Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

Hình thái mũi và mối tương quan giữa góc mũi môi với các thành phần liên quan ở nhóm người việt tại hà nội tuổi từ 18 – 25

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.21 MB, 135 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội đang ngày một phát triển, mức sống của người dân ngày càng
được nâng cao, thẩm mỹ khuôn mặt đang trở thành mối quan tâm hàng đầu
của con người, trong đó thẩm mỹ mũi là một thành tố quan trọng góp phần tạo
nên vẻ đẹp hoàn thiện đó [1]. Là đơn vị thẩm mỹ nổi bật nhất và nằm ở trung
tâm khuôn mặt, mũi cũng là đơn vị nhô nhất nên rất dễ bị biến dạng do chấn
thương hàm mặt, những bệnh lý và dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt cũng ảnh
hưởng ít nhiều đến thẩm mỹ mũi [2]. Cùng sự phát triển của kinh tế và xã hội,
con người luôn hướng đến cái đẹp và luôn muốn mình được đẹp hơn, hoàn
mỹ hơn, vì lẽ đó nhu cầu phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ mũi ngày một tăng cao.
Thành công của phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ mũi không thể thiếu
được quá trình phân tích hình thái mũi một cách toàn diện [3],[4] bên cạnh
hình thái mũi ngoài, thẩm mỹ mô mềm vùng mũi môi là yếu tố then chốt làm
nên sự hài hòa của mũi với tổng thể khuôn mặt, thẩm mỹ của vùng này được
đánh giá qua góc mũi môi [5]. Vì vậy, hiểu biết đầy đủ về đặc điểm hình thái
mũi nói chung và mối tương quan mô mềm vùng mũi môi nói riêng rất cần
thiết cho các nhà lâm sàng để chẩn đoán, lên kế hoạch và tiên lượng kết quả
điều trị, không chỉ trong phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ mà còn trong chỉnh
hình răng hàm mặt.
Để phân tích về đặc điểm hình thái mô mềm mũi, có ba phương pháp
chính thường được sử dụng đó là: đo trực tiếp, phân tích gián tiếp qua ảnh và
phân tích gián tiếp qua phim X-Quang sọ mặt từ xa. Trong đó, phương pháp
đánh giá qua đo trực tiếp trên khuôn mặt cho biết chính xác kích thước thật,
các chỉ số trung thực hơn. Tuy nhiên phương pháp này mất nhiều thời gian và
cần có nhiều kinh nghiệm để xác định điểm chuẩn chính xác trên mô mềm
nên hiện nay ít được các tác giả sử dụng trong nghiên cứu [6],[7] mà chủ yếu
sử dụng phân tích ảnh chụp chuẩn hóa kỹ thuật số và phim XQuang sọ mặt từ
xa do tính khách quan cao, có thể phân tích cả mô cứng và mô mềm [8],[9],
[10], và dễ dàng lưu trữ thông tin.




2

Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hình thái mũi từ rất
sớm trên người da trắng của [11],[12],[13], một số trên người da đen [14], [15],
[16], gần đây là các nghiên cứu trên người châu Á [17],[18],[19],[20],[21] đã
cho thấy sự khác biệt giữa các chủng tộc về đặc điểm hình thái cũng như các
thông số nhân trắc mô mềm mũi. Tại Việt Nam, cũng đã có một số tác giả
nghiên cứu về nhân trắc học như Hoàng Tử Hùng (1999) [1], Lê Gia Vinh
(2000) [22], Võ Trương Như Ngọc (2010) [23], hầu hết các tác giả nghiên cứu
về nhân trắc sọ - mặt nói chung, các nghiên cứu về hình thái mũi còn rất hạn
chế [24],[25], chưa đáp ứng nhu cầu ứng dụng trong điều trị.
Trên lâm sàng, các bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ và chỉnh hình răng hàm
mặt thường phải căn cứ vào các chỉ số và số đo của các công trình nghiên cứu
của nước ngoài, chủ yếu trên người da trắng (Caucasian) so với người Việt
Nam có nhiều khác biệt. Bởi vậy, việc xác định các chỉ số, kích thước hình
thái mô mềm mũi của người Việt đang là một nhu cầu cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hình
thái mũi và mối tương quan giữa góc mũi môi với các thành phần liên
quan ở nhóm người Việt tại Hà Nội tuổi từ 18 – 25 ” với hai mục tiêu sau:
1.

