Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Vật chất và những hình thức tồn tại của vật chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.2 KB, 20 trang )

I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

1. Vật chất và những hình thức tồn tại của vật chất
a) Định nghĩa vật chất
Vật chất là một phạm trù cơ bản của triết học. Trong lịch sử hình thành
và phát triển của triết học, xoay quanh phạm trù này luôn luôn diễn ra cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
- Chủ nghĩa duy tâm phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật chất. Họ
cho rằng, vật chất là sản phẩm của ý thức, sự tồn tại và biến đổi của vật chất
là do ý thức (thượng đế, ý niệm tuyệt đối…) quyết định.
- Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại đã khẳng định vật chất tồn tại khách quan.
Nhưng do hạn chế bởi lịch sử, nên quan niệm về vật chất của họ còn mang tính
trực quan, cụ thể, cảm tính và họ thường đồng nhất vật chất với một dạng vật cụ
thể (đất, nước, lửa, không khí, nguyên tử…). Quan niệm về vật chất của các nhà
duy vật đã có ảnh hưởng lớn trong triết học và nhận thức nói chung kéo dài đến
cuối thế kỷ XIX.
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt thành tựu khoa học tự nhiên ra
đời đã làm đảo lộn những quan niệm cũ về vật chất, gây ra cuộc khủng hoảng
trong nhận thức của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Quan điểm triết học Mác - Lênin
- Định nghĩa vật chất của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”.
+ Vật chất: với tư cách là một phạm trù triết học có thuộc tính chung nhất
là “thực tại khách quan”, bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Nói đến vật chất là nói đến những gì đã và đang hiện hữu thực sự, bên
ngoài ý thức con người.
Vật chất là hiện thực chứ không phải hư vô và hiện thực này là khách
quan chứ không phải là hiện thực chủ quan (tức ý thức).
+ Vật chất là tất cả các sự vật, hiện tượng, quá trình mà khi tác động vào các


giác quan thì cho ta cảm giác.
Vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách quan của mình thông qua sự
tồn tại của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là thông qua các thực thể
Nói đến vật chất là nói đến thực thể, đến tính thực thể của nó. Tính thực thể
là một trong những đặc trưng chung của các sự vật, hiện tượng vật chất trong sự
khác biệt với các hiện tượng ý thức.
+ Vật chất: là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
1


Các loại hiện tượng vật chất tồn tại với tính cách là hiện thực khách quan,
không lệ thuộc vào hiện tượng tinh thần.
Vật chất là cái cấu thành nội dung của ý thức hay ý thức chẳng qua chỉ là
hình ảnh đã được cải biến của thế giới vật chất trong đầu óc con người.
- Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
+ Khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về
vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, do đó làm cho chủ nghĩa duy vật phát triển
lên một trình độ mới, trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng;
+ Tạo cơ sở khoa học cho quan niệm duy vật trong lĩnh vực xã hội, đó là
chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời cũng tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Là cơ sở khoa học, vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống chủ nghĩa duy
tâm và thuyết không thể biết một cách có hiệu quả.
+ Trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa
học trong nghiên cứu thế giới vật chất.
b) Những phương thức tồn tại của vật chất
Vận động của vật chất
- Khái niệm vận động: vận động là mọi sự biến đổi nói chung, là một
thuộc tính phổ biến của vật chất.
- Hình thức vận động cơ bản của vật chất:

+ Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
+ Vận động vật lý (vận động của các phân tử, hạt cơ bản, vận động điện
tử, các quá trình nhiệt, điện…)
+ Vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hoá hợp
và phân giải các chất)
+ Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường)
+ Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội của các
hình thái kinh tế - xã hội).
+ Đứng im: Ngoài ra, quá trình vận động còn bao hàm trong nó hiện
tượng đứng im. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì đứng im là một
trạng thái đặc biệt của vận động đó là sự vận động trong trạng thái cân bằng,
tức là những tính chất của vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản. Đứng im
chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời. Theo Ăngghen thì “mọi sự cân bằng
chỉ là tương đối và tạm thời”
Đứng im là tương đối, vì trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong
một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.
2


Đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó,
chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong
thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định
khi nó còn là nó chưa bị phân hóa thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn
định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển hóa tiếp theo.
Đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi
chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Theo Engels thì "vận động riêng
biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân
bằng riêng biệt
Không gian, thời gian

