Tải bản đầy đủ (.docx) (183 trang)

BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC THEO CHỦ ĐỀ NHẰM PHÁT TRIỂN TÍNH SÁNG TẠO CHO TRẺ 56 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 183 trang )

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--- *** ---

TRẦN THỊ YẾN

BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC
THEO CHỦ ĐỀ NHẰM PHÁT TRIỂN TÍNH SÁNG TẠO
CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON

LUẬN VĂN THẠC SỸ


HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--- *** ---

TRẦN THỊ YẾN

BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC
THEO CHỦ ĐỀ NHẰM PHÁT TRIỂN TÍNH SÁNG
TẠO
CHO TRẺ 5-6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON

Chuyên ngành: Giáo dục học (Giáo dục Mầm non)
Mã số: 60.14. 01.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Hòa




HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Nguyễn Thị Hòa, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa, các thầy, cô giáo trong
khoa Giáo dục mầm non, trường Đại học sư phạm Hà Nội đã giảng dạy, tạo
mọi điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu các trường mầm
non Cầu Diễn, trường mầm non Mỹ Đình và các giáo viên đã cộng tác, giúp
đỡ tạo điều kiện tốt nhất trong quá trình tiến hành điểu tra thực trạng cũng
như thực nghiệm thành công.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, động viên
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Hà Nội, tháng 6 năm 2015
Tác giả

5


Trần Thị Yến

6



DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

7


MỞ ĐẦU
1

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay trong xu thế đổi mới và hòa nhập giáo dục mầm non vấn đề
tổ chức các hoạt động giáo dục tích hợp theo chủ đề cho trẻ nói chung và hoạt
động theo chủ đề cho trẻ mẫu giáo là cần thiết.Có nhiều cách tích hợp trong
giáo dục mầm non và một trong cách tích hợp đó là tích hợp theo chủ đề.
Dạng tích hợp này duy trì những mục tiêu riêng rẽ trong mỗi hoạt động đồng
thời liên kết chúng một cách hài hòa trên cơ sở xây dựng các chủ đề cụ thể.
Cách tiếp cận này xoay quanh một hoạt động “công cụ” hoạt động này có đặc
điểm chỉ là một phần nội dung là đặc thù nhưng có thể nhận những môn khác
làm nội dung của mình. Việc tổ chức hoạt động học cho trẻ mẫu giáo theo chủ
đề gần gũi cuộc sống thực của trẻ tạo cho trẻ nhiều cơ hội phát huy khả năng
sáng tạo của mình góp phần hình thành và phát triển tâm lý nhân cách trẻ và
là tiền đề cho trẻ học tập ở lớp học sau này.
Để phát triển tính sáng tạo của trẻ, tổ chức hoạt động học theo chủ đề là
hoạt động vô cùng quan trọng đối với trẻ mầm non. Dạy học tích hợp theo
chủ đề cho trẻ mẫu giáo là cách tiếp cận lấy trẻ làm trung tâm. Những chủ đề
mà trẻ được học rất cụ thể và gần gũi cuộc sống thực của trẻ cũng như vốn
kinh nghiệm của cá nhân chung.Và quan trọng hơn nữa để phát triển tính sáng
tạo cho trẻ các chủ đề tạo cho trẻ cảm xúc, bắt trẻ phải động não suy nghĩ
trong quá trình khám phá tìm kiếm cách thức giải quyết các nhiệm vụ đặt ra
trong khi học theo chủ đề. Trong xu thế đổi mới giáo dục mầm non hiện nay
vấn đề dạy học theo chủ đề cho trẻ mẫu giáo là cần thiết và có ý nghĩa góp

phần hình thành cho trẻ những năng lực thích nghi cuộc sống bậc học sau
này.Vì thế nghiên cứu tổ chức hoạt động học theo chủ đề cho trẻ mẫu giáo ở
trường mầm non có ý nghĩa cả lý luận lẫn thực tiễn trong đổi mới giáo dục
mầm non hiện nay.
8


Lứa tuổi mầm non là giai đoạn quan trọng để hình thành và phát triển
tính sáng tạo. Trong đó giai đoạn 5-6 tuổi là giai đoạn mà tính sáng tạo được
bộc lộ rõ nét hơn qua các hoạt động học theo chủ đề ở trường mầm non. Đồng
thời đây là giai đoạn quan trọng, giai đoạn chuyển tiếp từ mầm non lên tiểu
học cần phát triển những năng lực quan trọng như nhận thức, giải quyết vấn
đề, tính sáng tạo….để chuẩn bị cho việc học tập ở tường phổ thông.
Chính vì vậy, ngày nay vấn đề giáo dục cho trẻ mầm non được quan
tâm như một lĩnh vực khoa học và phát triển tính sáng tạo trong các hoạt động
học theo chủ đề là một vấn đề quan trọng ở tường mầm non. Để tạo ra một thế
hệ con người trưởng thành có năng lực sáng tạo ngay lứa tuổi mầm non.
Trên thực tế, ở các trường mầm non khi tổ chức hoạt động học theo chủ
đề ở trường mầm non, các giáo viên mầm non đã bắt đầu quan tâm tới việc
hình thành tính sáng tạo cho trẻ trong các hoạt động trong đó có hoạt động
học. Họ khuyến khích để trẻ tự làm và tôn trọng những quyết định của trẻ. Và
các giáo viên cũng đã bắt đầu học hỏi những kinh nghiệm để phát triển tính
sáng tạo cho trẻ. Tuy nhiên do chưa hiểu rõ bản chất cũng như quá trình tổ
chức hoạt động học theo chủ đề ở trường mầm non, nên chưa được quan tâm
đúng mức và còn bộc lộ nhiều hạn chế (về cách xây dựng môi trường hoạt
động, cách tổ chức hoạt động, các phương pháp…) nên vẫn chưa phát triển
được tính sáng tạo của trẻ.
Xuất phát từ lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp tổ chức hoạt
động học theo chủ đề nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi” làm
đề tài nghiên cứu của mình nhằm góp phần hoàn thiện thêm những lí luận và

thực tiễn về hoạt động học theo chủ đề nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo ở trường mầm non.
2

