các tội phạm cụ thể
2.1.2.1. Tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự năm 1999)
Tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình
trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân
trái ý muốn của họ.
1) Các dấu hiệu pháp lý
a, Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt. Người thực hiện hành vi phạm tội của
tội này chỉ có thể là nam giới. Nữ giới chỉ có thể tham gia trong vụ đồng phạm hiếp
dâm với vai trò là người xúi giục, giúp sức hay tổ chức.
b, Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội này là hành vi giao cấu với người phụ nữ trái với
ý muốn của họ bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng
khơng thể tự vệ được hoặc bằng thủ đoạn khác.
Cấu thành tội phạm hiếp dâm địi hỏi người phạm tội phả có hành vi giao cấu
với nạn nhân. Nhưng khơng địi hỏi hành vi giao cấu phải đã kết thúc về mặt sinh
lý. Hành vi giao cấu là trái với ý muốn của người phụ nữ: người phụ nữ không chấp
nhận sự giao cấu hoặc hành vi giao cấu xảy ra khơng có ý muốn của người phụ nữ,
vì họ đang trong tình trạng khơng thể biểu lộ ý chí được.


17


Hành vi giao cấu với người phụ nữ trái ý muốn của họ được thực hiện bằng
một trong những thủ đoạn sau:
- Thủ đoạn dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của
nạn nhân chống lại việc giao cấu như xô ngã, vật, giữ, bóp cổ nạn nhân…
- Thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực là thủ đoạn làm ý chí của người phụ nữ bị tê
liệt, buộc họ phải chịu sự giao cấu mà không dám kháng cự như dọa giết, dọa gây
thương tích cho nạn nhân.
- Thủ đoạn lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của người phụ nữ là
thủ đoạn lợi dụng người phụ nữ vì lý do nào đó khơng thể chống lại được hành vi
giao cấu trái với ý muốn của mình như lợi dụng người phụ nữ đang trong tình
trạng ốm đau…
- Thủ đoạn khác là những thủ đoạn (ngoài ba thủ đoạn trên) giúp cho người
phạm tội có thể thực hiện được việc giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ.
Những thủ đoạn đó theo thực tiễn xét xử có thể là thủ đoạn lợi dụng người phụ nữ
đang trong tình trạng khơng có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn được. Ví dụ: Lợi
dụng người phụ nữ đang trong tình trạng bị say rượu nặng hoặc đang trong tình
trạng bị bệnh tâm thần…
Tình trạng này có thể khơng do nhưng cũng có thể do chính người phạm tội
chủ động tạo ra. Ví dụ: Người phạm tội chủ động cho nạn nhân uống rượu say để
sau đón thực hiện hành vi giao cấu với họ.
c, Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi giao cấu của
mình là trái ý muốn người phụ nữ nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi nói trên.
2, Hình phạt
Điều luật quy định 3 khung hình phạt.
Khung cơ bản có 2 mức – mức phạt tù từ 2 năm đến 7 năm được áp dụng

cho trường hợp phạm tội khơng có tình tiết định khung tăng nặng và nạn nhân là
người thành niên. Mức phạt tù từ 5 đến 10 năm được áp dụng cho trường hợp khơng
có tình tiết định khung tăng nặng và nạn nhân là người chưa thành niên (đủ 16 tuổi
đến đướ 18 tuổi).

18


Khung tăng nặng thứ nhất – có mức phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Khung
này được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết định khung
tăng nặng sau:
- Phạm tội có tổ chức. Đây là trường hợp đồng phạm hiếp dâm ở hình thức
có tổ chức.
- Phạm tội đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh.
Đây là trường hợp phạm tội mà giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ
đặc biệt với nhau. Trong đó, người phạm tội là người có trách nhiệm chăm sóc, giáo
dục, chữa bệnh cho nạn nhân. Trách nhiệm này phát sinh do những cơ sở pháp lý
khác nhau.
- Nhiều người hiếp dâm một người.
Đây là trường hợp đồng phạm hiếp dâm trong đó có nhiều người có hành vi
giao cấu với cùng một nạn nhân. Hiếp dâm có tổ chức và nhiều người hiếp một
người tuy đều là đồng phạm nhưng một trường hợp đòi hỏi là đồng phạm có tổ chức
cịn một trường hợp địi hỏi phải có nhiều người cùng thực hiện hành vi giao cấu.
- Phạm tội nhiều lần;
- Có tính chất loạn ln.
Đây là trường hợp giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ cùng dịng
máu về trực hệ hoặc có quan hệ là anh chị em, cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha
khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha.
- Làm nạn nhân có thai;

- Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân với tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
- Tái phạm nguy hiểm.
Khung tăng nặng thứ hai – có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung
thân hoặc tử hình. Khung này được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong
những tình tiết định khung tăng nặng sau:
- Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.
- Người phạm tội biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn thực hiện hành vi hiếp
dâm (giao cấu).

19


- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân chết là trường hợp hiếp dâm đã gây ra
hậu quả nạn nhân chết và lỗi của người phạm tội đối với hậu quả này là lỗi vô ý.
Trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân tự sát là trường hợp nạn nhân do bị hiếp
dâm nên đã có hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình. Giữa việc bị hiếp dâm và
việc tự sát có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Hình phạt bổ sung được quy định cho tội phạm này là hình phạt cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm.
2.1.2.2. Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 Bộ luật hình sự năm 1999)
1) Các dấu hiệu pháp lý
Tội hiếp dâm trẻ em được quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự. So với tội
hiếp dâm được quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự, tội này có dấu hiệu riêng về
độ tuổi của nạn nhân:
- Đối với trường hợp nạn nhân là các em gái từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
Điều 112 Bộ luật hình sự địi hỏi hành vi phạm tội như hành vi phạm tội như hành
vi phạm tội được quy định ở Điều 111 Bộ luật hình sự.
- Đối với trường hợp nạn nhân là các em gái chưa đủ 13 tuổi, Điều 112 Bộ
luật hình sự khẳng định: “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là

phạm tội hiếp dâm…”.
Hành vi giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi dù có dùng thủ đoạn được quy
định tại Điều 111 Bộ luật hình sự hay được sự đồng ý của nạn nhân đều coi là hành
vi hiếp dâm. Sở dĩ được quy định như vậy vì nhà làm luật coi việc lợi dụng độ tuổi
để có được sự đồng ý của nạn nhân cũng là một dạng cụ thể của thủ đoạn khác thủ
đoạn lợi dụng tình trạng khơng có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn được.
2) Hình phạt
Đối với trường hợp nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi điều luật quy
định 3 khung hình phạt:
a, Khung cơ bản – có mức phạt từ 7 năm đến 15 năm.
b, Khung tăng nặng thứ nhất – có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Khung này được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong những tình tiết
định khung tăng nặng sau:
20


×