Mô tả một số đặc điểm hình thái mô mềm mũi trên ảnh chuẩn hóa của
một nhóm người Việt tại Hà Nội tuổi từ 18 - 25.

2.

Xác định mối tương quan giữa góc mũi môi với các thành phần liên
quan trên phim sọ nghiêng của nhóm đối tượng trên.



3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm giải phẫu mũi
Mũi được chia làm ba phần: mũi ngoài, khoang mũi trong và các
xoang. Giải phẫu mũi ngoài được các nhà tạo hình thẩm mỹ quan tâm ứng
dụng trong lâm sàng nhiều hơn. Khung sườn của mũi ngoài được chống đỡ
bởi xương mũi ở một phần ba trên và sụn hai phần ba giữa và dưới, được bao
phủ bởi da và mô mềm.
1.1.1. Khung xương mũi
Khung xương mũi ngoài gồm hai xương mũi và phần mũi của xương
trán, mỏm trán và gai mũi của xương hàm trên. Xương mũi chống đỡ tạo nên
một phần ba trên của khung sườn vòm mũi (Hình 1.1) [26].
1.1.2. Khung sụn mũi
Các sụn mũi: gồm sụn mũi bên, sụn cánh mũi lớn, sụn cánh mũi nhỏ,
các sụn mũi phụ (sụn vừng), sụn vách mũi và sụn lá mía. Cùng với xương
mũi, sụn mũi bên, các sụn cánh lớn, các sụn cánh nhỏ và sụn mũi phụ tạo nên
vòm mũi (Hình 1.1) [26].
Các phần tạo nên vách ngăn mũi gồm: xương (mảnh thẳng xương sàng,
xương lá mía) và sụn (sụn vách mũi, sụn lá mía, trụ trong của sụn cánh lớn)
(Hình 1.2) [26].
1. Xương mũi
2. Sụn mũi bên
3. Trụ ngoài sụn cánh lớn
4. Vòm mũi
5. Trụ trong sụn cánh lớn
6. Sụn cánh nhỏ

7. Mô xơ mỡ cánh mũi

Hình 1.1. Xương và sụn mũi ngoài (mặt bên) [26]


4

1. Xương mũi
2. Mảnh thẳng đứng xương sàng
3. Xương khẩu cái
4. Xương hàm trên
5. Sụn vách mũi
6. Lát cắt qua sụn mũi bên

Hình 1.2. Cấu trúc vách ngăn mũi [26]
1.1.3. Mô mềm mũi
Mũi có hình dáng lăng trụ tứ giác hình tháp gồm ba phần chính: khung
xương-sụn mũi, bên ngoài bao phủ bởi da, tổ chức mô mềm dưới da và lót bên
trong bởi niêm mạc. Góc trên của tháp mũi liên tiếp với trán tại gốc mũi, gốc
mũi nằm giữa hai mắt; nơi gặp nhau của hai mặt bên tháp mũi trên đường
giữa là một gờ tròn gọi là sống mũi. Sống mũi tận cùng ở một đầu tự do ở
phía trước-dưới có tên là đỉnh mũi; các mặt bên tháp mũi mở rộng và tận cùng
ở phía dưới tại các cánh mũi, hai cánh mũi tạo với má hai rãnh hai bên gọi là
rãnh mũi má. Ở phía dưới, ở hai bên đỉnh mũi có hai lỗ mũi trước ngăn cách
nhau bởi vách mũi [26].
1.1.4. Da và mô dưới da
Da vùng mũi ngoài ít lông và tương đối dày ở một phần ba trên của
mũi. Da trở nên mỏng hơn ở đoạn một phần ba giữa, ở đoạn một phần ba
dưới thì dày trở lại và có nhiều tuyến bã. Da người châu Á thường dày
và săn chắc thuận lợi cho việc sử dụng chất liệu nhân tạo khi tạo hình

nâng mũi. Mô mềm dưới da bao gồm: các cơ, mạch máu, thần kinh, mô
mỡ và các liên kết khác [26].