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xây dựng các biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề nhằm phát
triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non nhằm góp phần phát

3

triển nhân cách toàn diện của trẻ mầm non.
KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
9


3.1 Khách thể nghiên cứu
Quá trình tổ chức hoạt động học theo chủ đề cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
ở trường MN.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề nhằm phát triển tính sáng
4

tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Biện pháp dạy học có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả học của trẻ.
Nếu đề xuất được một số biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề phù
hợp trẻ 5-6 tuổi như: Tạo môi trường đa dạng hấp dẫn, tận dụng nguyên vật
liệu trong tự nhiên và các phế liệu, tạo bầu không khí học tập giữa cô và trẻ,
tạo ra tình huống chơi học hấp dẫn, động viên khuyến khích trẻ đưa ra ý


1

tưởng trong khi học thì sẽ phát triển tính sáng tạo của trẻ.
NHIÊM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sở lý luận sử dụng biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ

2

đề nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi.
Nghiên cứu thực trạng biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề nhằm

3

phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi” ở trường mầm non.
Đề xuất một số biện pháp và thực nghiệm tổ chức hoạt động học theo chủ đề

5

nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi” ở một số trường mầm non.
6 PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
- Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu biện pháp tổ chức hoạt động học theo
chủ đề, trong các chủ đề là trẻ sẽ tự chọn chủ đề xuất phát từ nhu cầu chủ ý
của trẻ..
- Địa bàn: Hai trường mầm non Cầu Diễn và trường mầm non Mỹ Đình
thuộc khu vực huyện Từ Liêm – Hà Nội.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp:
Phân tích - tổng hợp, so sánh, hệ thống hoá, khái quát hoá các vấn đề lý luận
có liên quan đến đề tài nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
10


7.2.2. Phương pháp quan sát
- Mục đích: Tìm hiểu biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề
nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi, tìm hiểu khả năng thực tế của
trẻ mầm non hoạt động học theo chủ đề của trẻ, và tính sáng tạo của trẻ thông
qua hoạt động ở trường mầm non.
- Nội dung nghiên cứu: Quy trình biện pháp tổ chức hoạt động học theo
chủ đề của giáo viên, hoạt động học của trẻ qua các chủ đề mức độ tính sáng
tạo của trẻ 5-6 tuổi.
- Cách thức thực hiện: Quan sát và phân tích các giờ học của trẻ, ghi
chép thông tin thu thập được qua quan sát theo các cách, ghi chép tự do, ghi
chép có cấu trúc, ghi chép bán cấu trúc. Đồng thời quay video và phân tích
băng
7.2.3. Phương pháp đàm thoại
- Mục đích: Để nắm thêm thông tin về thực trạng, nguyên nhân dẫn đến
thực trạng...vấn đề nghiên cứu.
-Nội dung nghiên cứu: Đàm thoại với trẻ và giáo viên mẫu giáo 5 - 6
tuổi để nắm được đặc điểm tâm lý về hứng thú học, tính sáng tạo của trẻ
thông qua các sản phẩmhoạt động theo chủ đề của trẻ.
- Cách thức thực hiện: Cần ghi chép tỉ mỉ, có hệ thống, giữa người
nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu 1 cách tế nhị, cuộc trò chuyên phải được
diễn ra tự nhiên cởi mở....Cần phải phối hợp các phương pháp nghiên cứu
khác nhất là phương pháp quan sát trắc nghiệm để có kết quả có tính thuyết
phục hơn.
7.2.4. Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ.
- Mục đích: Nghiên cứu sản phẩm của giáo viên để tìm hiểu thực trạng
sử dụng các biện pháp quy trình và biện pháp tổ chức chức hoạt động học

theo chủ đề của giáo viên mầm non hiện nay: Phân tích sản phẩm của trẻ để
đánh giá mức độ sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các tiêu chí đánh giá.
- Nội dung nghiên cứu: Kế hoạch giáo án, những ghi chép của giáo
viên, sản phẩm hoạt động của trẻ.

11


- Cách thức thực hiện: Thu thập các mẫu sản phẩm của giáo viên (kế
hoạch tổ chức trò chơi) sản phẩm của trẻ, phân tích chương trình và tài liệu
nghiệp vụ hướng dẫn tổ chức hoạt động học theo chủ đề nhằm phát triển tính
sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi.
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
- Mục đích: Khảo sát các giáo viên mầm non dạy các lớp 5-6 tuổi về
vấn đề tổ chức hoạt động học theo chủ đề nhằm phát triển tính sáng tạo của
trẻ 5-6 tuổi.
- Nội dung nghiên cứu: Nhận thức và thái độ của giáo viên về tính sáng
tạo cho trẻ 5-6 tuổi.Quy trình tổ chức và biện pháp tổ chức hoạt động học theo
chủ đề nhằm phát triển tính sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi của giáo viên mầm non.
Những thuận lợi và khó khăn của giáo viên khi tổ chức hoạt động học theo
chủ đề nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi.
- Cách tiến hành: Xây dựng phiếu hỏi và phiếu cho các giáo viên đang
dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi
7.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Mục đích: Nhằm kiểm chứng giả thuyết khoa học và kiểm tra tính khả
thi và hiểu quả của quy trình và biện pháp tổ chức chức hoạt động học theo
chủ đề nhằm phát triển khả năng sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi đã đề xuất.
- Nội dung nghiên cứu: Quy trình và biện pháp tổ chức chức hoạt động
học theo chủ đề đã đề xuất để xác định hiệu quả và tính khả thi của những
biện pháp đó nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non