Vật chất luôn luôn vận động, nhưng vật chất vận động không ở đâu
ngoài không gian và thời gian. Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của
vật chất vận động.
- Không gian là phạm trù triết học dùng để chỉ hình thức tồn tại của vật chất
xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi dạng cụ thể của vật chất đều
tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài)
nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay
dưới, bên phải hay bên trái…) với những dạng vật chất khác.
- Thời gian là phạm trù triết học dùng để chỉ hình thức tồn tại của vật
chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các quá trình.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: không gian, thời gian mang tính chủ
quan, là sản phẩm chủ quan.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng: không gian, thời gian là những
cái bất biến, không phụ thuộc vào vật chất vận động.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: không gian, thời gian là khách
quan, là hình thức tồn tại của vật chất vận động, do vật chất vận động quy định.
Không gian có ba chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Thời gian có
một chiều từ quá khứ tới tương lai.
Không gian, thời gian đều vô cùng, vô tận.
2. Nguồn gốc, bản chất của ý thức
a) Nguồn gốc của ý thức
- Khái niệm: Ý thức là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, ý
thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có
sự cải biến sáng tạo.
Ý thức có 2 nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
3


- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:

+ Một là, phải có bộ óc người.
Do quá trình vận động, phát triển lâu dài của giới tự nhiên, làm xuất hiện
con người với bộ não phát triển cao. Từ đó, có sự ra đời của ý thức.
Như vậy, ý thức là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải là thuộc tính
của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt, được
tổ chức cao, đó là bộ óc con người.
+ Hai là, phải có thế giới khách quan tồn tại bên ngoài con người.
Thế giới khách quan là đối tượng, nội dung của ý thức. Không có thế giới
khách quan thì không có gì để ý thức phản ánh.
Như vậy, nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự tương tác giữa bộ óc người
và thế giới khách quan.
- Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con người nhờ lao
động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển
xã hội và ngay từ đầu đã mang bản chất xã hội.
+ Một là, ý thức được hình thành thông qua lao động, hoạt động thực tiễn của
con người.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người sử dụng công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để biến đổi, cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra
những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình.
+ Hai là, ý thức hình thành thông qua trao đổi ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có
ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.
Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin,
lưu truyền tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
b) Bản chất của ý thức
Bản chất: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
- Ý thức là cái phản ánh, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Nội

dung ý thức phản ánh là khách quan còn hình thức phản ánh là chủ quan. Ý thức
là cái vật chất ở bên ngoài “di chuyển” vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi ở trong đó. Trong ý thức sự phù hợp giữa tri thức với khách thể chỉ là
tương đối.
- Ý thức có tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội:
4


+ Ý thức là kết quả của quá trình phản ánh có định hướng, có mục đích rõ ràng.
Là hiện tượng xã hội, hình thành, phát triển gắn với hoạt động thực tiễn xã hội. Sự
phản ánh của ý thức về thế giới hiện thực ngày càng sâu sắc, từng bước xâm nhập
vào các tầng bản chất, quy luật.
+ Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú, từ những cái đã biết ý
thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật.
+ Có thể tưởng tượng ra cái không thể có trong thực tế; có thể tiên đoán,
dự báo tương lai; có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả
thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao.
- Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên
quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người là quá trình năng
động, sáng tạo:
- Phản ánh của ý thức thống nhất ba mặt:
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh;
+ Mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần;
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan.
- Sáng tạo là thuộc tính đặc trưng bản chất nhất của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của
sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và
phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
“Vật chất và ý thức là hai phạm trù đối lập nhau về bản chất, nhưng giữa

chúng luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó vật chất quyết định ý
thức, ý thức có tính độc lập tương đối và có vai trò tác động trở lại to lớn đối với
việc cải tạo thế giới khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn của con người.”
- Vật chất quyết định ý thức: Về cả nguồn gốc, nội dung, bản chất và
khuynh hướng vận động phát triển của ý thức.
+ Vật chất tồn tại khách quan, có trước, sinh ra ý thức. Ý thức có sau, sinh ra từ vật
chất;
+ Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não
trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
+ Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được
phản ánh.
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào bộ óc con người; không
có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc
thì hoạt động ý thức không thể xảy ra;
5


+ Khi thế giới khách quan vận động, biến đổi và phát triển sẽ dẫn đến sự
vận động, biến đổi và phát triển của ý thức.
- Ý thức tác động trở lại vật chất: thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
+ Vai trò của ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới là khác nhau, phụ
thuộc vào chất lượng của sự phản ánh là đúng đắn hay sai lầm:
Một là, ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan thì thúc đẩy hoạt
động của con người trong cải tạo thế giới;
Hai là, ý thức phản ánh sai lệch thế giới khách quan sẽ kìm hãm hoạt
động cải tạo thế giới của con người.
+ Sự tác động của ý thức đối với vật chất phụ thuộc vào các điều kiện
khách quan và chủ quan của hoạt động thực tiễn.
Con người dựa trên những tri thức, hiểu biết về thế giới khách quan, quy

luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp, ý chí, quyết
tâm thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã xác định.
+ Tính năng động, sáng tạo của ý thức là rất lớn, nhưng nó không thể vượt quá
tính quy luật khách quan của những tiền đề vật chất đã xác định, mà phải dựa vào
các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Như vậy: Nắm vững mối quan hệ biện chứng vật chất - ý thức trong
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xây dựng quan điểm tôn
trọng khách quan, đồng thời phát huy năng động chủ quan để nắm bắt và hành
động theo quy luật khách quan. Chống quan điểm chủ quan, duy ý chí, phiêu
lưu, mạo hiểm, hoặc thụ động, trông chờ.
II. NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT

1. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
a) Nguyên lý mối liên hệ phổ biến
Các quan điểm khác nhau
- Chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo: thừa nhận có mối liên hệ phổ biến, nhưng
nguồn gốc của nó là từ thần linh, thượng đế, “Ý niệm tuyệt đối” sinh ra.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình coi các sự vật, hiện tượng trong thế giới là
cô lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia, giữa
chúng không có liên hệ, ràng buộc, ảnh hưởng, chuyển hoá lẫn nhau, hoặc
nếu có thì chỉ là sự liên hệ hời hợt bên ngoài, có tính ngẫu nhiên, chứ không
có liên hệ tất yếu bên trong.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:

6


Bản chất thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất; mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ qua lại, thâm nhập

và chuyển hoá lẫn nhau.
- Khái niệm liên hệ: liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định,
sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa
các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
- Tính chất mối liên hệ:
+ Mối liên hệ mang tính khách quan:
Các mối liên hệ không phụ thuộc vào ý thức của con người, mà nó là vốn
có của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất, bắt nguồn từ tính thống
nhất vật chất của thế giới;
Liên hệ bao giờ cũng là liên hệ của các sự vật, hiện tượng, quá trình.
Sự vật, hiện tượng thay đổi thì sự liên hệ của chúng cũng thay đổi.
+ Mối liên hệ mang tính phổ biến:
Trong giới tự nhiên, mối liên hệ thể hiện ở sự tác động lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng trong quá trình tiến hoá từ vô cơ đến hữu cơ và quá trình xuất
hiện sự sống;
Trong xã hội, mối liên hệ thể hiện ở sự tác động qua lại giữa các mặt của
đời sống xã hội với tính cách là một cơ thể thống nhất hữu cơ.
Trong tư duy, có mối liên hệ giữa các hình thức của tư duy: Khái niệm,
phán đoán, suy luận…
+ Mối liên hệ mang tính phong phú, đa dạng:
Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài; Mối liên hệ chủ yếu và
mối liên hệ thứ yếu; Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cần quán triệt phương
pháp luận quan trọng là: quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể.
- Quán triệt nguyên tắc toàn diện và lịch sử - cụ thể, giúp chúng ta nghiên
cứu, nhận thức đúng bản chất của các sự vật, hiện tượng, để có cơ sở xác định đúng
đắn đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản lâu dài và chủ yếu trước mắt.
- Tránh cách xem xét phiến diện một chiều hoặc cách xem xét tràn lan.
b) Nguyên lý về sự phát triển

Quan điểm các nhà triết học siêu hình cho rằng: phát triển của sự vật,
hiện tượng chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về lượng.

7


Quan điểm triết học Mác - Lênin cho rằng: Các sự vật hiện tượng
không những có mối liên hệ phổ biến, mà còn luôn vận động, phát triển
không ngừng. Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới.
- Khái niệm: Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận
động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói chung mà phát triển chỉ là
một trường hợp đặc biệt của sự vận động, nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự
vận động là đi lên, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ.
Trong quá trình phát triển, sự vật sẽ hình thành dần những quy định mới cao
hơn về chất, là một quá trình diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt đưa tới sự ra đời
của cái mới thay thế cái cũ theo chiều hướng ngày càng hoàn thiện hơn; sự phát
triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co, phức tạp, dường như lặp lại
cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn, trong đó bao gồm cả những bước thụt
lùi tương đối; nguồn gốc của sự phát triển là do mâu thuẫn nằm trong chính
bản thân sự vật.
- Tính chất của sự phát triển
+ Phát triển mang tính khách quan:
Là sự tự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức của con người, hay một lực
lượng siêu nhiên nào đó.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, đó là quá
trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động
của chúng, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển không ngừng.
+ Phát triển mang tính phổ biến:

Trong giới tự nhiên, sự phát triển được thể hiện sự tiến hoá từ đơn giảm
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo
xã hội để tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người, ở sự
phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự kế tiếp các nền văn minh.
Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu
sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn đối với hiện thực tự nhiên và xã hội.
+ Phát triển mang tính đa dạng, phong phú:
Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng.
Tùy thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất, sự phát triển
sẽ được biểu hiện hết sức khác nhau.
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở không gian, thời gian khác nhau sẽ có quá
trình phát triển khác nhau.
8


Ý nghĩa phương pháp luận
- Nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho chúng phương pháp luận khoa
học để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm phát triển trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn sẽ giúp chúng ta khắc phục những tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, định kiến, góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân con người.
2. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
a) Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về
chất và ngược lại
Nội dung quy luật: “bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và
lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn tới sự thay
đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy tại điểm nút; chất mới ra đời
sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng”.