5

1.1.5. Các thuật ngữ và các mốc giải phẫu trong phân tích thẩm mỹ mũi
Các mốc giải phẫu trên mô mềm có cách xác định rõ ràng, ký hiệu thống
nhất trong tất cả các tài liệu nghiên cứu (Hình 1.3) [27].

Hình 1.3. Các điểm giải phẫu trên mô mềm [27]
Các thuật ngữ mô tả tương quan của mũi rất quan trọng khi phân tích
thẩm mỹ mũi, cho phép mô tả rõ ràng tương quan mũi khi phức hợp sọ mặt ở
trạng thái nghỉ để chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị. Tương quan với sọ mặt:
trước, sau, trên, dưới. Tương quan các thành phần của mũi: đầu, chóp, sống,
nền (Hình 1.4) [26].
Về mặt giải phẫu thẩm mỹ có thể chia mũi ngoài thành sáu tiểu đơn
vị gồm: gốc mũi, sống mũi, thành bên mũi, chóp mũi, cánh mũi, tam giác
phần mềm mũi, trụ mũi. Trong quá trình phẫu thuật, các đường rạch da, nếp
sẹo phải nằm trên các ranh giới các đơn vị này thì kết quả sẽ cải thiện hơn
(Hình 1.4) [26].


6

Hình 1.4. Các thuật ngữ mô tả tương quan không gian của mô mềm mũi,
các tiểu đơn vị thẩm mỹ mũi ngoài [26]
1.2. Đặc điểm hình thái mũi
Đánh giá một cách tỉ mỉ và có hệ thống là nền tảng đánh giá thẩm mỹ
mũi. Trước hết cần phân tích mũi như một đơn vị thẩm mỹ độc lập của khuôn

mặt, đánh giá đặc điểm hình thái từng cấu trúc thẩm mỹ của mũi bao gồm
sống mũi, đỉnh mũi, nền mũi… Bên cạnh đó cần phân tích mũi trong mối
tương quan với khuôn mặt và các cấu trúc xung quanh [26]. Một chiếc mũi là
dài hay ngắn, rộng hay hẹp, cao hay thấp, hài hòa hay không hài hòa… phải
đánh giá trong mối tương quan của nó với khuôn mặt cho sẵn cùng với các
cấu trúc liên quan trên khuôn mặt ấy [23].
1.2.1. Một số phân loại dạng mũi
Rudolf (1928) phân thành 15 dạng mũi (theo trích dẫn của Trần Thị
Anh Tú [24]).


7

Hình 1.5. Phân loại mũi theo Rudolf (1928) [24]
Olivier (1971) phân thành năm dạng mũi (theo trích dẫn của Trần Thị
Anh Tú [24]).

Hình 1.6. Phân loại mũi theo Olivier (1971) [24]
Legent và Jost (1988) phân thành chín dạng mũi ở người Châu Âu mũi
(theo trích dẫn của Trần Thị Anh Tú [24]).


8

Hình 1.7. Phân loại mũi theo Legent và Jost (1988) [24]
Các nghiên cứu trước đây chủ yếu mô tả ở dạng hình vẽ mũi nhìn
nghiêng, hầu hết các tác giả phân loại các dạng mũi dựa trên hình dạng đường
viền sống mũi, đỉnh mũi và góc mũi môi.
Uzun A. (2014) phân loại thành năm dạng mũi ở nam và năm dạng mũi
ở nữ dựa trên 4 tiêu chuẩn: độ dài sống mũi, độ sâu gốc mũi, độ xoay của đỉnh

mũi và độ dốc của nền mũi [28].

Nam
Nữ
Hình 1.8. Năm dạng mũi ở nam và năm dạng mũi ở nữ Thổ Nhĩ Kỳ theo
Uzun A. (2014) [28]
Tại Việt Nam, Trần Thị Anh Tú (2003) nghiên cứu hình thái mũi trên
400 sinh viên người Việt. Dựa theo phân loại dạng mũi của Olivier dựa trên


9

tiêu chuẩn hình dạng đường viền sống mũi, góc mũi môi, Trần Thị Anh Tú bổ
sung tiêu chuẩn xếp loại dựa trên hình dạng lỗ mũi trên ảnh thẳng, và sử dụng
cách gọi tên thông dụng của người dân bình thường, sắp xếp thành sáu dạng
mũi (Hình 1.14): mũi thẳng (53,5), mũi lõm (39,25), mũi gãy (2%), mũi gồ
(5,25), mũi hếch (17%), mũi khoằm (1,5%) [24].