đã xây dựng.Trên cơ sở đó có những kiến nghị sư phạm hợp lý để nâng cao
hiệu quả hoạt động của trẻ trong hoạt động học nhằm phát triển tính sáng tạo
của trẻ ở trường mầm non.
- Cách thức tiến hành: Áp dụng quy trình các biện pháp đề xuất nghiên
cứu điển hình trong 1 năm học.
7.2.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:

12


Nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm của giáo viên và chuyên gia về
cách tổ chức hoạt động học theo chủ đề nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi để thu thập thông tin làm cơ sở cho việc triển khai đề tài.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu
Chúng tôi sử dụng một số các công thức toán thống kê: tính giá trị trị
trung bình, tính phương sai, độ lệch chuẩn ... để xử lí kết quả nghiên cứu.
- Phần mềm SPSS
8. DỰ KIÊN CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phục lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề
đề nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
Chương 2: Thực trạng biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề đề
nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
Chương 3: Đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề đề
nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi và thực nghiệm.
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phục lục


13


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC THEO CHỦ ĐỀ
NHẰM PHÁT TRIỂN TÍNH SÁNG TẠO CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI
Ở TRƯỜNG MẦM NON

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1
Những nghiên cứu ở nước ngoài
Dạy học theo chủ đề xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX, mục
tiêu của nó hướng tới việc chuẩn bị cho đứa trẻ bước vào cuộc sống – xã hội,
giúp cho chúng có thể giải quyết được các tình huống, hoàn cảnh cụ thể có ý
nghĩa trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Đại diện cho trường phái dạy học
theo chủ đề là nhà tâm lý giáo dục người Bỉ Ovide Decroly. Theo ông, tự
nhiên xã hội và những vấn đề đời sống thực tại, những tình huống thường
ngày tạo nên những điểm xuất phát của nội dung học tập, đó chính là các chủ
đề cho trẻ quan sát, khám phá liên hệ với thực tiễn.
Thứ nhất: Những nghiên cứu về hoạt động học theo chủ đề của các
nước trên thế giới.
Dạy học theo chủ đề coi trọng hứng thú và sử dụng trò chơi dạy học
theo chủ đề là những quan điềm trong dạy trẻ của Ovide Decroly. Ông đã
mở “Trường học theo cho cuộc sống và do cuộc sống” vào năm 1907 tại
thành phố Hecmitagio và cho rằng “phải chuẩn bị cho đứa trẻ vào cuộc
sống”
Một số nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn giáo dục mầm non trên thế
giới và các nước trong khu vực đang tìm tòi và xây dựng hướng đi đúng đắn
cho việc tổ chức hoạt động học tập tích hợp theo chủ đề ở trường mầm non
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục giúp nhanh chóng thích ứng, hòa nhập

tích cực vào các hoạt động trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Giáo dục
mầm non (Early Chidhood Educatison) ở nhiều nước trên thế giới( Anh, Mỹ,
Úc, Pháp, Singapo, Hàn Quốc….) nhìn nhận đứa trẻ như một thực thể tích
hợp ( The Whole Child ), và bản thân trẻ trong cuộc sống, lĩnh hội những
kiến thức trong môi trường mà ở đó có tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội và
khoa học đan quyện vào nhau tạo thành một môi trường sống phong phú
xung quanh trẻ. Một trong những mục tiêu giáo dục ở trường mầm non hiện
14


nay là giáo dục trẻ cách sống và hòa nhập với môi trường một cách tích cực
có hiệu quả. Hiện nay nhiều nước trên thế giới như Anh Pháp Thủy Điển,
Nhật Bản quan tâm đến sự phát triển nhận thức của trẻ nhưng không nhấn
mạnh vào kĩ năng đọc và viết, tính toán, quan tâm đến ý tưởng của trẻ, sự
suy nghĩ của chúng và sự chia sẻ những ý tưởng đó với cô giáo với bạn bè.
Chương trình giáo dục ở Úc và Zealand được xây dựng theo quan điểm
của đứa trẻ là trung tâm. Mục tiêu chương trình nhằm hình thành ở những
phẩm chất chung chứ không nhấn mạnh vào việc tiếp thu các kĩ năng, kiến
thức đơn lẻ. Nội dung học theo chủ đề gần gũi cuộc sống thực của trẻ. Giáo
dục mầm non ở Hàn Quốc, Singapo chuyển từ nền sư phạm sao chép sang
một nền giáo dục cho phép sự linh hoạt và hợp tác theo quan điểm hướng
vào trẻ, dành cho trẻ chăm sóc và dạy dỗ tốt nhất, cho phép trẻ tự do lựa
chọn hoạt động, có nhiều cơ hội chơi, giáo tiếp bằng ngôn ngữ phù hợp với
sự phát triển cho phép trẻ là người học tích cực.
Xu hướng tổ chức giáo dục mầm non ở các nước Phương Tây trong
giai đoạn hiện nay: (Anh, Pháp, Thủy Điển, Mỹ,…): Một trong những xu
hướng của giáo dục phương Tây là “ Lấy trẻ làm trung tâm” của quá trình
giáo dục hay xu hướng giáo dục hướng vào đứa trẻ “vì lợi ích của chính bản
thân đứa trẻ.”
Khi tổ chức hoạt động giáo dục cho trẻ nhà giáo dục không áp đặt trẻ

theo ý muốn chủ quan của họ mà luôn luôn cho trẻ tự do chọn các góc chơi,
tự do hoạt động theo nhu cầu, hứng thú của mình. Tạo cơ hội tạo điều kiện
cho trẻ được trải nghiệm, được thực hành được chia sẻ, được khám phá thế
giới muôn hình muôn vể xung quanh chúng. Họ cùng trẻ chia sẻ những ý
tưởng tăng cường sự hợp tác giữa giáo viên và trẻ.
Nhà giáo dục với tư cách là thang đỡ điểm tựa của trẻ, trong quá trình
giáo dục trẻ, giáo viên quan tâm đến dòng suy nghĩ của trẻ hơn là những điều
trẻ hiểu biết.Họ quan tâm đến cách dạy trẻ học như thế nào hơn là cho trẻ học
cái gì.Họ tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ tích cực hoạt động.
Các nhà giáo dục ở phương Tây rất quan tâm đến sự phát triển nhận thức
của trẻ nhưng không nhấn mạnh vào các kĩ năng đọc, viết, tính toán và luôn