- Mọi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất của chất và lượng.
+ Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không
phải là cái khác.
+ Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu
thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự
vật cũng như của các thuộc tính của nó.
Lưu ý: Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính chất tương đối, phụ
thuộc vào mối quan hệ xác định. Trong mối quan hệ này là chất, nhưng trong
mối quan hệ khác lại là lượng và ngược lại.
- Sự thống nhất biện chứng giữa chất và lượng trong giới hạn độ:
+ Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và
chất của sự vật, nó là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa
làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
+ Bất kỳ một sự vật nào cũng có chất và lượng, đó là hai mặt cấu thành của
một sự vật hiện tượng quy định lẫn nhau không thể tách rời, một chất nhất định
trong sự vật bao giờ cũng có lượng tương ứng của nó; lượng và chất là hai mặt
mâu thuẫn của cùng một sự vật, hiện tượng.
+ Trong quá trình vận động chất và lượng cũng biến đổi. Sự thay đổi của
lượng và của chất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng, lượng của của sự vật có
thể thay đổi tới một giới hạn nhất định mà không làm chất của sự vật thay đổi.
+ Sự thống nhất biện chứng giữa chất và lượng được thực hiện trong giới hạn
“độ”.
9


Như vậy: Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất trong giới
hạn “độ” chất và lượng của sự vật tác động qua lại với nhau cùng vận động biến
đổi. Chất của sự vật là yếu tố tương đối ổn định, lượng thường xuyên biến đổi
một cách dần dần, tiệm tiến theo cách thức tăng dần hoặc giảm dần tới một giới hạn

nào đó sẽ làm chất căn bản của sự vật thay đổi.
- Điểm giới hạn xảy ra sự thay đổi về chất của sự vật gọi là “điểm nút”.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay
đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
- Tại “điểm nút” sự chuyển hoá làm chất sự vật thay đổi gọi là “bước
nhảy”.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về
chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
- Chất mới ra đời tác động trở lại với lượng mới. Đây chính là chiều ngược
lại của quy luật.
Sau khi ra đời chất mới làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay
đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết
từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật;
+ Khi tích luỹ đủ về lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải
kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất.
+ Chống tư tưởng nôn nóng đốt cháy giai đoạn hoặc tư tưởng thụ động trông
chờ, ỷ lại; trong hoạt động của con người phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức
bước nhảy.
b) Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Mâu thuẫn biện chứng
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng là một
thể thống nhất của các mặt đối lập.
- Mặt đối lập là những mặt trái ngược nhau, tồn tại trong cùng một sự
vật, hiện tượng.
Các mặt đối lập là các thuộc tính, các bộ phận bên trong sự vật vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
- Mâu thuẫn biện chứng là mâu thuẫn trong đó bao hàm sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập.

Mâu thuẫn biện chứng là khách quan, phổ biến, nghĩa là: nó vốn có ở
mọi sự vật, hiện tượng của thế giới.
10


Ví dụ: Trong sinh vật có mâu thuẫn giữa biến dị và di truyền, đồng hoá
và dị hoá. Trong xã hội có mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc
lột.
Nội dung cơ bản của quy luật:
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng là một
thể thống nhất của các mặt đối lập.
+ Thống nhất của các mặt đối lập là nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau
của mặt đối lập, sự tồn tại mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Hay
sự thống nhất của các mặt đối lập là sự phù hợp, tác động ngang nhau của chúng.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất” với
nhau.
+ Mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất của các mặt đối lập. Đó là sự
thống nhất của các mâu thuẫn. Bởi vì mọi sự vật đều có mâu thuẫn từ chính bản thân
nó.
Ví dụ: Nguyên tử bao gồm sự thống nhất các mặt đối lập: là các hạt electron
mang điện tích âm và hạt nhân mang điện tích dương. Trong sinh vật là thể thống nhất
của 2 mặt đối lập đồng hóa và dị hóa..
+ Các mặt đối lập nương tựa và làm tiền đề tồn tại cho nhau. Không có mặt đối
lập này thì cũng không có mặt đối lập kia và ngược lại.
+ Không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì không tạo thành sự vật. Do đó,
không có sự vật cụ thể tồn tại.
- Các mặt đối lập trong mỗi sự vật vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng
bài trừ và phủ định lẫn nhau.
+ Hình thức của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập hết sức đa dạng:

Một là, Có thể làm thay đổi các yếu tố, các bộ phận của mỗi mặt đối lập;
Hai là, Có thể làm cho 2 mặt đối lập chuyển lên một trình độ cao hơn;
Ba là, Có thể làm cho hai mặt đối lập cũ mất đi, hình thành hai mặt đối
lập mới.
Tính đa dạng đó tuỳ thuộc vào tính chất của các mặt đối lập, mối quan
hệ giữa chúng, vào lĩnh vực mà chúng tồn tại và phụ thuộc vào điều kiện
trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. Và theo cơ chế vận động là từ
khác biệt đến xung đột, đấu tranh gay gắt quyết liệt đến cực độ thì dẫn đến sự
chuyển hoá lẫn nhau, khi đó mâu thuẫn được giải quyết.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc động lực của mọi sự vận động và
phát triển.

11


+ Sự vật là thể thống nhất của các mặt đối lập, chừng nào thể thống nhất
còn tồn tại thì sự vật còn tồn tại.
+ Đấu tranh của các mặt đối lập làm cho thể thống nhất cũ bị phá vỡ, thể
thống nhất mới được xác lập, làm sự vật phát triển (Sự chuyển hóa).
Ví dụ: Trong xã hội sự đấu tranh giữa 2 mặt đối lập là LLSX và QHSX,
đó chính là nguồn gốc, động lực cho sự phát triển của xã hội.
Chính sự tác động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập đã quy định
một cách tất yếu những thay đổi của các mặt đang tác động qua lại với nhau
và của các sự vật nói chung.
Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn các mặt đối lập có vai trò vị trí
khác nhau. Vai trò của các mặt không bất biến mà có sự thay đổi tuỳ theo sự
phát triển của mâu thuẫn.
+ Điều kiện của sự chuyển hoá là khi mâu thuẫn giữa các mặt đối lập đã
phát triển đến đỉnh cao, xung đột cực độ đã có xu hướng trở thành đồng nhất.
Hình thức chuyển hoá của các mặt đối lập rất đa dạng tuỳ theo tính chất của

mâu thuẫn.
- Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
+ Thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời tương đối.
Bởi vì. thống nhất của các mặt đối lập có quan hệ hữu cơ với đứng im,
sự ổn định tạm thời của sự vật.
+ Đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối, vĩnh viễn.
Bởi vì, đấu tranh gắn liền với sự vận động, mà vận động của vật chất là
tuyệt đối, do đó đấu tranh cũng là tuyệt đổi
Một số mâu thuẫn cụ thể:
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng chỉ có trong xã hội loài người.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Để nhận thức đúng đắn bản chất sự vật, tìm ra phương hướng và giải pháp
đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự
vật;
+ Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển
của từng mặt đối lập, xem xét vị trí vai trò và mối quan hệ lẫn nhau của các
mặt đối lập;
12


+ Không được điều hoà mâu thuẫn mà phải tìm mọi cách để giải quyết
mâu thuẫn với phương pháp giải quyết phù hợp với từng loại mâu thuẫn cụ
thể.
c) Quy luật phủ định của phủ định
Nội dung quy luật: “phát triển là quá trình cái mới phủ định cái cũ; cái
mới vừa gạt bỏ cái cũ, vừa kế thừa những hạt nhân hợp lý trong lòng cái cũ

theo chu kỳ phủ định của phủ định để khẳng định sự tiến lên; con đường tiến
lên trong quá trình phát triển, do đó, không theo đường thẳng mà theo đường
"xoáy ốc"; cái mới là cái tất thắng”.
- Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận
động, phát triển.
Có 2 loại phủ định: Phủ định siêu hình và phủ định biện chứng.
Phép biện chứng duy vật không nghiên cứu phủ định nói chung, mà chỉ
nghiên cứu phủ định biện chứng.
- Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự
thân, là một khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật mới tiến bộ hơn.
- Phát triển là quá trình phủ định của phủ định mang tính chu kỳ: thông
qua sự phủ định của phủ định một sự vật mới ra đời dường như lặp lại cái ban
đầu trên cơ sở mới cao hơn.
Phủ định lần 1: chuyển cái khẳng định sang cái phủ định.
Phủ định lần 2: chuyển cái phủ định sang cái đối lập với nó, sự vật mới
ra đời dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn (cái khẳng
định).
- Tính phong phú đa dạng của quá trình phủ định của phủ định. Số
lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển không giống nhau, nhiều
khi nó phải trải qua nhiều lần phủ định trung gian. Tuy nhiên, trong một chu
kỳ phủ định của phủ định phải trải qua ít nhất hai lần phủ định cơ bản có đặc
điểm và tính chất hoàn toàn khác nhau.
- Con đường của sự phát triển quanh co, phức tạp theo đường "xoáy
ốc".
- Cái mới ra đời là tất thắng. Cái mới là cái tích cực, tiến bộ hợp quy
luật cho dù phải trải qua những thăng trầm, nhưng cuối cùng cái mới vẫn nhất
định chiến thắng cái cũ.
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Nắm vững quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để nhận thức và cải tạo sự
vật.

+ Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu đúng xu hướng vận động
phát triển, do đó xem xét sự vật phải phân tích bản chất của nó để vạch ra
13


khuynh hướng phát triển cơ bản, đồng thời dự kiến được những bước quanh co
phức tạp trong quá trình vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
+ Nhận thức đúng đắn con đường của sự phát triển thông qua những chu kỳ
phủ định của phủ định là cơ sở để xây dựng thế giới quan duy vật và phương pháp
luận khoa học trong xem xét các vấn đề thời đại, xây dựng lòng tin vào sự tất thắng
của cái mới.
+ Trong hoạt động thực tiễn cần tích cực phát hiện ra cái mới, tin tưởng
vào cái mới, ủng hộ cái mới, tạo điều kiện để cái mới nảy sinh, chiến thắng
cái cũ.
III. CON NGƯỜI CÓ THỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC THẾ GIỚI

1. Bản chất của nhận thức
a) Các quan điểm khác nhau về nhận thức
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác (Hêraclít, Đêmôcrít, Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ,...
đỉnh cao là L.Phoiơbắc) thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người và
coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Tuy nhiên họ
không thể giải thích một cách khoa học về vấn đề này.
- Chủ nghĩa duy tâm xuất phát từ việc phủ nhận tính khách quan của thế
giới vật chất nên họ đã phủ định khả năng nhận thức thế giới của con người,
hoặc nếu thừa nhận thì cho đó chỉ là sự áp đặt, chi phối từ những lực lượng “siêu
nhiên” và kết quả nhận thức không phải sự phản ánh hiện thực khách quan.
- Thuyết bất khả tri phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người,
cho rằng bản chất của thế giới là không thể nhận thức được.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: nhận thức là sự hiểu biết của
con người đối với hiện thực khách quan, là quá trình hình thành tri thức trong bộ óc

con người về hiện thực khách quan.
b) Bản chất của nhận thức
- Bản chất nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.
+ Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể
nhận thức trên cơ sở thực tiễn.
+ Chủ thể nhận thức là những con người, những thành viên của những cộng
đồng xã hội nhất định.
Chủ thể của nhận thức có thể là những cá nhân, nhóm người, giai cấp, dân
tộc, nhân loại.
+ Khách thể nhận thức là một bộ phận, một lĩnh vực nào đó của của thế
giới khách quan nơi mà chủ thể hướng vào đó để nhận thức và cải tạo.
Ví dụ: Dòng sông trong tự nhiên không phải là khách thể, nó chỉ trở thành
khách thể khi con người tác động, biến đổi nó.
14


Phạm vi khách thể không bất động mà nó luôn được mở rộng, vận động và
phát triển cùng với năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
+ Cả chủ thể và khách thể nhận thức mang tính lịch sử - xã hội.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, chủ thể nhận thức đã tác động tích cực tới
khách thể, buộc nó bộc lộ bản chất, quy luật để chủ thể nhận thức có thể hiểu
biết về khách thể.
+ Quá trình nhận thức là quá trình phản ánh có đối tượng, có mục đích, có
chọn lọc thông qua hoạt động thực tiễn cải tạo khách thể mang tính tích cực, chủ
động, chứ không phải là sự phản ánh thuần tuý, giản đơn.
+ Sự phản ánh có thể vượt trước thông qua hoạt động thực tiễn.
Ví dụ: Từ năm 1968 Bác Hồ đã dự đoán, Mỹ nhất định sẽ thua ta, nhưng
chúng chỉ chịu thua khi thua trên bầu trời Hà Nội.
- Nhận thức không phải là một hành động tức thời, giản đơn, máy móc và

thụ động, mà nhận thức là một quá trình phản ánh biện chứng phức tạp của con
người đối với hiện thực khách quan, diễn ra theo con đường từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, giữa các giai
đoạn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
V.I. Lênin: “Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến
khách thể...”
Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được hiểu không
phải một cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải không vận động, không
mâu thuẫn, mà là quá trình trong vĩnh viễn của vận động, của sự nảy sinh mâu
thuẫn và sự giải quyết các mâu thuẫn đó.
- Những nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức:
+ Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con
người.
+ Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người.
+ Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết,
từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ ít sâu sắc đến sâu sắc
hơn.
+ Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a) Phạm trù thực tiễn

15


Theo quan điểm mácxít: thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất
có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên, xã hội.
Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần.

- Thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội. Mỗi một
hoạt động của con người đều mang tính lịch sử, cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong
một giai đoạn lịch sử nhất định nào đó.
- Hoạt động thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của loài người trong sự
phát triển của mình. Ngay từ đầu, thực tiễn đã mang bản chất xã hội, không thể
tách rời các quan hệ xã hội.
- Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu có nhận thức, có ý
thức. Đó là ý thức về đối tượng, phương pháp, kết quả… và đặc biệt là ý thức về
mục đích của quá trình hoạt động.
- Mục đích của hoạt động thực tiễn là thoả mãn những nhu cầu vật chất và
tinh thần của cá nhân và xã hội.
- Hình thức hoạt động thực tiễn
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao
động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết
yếu nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển của mình và xã hội.
+ Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội
phát triển.
+ Thực nghiệm khoa học: là hình thức đặc biệt của thực tiễn, là hoạt động mà
con người tạo ra những trạng thái gần giống, giống hoặc lặp lại của tự nhiên và
xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên
cứu.
Tóm lại: Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan
trọng riêng, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản
nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác.
b) Vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức
Quan điểm về thực tiễn giữ vai trò cơ bản nhất trong việc xây dựng lý luận về
nhận thức của chủ nghĩa Mác. Sở dĩ như vậy là vì: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý

luận), không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”.
- Trước hết, thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Con người bắt đầu quan hệ
với tự nhiên không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn, chính trong quá trình
thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức lý luận của con người mới được hình
thành và phát triển.
16


+ Để đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt
động thực tiễn, trong quá trình đó con người cũng biến đổi luôn cả bản thân
mình, các giác quan của con người ngày càng hoàn thiện, năng lực tư duy lôgíc,
trí tuệ không ngừng được củng cố và phát triển; theo đó, con người ngày càng đi
sâu nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và
sâu sắc hơn tri thức của mình.
+ Trên cơ sở thực tiễn con người mới có khả năng trực tiếp tạo ra công cụ,
phương tiện phục vụ cho quá trình nhận thức - hoạt động tinh thần không thể có
khả năng trực tiếp về vấn đề đó.
+ Bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải
bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện, khả năng nhận
thức.
Như vậy, thực tiễn đã đem lại những tài liệu cho quá trình nhận thức, mà
thiếu chúng sẽ không thể có nhận thức. Không có thực tiễn thì không có nhận
thức; mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người kia, thế
hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn cảm tính hay lý tính xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn.
- Thứ hai, thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức.
+ Thông qua thực tiễn đã xuất hiện những nhu cầu vật chất, tinh thần và
nhu cầu đó ngày càng cao. Nhu cầu nhận thức của con người là vô hạn, đồng
thời thực tiễn luôn luôn vận động biến đổi không ngừng, trong khi đó khả năng
của chủ thể nhận thức luôn có hạn.

Vì vậy, con người luôn phải giải quyết mâu thuẫn giữa khả năng nhận thức
của mình với những yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Quá trình không ngừng nảy sinh
và giải quyết mâu thuẫn đó chính là động lực thúc đẩy con người phải nỗ lực về
tri thức, trí tuệ để thoả mãn nhu cầu của thực tiễn và của mình. Với những ý
nghĩa đó thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức.
+ Con người ngay từ khi mới xuất hiện đã bị quy định bởi nhu cầu sống.
Để sống, để tồn tại con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, đồng thời
những tri thức khoa học - kết quả nhận thức của con người chỉ có ý nghĩa đích
thực khi nó được vận dụng vào sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và
thực nghiệm khoa học... Với nghĩa đó thực tiễn là mục đích của nhận thức.
- Thứ ba, thực tiễn là mục đích của nhận thức.
+ Nhận thức bao giờ cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Kết quả của
nhận thức phải hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ
thực sự có ý nghĩa khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
+ Ngày nay, công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp đòi hỏi lý luận phải đi
sâu vào nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu đó như:
17


Vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; vấn đề về công nghiệp hoá và hiện đại hoá; về kinh tế thị trường; về đổi mới
hệ thống chính trị.... Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề do thực tiễn đặt ra trên,
lý luận sẽ có được vai trò quan trọng, góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở
đất nước ta.
- Thứ tư, thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức chân lý.
+ Nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên thông qua những con người cụ
thể, thế hệ người trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Do đó, nó có thể đúng có
thể sai, sâu sắc hoặc chưa sâu sắc…Vì vậy, chỉ có thông qua sự kiểm nghiệm
của thực tiễn thì mới xác định được nhận thức đã đạt được là đúng hay là sai, để