A

B

C

D

E

F


A: Mũi thẳng B:Mũi lõm C: Mũi gãy D: Mũi gồ E: Mũi hếch F:Mũi khoằm
Hình 1.9. Các dạng mũi theo phân loại dựa vào góc mũi môi và đặc điểm
đường viền sống mũi của Trần Thị Anh Tú (1999) [24]
Năm 2017, Nguyễn Thành Nhân nghiên cứu trên 400 đối tượng người
Việt, phân loại thành chín dạng mũi theo ba tiêu chí: độ nhô của đường viền
sống mũi, góc mũi môi và chỉ số mũi [25].
Hình dạng sống mũi là một tiêu chuẩn được nhiều tác giả sử dụng khi
nghiên cứu hình thái mũi cũng như trong phân tích, chẩn đoán và lập kế
hoạch phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ. Theo nghiên cứu của Farhad B.N. trên
người da trắng (2011), đường viền sống mũi lý tưởng nên song song và lõm
nhẹ xuống dưới so với đường thẳng nối gốc mũi và đỉnh mũi. Ở nữ, sống mũi
lý tưởng lõm nhẹ dưới 1 mm so với đường này trong khi ở nam sống mũi lý
tưởng trùng với đường này. Nếu sống mũi nằm ở phía dưới so với đường nối
sống mũi, đòi hỏi cần nâng và mở rộng sống mũi và ngược lại, nếu sống mũi


10

nằm ở phía trên so với đường nối sống mũi, thì cần thu gọn sống mũi. Đường
viền sống mũi so với đường nối sống mũi có thể thẳng, gồ, lõm. Sống mũi gồ
thường có các bướu mũi. Trường hợp sống mũi lõm hình yên ngựa ( mũi gãy)
thường là hậu quả của chấn thương xương mũi và/hoặc chấn thương sụn vòm
mũi, những trường hợp này cần phẫu thuật nâng mũi [26].

A. Mũi lõm B. Mũi thẳng C. Mũi gồ
Hình 1.10. Đường nối sống mũi (nasal dosal line) là đường thẳng kẻ từ
điểm nasion ( N’) đến đỉnh mũi pronasale (Pn) [26]
Tiêu chuẩn phân loại dựa theo số đo góc mũi môi có ý nghĩa trong việc
đánh giá thẩm mỹ mô mềm vùng mũi môi, là một yếu tố then chốt phản ánh
sự hài hòa/bất hài hòa của mũi trên khuôn mặt nhìn nghiêng. Tuy nhiên, giá

trị góc mũi môi không chỉ phụ thuộc vào hình thái mũi mà còn phụ thuộc vào
hình thái môi trên. Góc mũi môi trong giới hạn bình thường có thực sự phản
ánh sự hài hòa của vùng mũi môi? Góc mũi môi nhọn có phản ánh đúng tình
trạng mũi khoằm không? Góc mũi môi tù có phản ánh đúng mức độ hếch của
mũi không? Để trả lời những câu hỏi này, cần đánh giá góc mũi môi trong
mối tương quan với các thành phần liên quan, đặc biệt là với mũi và môi trên.
1.2.2. Các kích thước cơ bản của tháp mũi
- Chiều cao mũi là kích thước theo chiều dọc từ điểm lõm mũi nasion
(N’) đến điểm dưới mũi subnasale (Sn).