15


tạo điều kiện kích thích trẻ tính tích cực và óc sáng tạo của trẻ trong hoạt
động của chúng ở trường mầm non.
Các nhà giáo dục mầm non đều thống nhất quan điểm cho rằng, trẻ ở
lứa tuổi mầm non học tốt nhất là học qua chơi và coi chơi là hoạt động chính
của trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Vì thế các nước này, trẻ chơi là chủ yếu,
trẻ học qua chơi . Trẻ chơi và được học trong môi trường hoạt động đa dạng
phong phú, và hấp dẫn dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Xu hướng giáo dục mầm non ở Nga: Từ những năm 90 thế kỉ XX trở
lại đây, xu hướng giáo dục mầm non có một số thay đổi cách tiếp cận trong
tư tưởng và nội dung giáo dục trẻ, những quan điểm của một số nhà giáo dục
phương Tây như M.Moontessori được khôi phục và được ứng dụng rộng rãi
ở các trường mầm non của Nga.
Coi trọng phát huy tính tích cực, tính sáng tạo của trẻ trong các hoạt
động đặc biệt hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Quan
tâm đến đặc điểm cá nhân của từng trẻ nhiều hơn, tạo cơ hội cho nhóm trẻ và

từng trẻ phát triển tốt nhất. Giáo viên là người trợ giúp, điều khiển, tạo môi
trường cho trẻ hoạt động.
Xu thế xã hội hóa giáo dục ở nước Nga được thể hiện rõ giữa gia đình
và nhà trường mầm non và các lực lượng xã hội có sự phối hợp chặt chẽ
trong công tác giáo dục mầm non.
Xu hướng giáo dục mầm non ở một số nước trong khu vực Châu Á,
Thái Bình Dương ( Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Niu Dilan, Xingapo…):Giáo
dục mầm non một số nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
( Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Niu Dilan, Xingapo…) đi theo hướng giáo dục
tích hợp theo chủ đề. Tiếp cận tích hợp theo chủ đề chính là cách thức cung
cấp theo định hướng mở cho giáo viên tổ chức các hoạt động cho trẻ xoay
quanh chủ đề . Giáo dục tích hợp theo chủ đề theo nguyên tắc giáo dục vào
những đứa trẻ “hướng vào đứa trẻ” tổ chức hoạt động phải xuất phát từ nhu
cầu và hứng thú của chính trẻ.
Với vai trò là người tổ chức hướng dẫn giáo viên cùng với trẻ đưa ra ý
tưởng cho từng chủ đề và trong mỗi chủ đề giáo viên xác định rõ mục tiêu
cần giáo dục cho trẻ cả về sức khỏe, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, đạo đức-

16


xã hội tình cảm thẩm mĩ và mục tiêu giáo dục đặt ra phải dựa trên khả năng
thực của trẻ.
Chương trình giáo dục được xây dựng trên quan điểm tích hợp theo chủ
đề gần gũi với cuộc sống thực của trẻ.
Mục tiêu của chương trình giáo dục hướng đến hình thành cho trẻ những
năng lực chung giúp trẻ có khả năng giải quyết những tình huống, hoàn cảnh
có ý nghĩa với trẻ trong cuộc sống chứ không nhằm hình thành những kiến
thức kĩ năng đơn lẻ.
Chương trình được vận dụng mềm dẻo linh hoạt phù hợp từng đặc điểm

của cá nhân, từng vùng miền …giúp trẻ tích cực hứng thú trong các hoạt
động.
Nhà giáo dục quan tâm xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đa
dạng hấp dẫn, tạo điều kiện tạo cơ hội cơ may cho trẻ trong hiện tại và trong
tương lai, hợp tác, giúp đỡ, cùng học, cùng chơi và chia sẻ với trẻ.
Xu hướng giáo dục mầm non ở Nhật Bản thể hiện rõ quan điểm không
dạy trẻ học chữ và làm toán. Giáo dục trẻ thông qua hoạt động chơi, coi chơi
là hoạt động trung tâm của trẻ mẫu giáo.Trong quá trình giáo dục, lấy trẻ làm
trung tâm và đặt trẻ trong một môi trường sống và qua đó để giáo dục môi
trường cho trẻ. Phương pháp và hình thức giáo dục đa dạng phong phú, cách
làm của các trường rất khác nhau( có trường chỉ chơi và có trường chơi và
học….)
Giáo dục mầm non Nhật không có sự khác biệt giữa các vùng miền,
giáo dục mầm non bìn đẳng cho mọi trẻ. Xu hướng xã hội hóa giáo dục mầm
non rất cao. Giáo dục mầm non của Nhật được tự chủ không có chương trình
chung do nhà nước quy định mà mỗi trường tự xây dựng cho chương trình
thích hợp với sự phát triển trí tuệ của trẻ và thể chất cho trẻ nhỏ và phù hợp
hoàn cảnh của trường và cộng đồng địa phương noi đó cũng như phù hợp với
luật giáo dục và chuẩn quốc gia về chương trình giáo dục mầm non theo 5
mục tiêu và nội dung ( giáo dục sức khỏe, giáo dục quan hệ với quan hệ xung
quanh , giáo dục ngôn ngữ, giáo dục môi môi trường và biểu đạt.
Thứ hai: Những nghiên cứu tính sáng tạo của trẻ em
J.P Guilfd cho rằng, sáng tạo không giới hạn ở các thiên tài mà có ở tất
cả mọi người với những mức độ khác nhau. Chính vì vậy, bên cạnh những
17