tiếp tục sửa đổi, bổ sung, làm cho tri thức của con người ngày càng đầy đủ, sâu
sắc hơn.
+ Thực tiễn luôn vận động biết đổi không ngừng, do vậy chân lý cũng
thường xuyên bổ sung, phát triển phù hợp với thực tiễn mới.
+ Tuy nhiên, những cách kiểm nghiệm này không thể thay thế cho tiêu
chuẩn thực tiễn và suy đến cùng nó cũng phải dựa trên cơ sở thực tiễn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, nhưng tiêu chuẩn này vừa có tính
tuyệt đối vừa có tính tương đối.
Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối, vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan
để kiểm nghiệm chân lý của nhận thức, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể
xác định được chân lý.
Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn luôn vận động
và phát triển, mặt khác, thực tiễn do con người thực hiện nên không thể tránh
khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tóm lại: Qua phân tích vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức trên
đây, đòi hỏi chủ thể hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn
đối với nhận thức. Trong nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn.
3. Hai giai đoạn của quá trình nhận thức
a) Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)
- Trực quan sinh động là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức mà
thông qua các giác quan của mình con người nhận thức thế giới khách quan, khi
có sự tác động trực tiếp của các sự vật, hiện tượng cụ thể.
Đặc trưng của giai đoạn này là sự phản ánh cụ thể, cảm tính, trực tiếp, nhờ
chức năng của các giác quan mà con người có thể phản ánh được những thuộc
tính, những mặt, những mối liên hệ bên ngoài các đối tượng, khi chúng trực tiếp
tác động vào các giác quan của con người.
- Trực quan sinh động được biểu hiện qua các hình thức kế tiếp nhau:
18



+ Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện
tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của con người.
+ Tri giác là hình ảnh tương đối trọn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực
tiếp tác động vào các giác quan.
+ Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai
đoạn trực quan sinh động. Biểu tượng là sự lưu giữ lại trong óc những hình
ảnh, những nét chủ yếu nổi bật nhất của sự vật do các giác quan đem lại.
Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những quá trình kế tiếp nhau
của trực quan sinh động. Những hình thức này là tiền đề là quá trình tiến tới
giai đoạn nhận thức cao hơn. Tuy vai trò của chúng là to lớn, không thể thiếu
trong quá trình nhận thức, nhưng đó mới chỉ là sự phản ánh trực tiếp, bề ngoài
của khách thể. Để nhận thức cái bên trong, cái bản chất cái quy luật của khách
thể,… nhận thức phải phải chuyển sang giai đoạn cao hơn - giai đoạn tư duy
trừu tượng.
b) Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính)
- Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp về sự vật, là giai
đoạn tiếp theo nhưng cao hơn về chất so với trực quan sinh động nó phản ánh
sâu sắc bản chất, quy luật bên trong của sự vật, hiện tượng.
Đặc trưng của tư duy trừu tượng là sự phản ánh mang tính khái quát và
gián tiếp. Tư duy trừu tượng dựa trên những tài liệu của trực quan sinh động,
thông qua các thao tác tư duy để khái quát tìm ra bản chất, quy luật của sự vật.
- Tư duy trừu tượng được biểu hiện dưới các hình thức:
+ Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của sự vật hay một lớp các
sự vật hiện tượng nào đó.
+ Phán đoán là hình thức cơ bản của tư duy, nó liên kết các khái niệm lại
với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của
đối tượng.
+ Suy luận cũng là hình thức cơ bản của tư duy, liên kết các phán đoán lại

với nhau để rút ra tri thức mới.
c) Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính
- Bằng phương pháp trừu tượng hoá người ta có thể tách ra để nghiên cứu
các giai đoạn trực quan sinh động và tư duy trừu tượng - là những nấc thang hợp
thành trong quá trình nhận thức.
- Trên thực tế, trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn khác
nhau về chất, có đặc điểm và vai trò khác nhau, nhưng hai giai đoạn này có mối
quan hệ thống nhất biện chứng hữu cơ không tách rời chúng liên hệ, tác động, bổ
sung cho nhau.
19


- Nhận thức cảm tính là cơ sở, tiền đề cung cấp tài liệu trực tiếp cho nhận
thức lý tính. Nhận thức lý tính thường xuyên tác động trở lại nhận thức cảm tính
làm cho nó được định hướng và bảo đảm sự chính xác trong quá trình phản ánh.
- Từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính phải có bước nhảy vọt về
chất trên cơ sở đủ tài liệu chính xác và khả năng khái quát cao của tư duy.
Quán triệt sự thống nhất giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng có
ý nghĩa quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, trong việc khắc phục
chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều.
HƯỚNG DẪN NGHIÊN CỨU

1. Trình bày mối quan hệ giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp
luận?
2. Trình bày nguyên lý phát triển? Ý nghĩa phương pháp luận?
3. Trình bày hai giai đoạn của quá trình nhận thức? Ý nghĩa thực tiễn?

20




×