11

- Chiều dài sống mũi là kích thước theo chiều dọc từ điểm lõm mũi
nasion (N’) đến điểm đỉnh mũi pronasale (Pn).
- Độ nhô đỉnh mũi là kích thước theo chiều ngang từ rãnh mũi má đến
đỉnh mũi.
- Chiều rộng mũi là khoảng cách giữa hai điểm cánh mũi trái – phải (Al-Al).
- Chỉ số mũi của Olivier [26] là một trong những tiêu chuẩn đánh giá đặc
trưng hình thái chủng tộc. Chỉ số mũi là tỷ lệ giữa chiều rộng mũi (AL-Al) và
chiều cao mũi từ gốc mũi đến chân trụ mũi (N-Sn), công thức được tính như sau:
Chỉ số mũi =
Theo nghiên cứu của Olivier, ông phân ra thành bảy dạng mũi: cực
hẹp/lép: <39,99, rất hẹp/lép: 40-54,99, mũi hẹp/lép: 55-69,99, mũi trung bình:
70-84,99, mũi rộng/tẹt (broad): 85-99,99, rất rộng/tẹt: 100-114,99, cực
rộng/tẹt: >115.
Theo nghiên cứu của Lang và cộng sự, dựa trên phân loại của Olivier
nhưng loại trường hợp mũi cực lép và cực tẹt để phù hợp với chủng tộc châu
Á. Trong đó, dạng mũi trung bình đặc trưng thường gặp ở người châu Á có
giá trị từ 70,0-84,9 với đặc điểm: độ nhô lưng mũi giảm, sống mũi rộng, độ

nhô chóp mũi giảm và trụ mũi ngắn [26].
Chỉ số mũi có giá trị trong nhân trắc học và là đặc trưng cho từng
chủng tộc với giá trị rất khác biệt.


12

Hình 1.11. Các kích thước cơ bản của tháp mũi và chỉ số mũi [26]
1.2.3. Độ nhô và xoay của đỉnh mũi
Sự xoay của đỉnh mũi (Nasal Tip Rotation) được Simons mô tả năm
1982 là sự di chuyển của đỉnh mũi (Pn) trên một cung tròn có tâm là lỗ ống tai
ngoài (Po). Khi đỉnh mũi xoay xuống dưới dọc theo một cung tròn có bán
kính được duy trì, làm tăng ảo sự nhô đỉnh mũi (Hình 1.6) [26]. Mức độ xoay
được đánh giá là tăng khi vùng đỉnh mũi nằm ở phần trên của cung tròn và
giảm khi nằm ở phần dưới của cung. Khi giữ nguyên các thành phần khác của
khuôn mặt, đỉnh mũi xoay lên trên sẽ làm góc mũi trán nhỏ lại đồng thời góc
mũi môi tăng lên và ngược lại.

Hình 1.12. Sự xoay của đỉnh mũi [26]


13

Sự nhô của đỉnh mũi là khoảng cách từ đỉnh mũi (Pn) so với một điểm
mốc trên khuôn mặt. Độ nhô của đỉnh mũi thường được đo bằng khoảng cách từ
đỉnh mũi (Pn) đến điểm trước nhất rãnh mũi má (Ac) trên ảnh nghiêng, khi độ nhô
mũi tăng, đầu mũi dài ra và ra trước so với khuôn mặt. Ngoài ra sự nhô của đỉnh
mũi còn được đánh giá qua góc mũi mặt.
Góc mũi mặt là góc phía trong tạo bởi giao giữa mặt phẳng mặt
(glabella đến pogonion) với đường sống mũi (nasion đến pronasale). Năm

1931, Jacques Joseph đo đạc góc mũi mặt trong hàng loạt bức chân dung
được vẽ bởi các họa sĩ khác nhau, ông xác định một góc trung bình là 30 0, với
một phạm vi bình thường từ 230- 370 (Hình 1.7) [26].

Hình 1.13. Sự thay đổi độ nhô của mũi với các giá trị góc mũi mặt khác
nhau theo Joseph [26]
Giá trị góc mũi mặt càng lớn phản ánh sự nhô mũi càng lớn. Theo
Powell và Humphrey lý tưởng góc này khoảng 35 0 (khoảng 300 - 400) ở người
da trắng [11].
Độ nhô và xoay của đỉnh mũi đóng vai trò thiết yếu để đánh giá hình thể
ngoài phần đỉnh mũi, đặc biệt là trong phẫu thuật tạo hình. Tuy nhiên đây là hai
chỉ số khó lượng hoá vì không có mốc giải phẫu nào đủ hằng định để làm mốc
tham chiếu. Người ta cần dựa vào mối liên quan mật thiết của độ nhô và xoay
của đỉnh mũi với sự nhô của cằm, dạng hình học của môi để đánh giá [26].