nghiên cứu về tính sáng tạo của con nười nói chung, có nhiều nhà khoa học
còn đi sâu nghiên cứu tính sáng tạo của trẻ em. Bởi muốn cho đứa trẻ trở
thành nhà sáng chế trong tương lai thì nó phải được đào tạo từ khi ngồi trên

ghế nhà trường.
Người đầu tiên nghiên cứu về sự sáng tạo của trẻ em trước tuổi học trò
là E.K Srarakweartherova( Hunggari). Theo tác giả sử thể hiện đặc chưng
của sáng tạo chính là sự tự do về tâm lý, trẻ tự do thể hiện cái tôi của mình
trong nhận thức, tìm hiểu và hành động với các sự vật, hiện tượng trong môi
trường xung quanh.
L.X Vưgotxki thì cho rằng: “ Mọi hoạt động của trí tưởng tượng bao
giờ cũng có một lịch sử rất dài” [38.31]. Do đó hoạt động sáng tạo giúp cho
trẻ có cơ hội được bộc lộ và viết lên lịch sử tưởng tượng của mình. Sự phát
triển của trí tưởng tương ấy sẽ là yếu tố quan trọng giúp trẻ trưởng thành
người sáng tạo sau này.
Đại diện cho những nghiên cứu về khả năng sáng tạo của trẻ em còn có
Getzels và Jackson, qua các thực nghiệm của các nhà khoa học đã chứng
minh rằng, những học sinh có tính sáng tạo cao trong học tập thường ít gắn bó
những chủ đề mà thầy cô giáo nêu lên. Chúng thường có các liên tưởng lạ,
tách khỏi chủ đề đã nêu, chúng thường giữ bản sắc riêng cho mình. Getzels và
Jackson cũng đã cố gắng đo mối quan hệ giữa tư duy sáng tạo (Creativity) và
trí thông minh (Intelligence) và cũng nhận thấy rằng tương quan giữa chúng
không cao.Cùng chung với quan điểm này M.C Guires (1963) và Flesohers
(1963) cho rằng, những trẻ có chỉ số IQ cao ( trí thông cao từ 115 hoặc 120
trở lên) thường có kiểu tư duy không thích hợp với cách tư duy sáng tạo.
Tuy nhiên nhưng nghiên cứu sáng tạo của trẻ em còn chưa nhiều chủ
yếu quan tâm đến nghiên cứu mối tương quan giữa trí thông minh và sự sáng
tạo và để có sự sáng tạo thì trẻ cần phải có trí tưởng tượng phong phú, trí
tưởng tưởng là cơ sở cho hoạt động sáng tạo của trẻ em.
Như vậy, mặc dù khoa học về sáng tạo đã có từ rất lâu, tuy vậy đến
mãi thế kỉ XX cho đến nay, khi mà mọi lĩnh vực khoa học khác có những
bước phát triển vượt bậc, khi mà sức sáng tạo của con người được thăng hoa
thành những thành tựu khoa học vĩ đại, khi mà sáng tạo phát huy được vai trò


18


to lớn của nó đối với sự phát triển thế giới, thì khi đó con người ta mới đặt
nhiều câu hỏi về và sáng tạo làm thế nào để phát huy tối đa sức sáng tạo của
con người. Lúc này khoa học sáng tạo mới thực sự được quan tâm nghiên cứu
một cách bài bản trên khắp thế giới.
2
Những nghiên cứu ở Việt Nam
Trong bối cảnh chung của quá trình đổi mới ở nước ta, đổi mới giáo
dục được coi là quốc sách hàng đầu, được nhận thức như một đòn bẩy cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.Cuối những năm 90 của thế kỉ XX, vấn đề đổi mới
giáo dục mầm non càng cấp bách hơn bao giờ hết. Chương trình cải cách bộc
lộ nhiều hạn chế, nó không còn phù hợp với trẻ Việt Nam ngày nay cũng như
nó không hòa nhập với xu thế giáo dục mầm non thế giới, trong khu vực và
ngay cả trong nước.
Thứ nhất: Những nghiên cứu tổ chức hoạt động học theo chủ đề ở Việt
Nam
Từ những năm 1998-2002 chương trình giáo dục mầm non đổi mới
theo hướng tích hợp theo chủ đề.Chủ đề được thử nghiệm với một số trẻ mẫu
giáo lớn ở một số tỉnh thành. Từ năm 2002 cho đến nay được triển khai rộng
rãi ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo bé trong phạm vi hầu hết các tỉnh
thành trong cả nước.
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc
dân, đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam đầu thế kỉ XXI, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước như chủ động, thích ứng sáng tạo, linh hoạt, dễ hòa
nhập dễ chia sẻ, dễ hợp tác..tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham gia vào cuộc
sống chuẩn bị tốt cho trẻ vào học lớp 1 và các bậc học sau này. Cùng với sự
phát triển của xã hội trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất

nước. Sự nghiệp giáo dục mầm non đòi hỏi hướng đi nhất định nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục, thực hiện mục tiêu giáo dục mầm đã đề ra. Một
trong những nhân tố quyết định chất lượng giáo dục mầm non là tổ chức các
hoạt động giáo dục cho trẻ mầm non.
Chương trình giáo dục mầm non xây dựng theo quan điểm “lấy trẻ làm
trung tâm”, còn giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, tạo điều kiện và tạo
19


cơ hội cho trẻ tích cực, phát huy sáng tạo của trẻ cũng như tạo cơ hội cho
người giáo viên mầm non chủ động, sáng tạo trong việc lên kế hoạch và tổ
chức các hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non.
Chương trình giáo dục mầm non đổi mới theo hướng tích hợp trong
những năm gần đây được kế thừa và tiếp thu nền giáo dục trẻ tiên tiến của các
nước trên thế giới và các nước trong khu vực và chương trình này phù hợp
với đặc điểm phát triển của trẻ mầm non Việt Nam ngày nay và hướng đến
mục tiêu xây dựng cơ sở ban đầu cho việc hình thành nhân cách toàn diện trẻ.
Xu hướng đổi mới giáo dục mầm non ở nước ta hiện nay, nhận thức
được sự cần thiết phải đổi mới để phù hợp xu hướng giáo dục mầm non chung
trên thế giới trong khu vực đồng thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn giáo dục
mầm non ở trong nước từ cuối năm 90 của thế kỉ XX bậc học của giáo dục
mầm non Việt Nam đã đổi mới giáo dục tích hợp theo chủ đề.
Quan điểm tích hợp trong giáo dục mầm non nước ta đã được hiểu như
cách tiếp cận, một phương cách hợp lý liên kết, xâm nhập đan xen những quá
trình sư phạm tạo thành một hệ thống nhất, tác động đồng bộ đến đưa trẻ như
một chỉnh thể toàn vẹn nhờ đó hiểu quả được nhân lên.
Việc tích hợp lồng ghép đan cài các hoạt động của trẻ vào nhau theo
các chủ đề gần gũi quen thuộc trên cơ sở lấy hoạt động chủ đạo của trẻ mầm
non. Theo quan điểm tích hợp thì việc xây dựng chương trình giáo dục mầm
non mới của nước ta hướng tới mục tiêu hình thành cho trẻ nhưng năng lực

chung góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ đặt cơ sở nền tảng ban
đầu cho việc phát triển nhân cách ở các giai đoạn tiếp theo.
Xu hướng giáo dục tích hợp theo chủ đề ở bậc học mầm non có những
nét chung giống như giáo dục mầm non của một số nước trên thê giới. Trong
tổ chức các hoạt động học theo chủ đề, trẻ và giáo viên cùng tham gia khám
phá, cùng học cùng chơi, cùng giải quyết vấn đề và cùng đi tới những kết luận
cụ thể. Người giáo viên giữ vai trò tổ chức hướng dẫn, trợ giúp trẻ trong các
hoạt động của chúng nhằm phát huy tính tích cực của trẻ, tạo cơ hội thuận lời
cho trẻ hoạt động theo nhu cầu hứng thú của chúng. Khi tổ chức hoạt động
học theo chủ đề người giáo viên phải quan tâm đến tiềm năng của trẻ hơn là
tạo những cơ hội tương ứng với mức độ phát triển của trẻ. Giáo viên chủ động

20


sáng tạo trong việc tổ chức hoạt động giáo dục cho trẻ ở trường mầm non
( giáo viên tự lấp kế hoạch, thiết kế môi trường hoạt độngcho trẻ, lựa chọ và
vận dụng phương pháp, biện pháp, hình thức giáo dục…) Dạy học tích hợp
theo chủ đề nhằm hướng trẻ đến: tăng cường cho trẻ khám phá thế giới xung
quanh,bằng các giác quan, tư duy và óc tưởng tượng, quan tâm đặc điểm cá
nhân trẻ, các biệt hóa trong công tác giáo dục, tổ chức các hình thức hoạt
động cá nhân nhóm, tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm và được lĩnh hội
nhiều cách khác nhau..
Dạy học theo chủ đề giúp cho trẻ, tạo điều kiên cho trẻ rèn luyện, vận
dụng những điều hiểu biết vào hoàn cảnh tình huống góp phần hình thành kĩ
năng thói quen nhanh hơn đồng thời hình thành cho trẻ những thích ứng
nhanh với môi tường và điều kiện mới.Đồng thời phát huy được cho trẻ
những tính độc lập, chủ động sáng tạo và tích cực trong các hoạt động thực
tiễn.
Bên cạnh đổi mới chương trình giáo dục mầm non theo hướng tích

hợp ngành học giáo dục mầm non còn tiến hành đa dạng hóa các loại hình
giáo dục mầm non. Tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục mầm non, đẩy
mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường và các lực lượng xã hội
khác trong công tác chăm sóc giáo dục. Thực hiện bình đẳng, công bằng với
trẻ, tạo điều kiện cho trẻ được phát triển.
Thứ hai: Những nghiên cứu tính sáng tạo ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những hoạt động liên quan đến khoa học về lĩnh vực sáng
tạo mới thật sự bắt đầu vào thập kỉ 70 của thế kỷ XX, trước đó những hoạt
động này chưa có tổ chức cao. Tuy vậy, những nghiên cứu về sáng tạo cho
đến nay vẫn còn khá ít.Những hoạt động ban đầu còn mang tính chất tự phát
dựa trên nhiệt tình và sáng kiến của một số cá nhân, đoàn thể và cơ quan,
chưa có tổ chức thống nhất như đối với môn khoa học khác.
Trong lĩnh vực giáo dục mẫu giáo gần đây đã đề cập đến như: “Ảnh hưởng
của tri giác tới tưởng tượng sáng tạo trong tạo hình của trẻ mẫu giáo”, “ Mối
quan hệ tính tích cực nhận thức và sự phát triển tính sáng tạo trong hoạt động
tạo hình của trẻ 5-6 tuổi”… của Lê Thanh Thủy. Trong số đó, Những nghiên
cứu của tác giả Lê Thanh Thủy đã đóng góp cơ sở lý luận quan trọng trong

21


việc nghiên cứu về tính sáng tạo của trẻ mầm non. Ngoài ra còn một số luận
văn thạc sĩ: Nghiên cứu mức độ sáng tạo của trẻ 5-6 tuổi trong hoạt động tạo
hình” của Nguyễn Thị Yến; “Một số biện pháp phát huy khả năng sáng tạo
của trẻ 5-6 tuổi trong vận động theo nhạc ở trường mầm non” của Lê Thị
Hoàng Trang; “Tiềm năng sáng tạo và biểu hiện của nó trong vận động theo
nhạc của trẻ 5-6 tuổi” của Phạm Thu Hương; Phát huy tính sáng tạo của trẻ 56 tuổi trong trò chơi lắp ghép xây dựng từ các nguyên vật liệu thiên nhiên và
phế liệu” của Vũ Thị Kiều Trang,Phạm Thu Hoa,Nguyễn Thị Huệ, Trần Thị
Nga nghiên cứu khả năng sáng tạo của trẻ mẫu giáo và học sinh thông qua
hoạt động học và hoạt động vui chơi của trẻ.

Có thể kể ra một số nghiên cứu tiêu biểu như: “Rèn luyện khả năng sáng
tạo toán học ở nhà trường phổ thông” (Hoàng Chúng, 1964), “Làm thế nào để
sáng tạo” (Phan Dũng, 1992), “Khơi dậy tiềm năng sáng tạo” Nguyễn
CảnhToàn (chủ biên), 2004). Một số tác giả khác cũng rất quan tâm đến vấn
đề sáng tạo như Vũ Dương Thụy (2003), Trần Hiệp, Đỗ Long (1990), Tôn
Thân (1995). Ngoài ra còn một số tác giả có bài giảng về sáng tạo như: “Tâm
lý học sáng tạo” (Nguyễn Huy Tú, 1996), “Tâm lý học sáng tạo” (Đức Uy,
1999),…
Trong những nghiên cứu trên, một số nghiên cứu tập trung trong lĩnh
vực tâm lý học: Tác giả Đức Uy trong cuốn “Tâm lý học sáng tạo”[112] của
mình, đã đề cập đến năm vấn đề. Thứ nhất, ông cho rằng tâm lý học sáng tạo
chính là tâm lý học phát triển. Thứ hai, cái chính yếu của sáng tạo là sự mới
mẻ của nó. Cuối cùng, ông đã phân tích một số phẩm chất cơ bản của nhân
cách sáng tạo và năng lực sáng tạo. Tác giả không đi vào chi tiết cấu trúc, các
thành phần, yếu tố của ST mà hệ thống hóa các thành tựu về tâm lý học sáng
tạo, giúp bạn đọc hiểu thế nào là sáng tạo, vì sao con người vốn có bản tính
đổi mới, sáng tạo và làm gì để phát hiện và tăng cường năng lực sáng tạo của
cá nhân và cộng đồng.
Trong cuốn “Tâm lý học sáng tạo”[100], tác giả Nguyễn Huy Tú cho
rằng: “Sáng tạo thể hiện khi con người đứng trước hoàn cảnh có vấn đề. Quá
trình này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con người trên cơ sở
kinh nghiệm của mình và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng mới, độc
22


đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ
được các giải pháp truyền thống để đưa ra những giải pháp mới độc đáo và
thích hợp cho vấn đề đặt ra”[100, tr5)]. Cuốn sách cũng tập trung vào các vấn
đề chung của sáng tạo như: thế nào là sáng tạo, quá trình sáng tạo, sản phẩm
sáng tạo.

Một số khác tập trung trong lý luận dạy học: Tác giả Hoàng Chúng
trong cuốn “Rèn luyện khả năng sáng tạo toán học ở nhà trường phổ
thông”[6], đã tập trung nghiên cứu vấn đề rèn luyện cho HS phát triển các
phương pháp suy nghĩ cơ bản trong sáng tạo toán học như đặc biệt hóa, tổng
quát hóa, tương tự hóa và cho rằng các phương pháp này có thể vận dụng
trong giải toán để mò mẫm, dự đoán kết quả, tìm ra phương hướng giải toán,
để mở rộng, đào sâu và hệ thống hóa kiến thức. Nó giúp ta thấy được sợi dây
liên hệ giữa nhiều vấn đề khác nhau và giúp phát triển ST của chính chủ thể.
Tuy nhiên thực tế hiện nay, những nghiên cứu về biện pháp tổ chức hoạt
động học theo chủ đề nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
còn ít. Với nhận thức như vậy chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu về biện
pháp tổ chức hoạt động học theo chủ đề nhằm phát triển tính sáng tạo cho trẻ
mẫu giáo 5-6, qua đây làm phong phú thêm thông tin về lý luận và thực tiễn
của đề tài này.
Tóm lại, đến nay, ở cả trong nước và ngoài nước, đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề sáng tạo trẻ. Tuy nhiên theo tác giả Nguyễn Huy
Tú (2006): “Nhìn chung, việc nghiên cứu về tính sáng tạo ở nước ta mới chỉ
là manh nha. Điều này tất yếu gây những hạn chế nhất định đến chất lượng
giáo dục, đào tạo. Do đó ở một chừng mực nhất định cũng chưa phát huy
được cao độ những tinh hoa sáng tạo của thế hệ trẻ. Những thông tin về mức
độ tiềm năng của trẻ em rất cần thiết cho việc định ra chiến lược giáo dục...”
[102]. Để đào tạo ra những con người ấy, ngay từ lứa tuổi mầm non chúng ta
phải đặc biệt quan tâm phát triển tính sáng tạo cho trẻ, bởi giai đoạn này là
nền móng.Vì vậy, cần có những công trình nghiên cứu tiếp tục về lĩnh vực
sáng tạo, nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của giáo dục: đào tạo thế hệ
trẻ năng động sáng tạo.viết lại
2
Lý luận về sáng tạo
23



Khái niệm về sáng tạo
Có rất nhiều giải thích về khái niệm về sáng tạo, chẳng hạn như:
- Vugotxki L.X. cho rằng: Hoạt động sáng tạo là bất cứ hoạt động nào
của con người tạo ra được cái gì mới, không kể rằng cái được tạo ra ấy là một
vật cụ thể hay là sản phẩm của trí tuệ hoặc tình cảm chỉ sống và biểu lộ trong
bản thân con người [19, tr84].
- Theo Torrance P. E: Sáng tạo là quá trình xác định các giả thuyết,
nghiên cứu chúng và tìm ra kết quả. Ông cho rằng sáng tạo “là quá trình trở
nên nhạy cảm hay nhận biết nhiều vấn đề, sự thiếu hụt hay lỗ hổng trong kiến
thức, sự thiếu hụt các yếu tố hay sự thiếu hòa hợp,v.v... cùng nhau đưa đến các
mối quan hệ mới với những thông tin hiện tại có giá trị từ đó dẫn đến tìm kiếm
những phương án giải quyết, những phỏng đoán, công thức hóa về vấn
đề”[140, tr102].
- Nguyễn Đức Uy cho rằng: “Sáng tạo là sự đột khởi thành hành động
của một sản phẩm liên hệ mới mẻ, nảy sinh từ sự độc đáo của một cá nhân và
những tư liệu, biến cố, nhân sự, hay những hoàn cảnh của đời người ấy”[112,
tr9]. Quan điểm này cho rằng không có sự phân biệt về sáng tạo, nghĩa là sáng
tạo dù ít, dù nhiều đều là sáng tạo.
- Nguyễn Huy Tú (1996), trong “Đề cương bài giảng Tâm lý học sáng
tạo”, định nghĩa sáng tạo như sau: “Sáng tạo thể hiện khi con người đứng
trước hoàn cảnh có vấn đề. Quá trình này là tổ hợp các phẩm chất và năng lực
mà nhờ đó con người trên cơ sở kinh nghiệm của mình và bằng tư duy độc lập
tạo ra được ý tưởng mới, độc đáo, hợp lý trên bình diện cá nhân hay xã hội. Ở
đó người sáng tạo gạt bỏ được các giải pháp truyền thống để đưa ra những giải
pháp mới độc đáo và thích hợp cho vấn đề đặt ra”[101, tr 5].
- Theo từ điển triết học, “Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người
tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần, mới về chất. Các loại hình sáng tạo
được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học, kĩ thuật, văn học,
nghệ thuật, tổ chức, quân sự,... Có thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực

của thế giới vật chất và tinh thần”[112, tr 27 - 28].
Từ các khái niệm về sáng tạo, chúng tôi nhận thấy mặc dù sáng tạo
được giải thích ở các góc độ khác nhau nhưng các tác giả đều thống nhất cho
rằng: sáng tạo là một thuộc tính, một phẩm chất trí tuệ đặc biệt của con người;
1

24


hoạt động sáng tạo diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực; bản chất của sáng
tạo là con người tìm ra cái mới, cái độc đáo và có giá trị xã hội. Đây là một
điểm chung mà các tác giả đều nhấn mạnh nhưng được nhìn dưới nhiều góc độ
khác nhau, có tác giả quan tâm đến cái mới của sản phẩm hoạt động, có tác giả
lại quan tâm đến cách thức, đến quá trình tạo ra cái mới đó. Song cái mới cũng
có nhiều mức độ, có cái mới đối với toàn xã hội, có cái mới chỉ đối với bản
thân người tạo ra nó. Điểm chung nữa ở các tác giả là đều nhấn mạnh đến ý
nghĩa xã hội của sản phẩm sáng tạo.
Trong luận án này chúng tôi quan niệm: Sáng tạo là tư duy có khuynh
hướng phát hiện và giải thích bản chất sự vật theo lối mới, hoặc tạo ra ý tưởng
mới, cách giải quyết mới không theo tiền lệ đã có.
1.2.2. Bản chất của sáng tạo
Khi tìm hiểu về hoạt động sáng tạo các nhà nghiên cứu đã xác định bản
chất của hoạt động này ở những vẫn đề sau:
*Thứ nhất hoạt động sáng tạo của con người mang bản chất xã hội
Trong bài báo “Chìa khóa thành công” Charler Brower đã viết “Nhu cầu
kích thích hoạt động sáng tạo là lòng ham hiểu biết cái mới và không bằng
lòng cái hiện có. Nó xuất phát từ lòng hiếu kì và sự bất toại”
Như vậy hoạt động sáng tạo xuất phát từ chính nhu cầu của bản thân mỗi
con người và nhu cầu của xã hội nhằm giải quyết các tình huống đã đặt ra. Khi
xã hội phát triển các điều kiện thực tiễn không còn đáp ứng một cách phù hợp

cho nhu cầu xã hội thì buộc con người phải tìm ra cách giải quyết mới, hướng
đi mới hoặc cải biến cái cũ để phục vụ nhu cầu ấy.
Khả năng sáng tạo của con người không phải là trời phú, thiên bẩm.Nó
là sản phẩm của việc lĩnh hội và biến đổi những kinh nghiệm xã hội lịch sử do
loài người tạo ra trước đó.Do đó bất kì một sản phẩm, một cách thức nào
được tạo ra cho dù là bởi cá nhân, cũng đều mang bản chất xã hội. Nhà tâm lý
L.X.Vưgôtxki khẳng định: “ Sáng tạo là một quá trình thừa kế lịch sử, trong
đó bất cứ hình thức kế tiếp nào cũng được quy định bởi những hình thức
trước đó”. Ông chỉ rõ: “Bất cứ nhà phát minh nào, ngay cả thiên tài, bao giờ
cũng là cái cây mọc bên trong thời đại và trong môi trường của mình” [37 ;
86]

25


×