14

Nghiên cứu của Devcic Z. (2011) về độ nhô và xoay của đỉnh mũi được
tiến hành như sau: dựa vào đánh giá của 78 người ngẫu nhiên trong cộng
đồng, chọn ra 300 bức ảnh sinh viên nữ độ tuổi từ 18-25 trong kho dữ liệu
ảnh nhân trắc của trường Đại học California-Irvine mà họ cho là có khuôn
mặt cuốn hút nhất, sau đó đánh giá 6 chỉ số về độ nhô đỉnh mũi cho từng bức
ảnh. Kết quả cho thấy vẻ đẹp khuôn mặt không có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê với bất kì chỉ số nào trong cả 6 chỉ số. Ông kết luận không nên coi
các chỉ số này là tiêu chuẩn tuyệt đối cần đạt, nhưng khi lập kế hoạch chỉnh
hình cũng như đánh giá kết quả hậu phẫu thì hãy tham khảo chúng, đặc biệt là
các chỉ số Crumley vì nó đạt lý tưởng ở nhiều khuôn mặt nhất [29]. Sáu chỉ số
trong nghiên cứu của Devcic Z. bao gồm:
+ Chỉ số thứ nhất theo mô tả của Baum (1982) qui định độ nhô đỉnh mũi tốt

nhất đạt được khi tỷ lệ giữa độ dài từ N’ đến chân đường cao hạ từ Pn xuống
đoạn N’-Sn và độ dài đường cao đó bằng 2:1 Sau này, Powell và Humphreys
(1984) cũng sử dụng phương pháp tương tự, chỉ khác ở chỗ hai ông dùng cả
chiều dài đoạn N’-Sn làm tử số, tỷ lệ lý tưởng là 2,8:1 (Hình 1.8) [12].

Hình 1.14. Cách xác định chỉ số Baum [26]
+ Chỉ số thứ 3 mô tả bởi Simons (1982) sử dụng tỷ lệ giữa Pn-Sn và SnLs, ông cho rằng tỷ lệ này đạt 1:1 là chuẩn [26].


15

+ Goode tiếp tục đóng góp thêm phương pháp thứ 4 để lượng giá độ nhô
đỉnh mũi. Ông kẻ các đường thẳng sau trên ảnh nghiêng: đường thứ nhất từ
điểm N’ đến nếp gấp nơi chân cánh mũi liên tiếp với rãnh mũi má (Ac),
đường thứ hai đi qua Pn vuông góc với đường thứ nhất, đường thứ 3 là N’-Pn
(đối với người mũi thẳng thì đó là sống mũi). Ba đường thẳng trên giới hạn nên
một tam giác, độ nhô đỉnh mũi là lý tưởng khi ba cạnh của tam giác đạt tỷ lệ
3:4:5. Chỉ số Goode khoảng 0,55-0,6 [12]. Khi đạt được tỷ lệ này, góc mũi mặt
khoảng 360. Chỉ số Goode càng cao thì độ nhô mũi càng lớn ( Hình 1.9) [26].

Hình 1.15. Cách xác định chỉ số Goode [26]
+ Phương pháp thứ 5 và thứ 6 sử dụng chỉ số Crumley 1 và Crumley 2
được công bố trong một nghiên cứu của Crumley (1988) [30]. Trong phương
pháp 5, Devcic Z. cho rằng tỷ lệ giữa đoạn N’-Ls và khoảng cách từ điểm Pn
đến đoạn thẳng đó (chỉ số Crumley 1) nên là 3,53. Trong phương pháp thứ 6,
ông sử dụng tam giác 3:4:5 của Goode nhưng kéo dài đoạn N’ qua rãnh mũi
má đến khi cắt mô mềm vùng cằm (giả sử tại điểm M). Lúc này, tỷ lệ giữa
đoạn từ na đến M và đoạn vuông góc hạ từ Pn xuống (chỉ số Crumley 2) đạt
4,23 thì độ nhô đỉnh mũi đạt lý tưởng (Hình 1.10) [29].



16

Hình 1.16. Cách xác định chỉ số Crumley 1 và chỉ số Crumley 2 [30]
Sự khác biệt của hai chỉ số Crumley so với các chỉ số còn lại là nó
không chỉ quan sát nội tại mũi mà đánh giá độ nhô đỉnh mũi trong mối liên
quan giữa đỉnh mũi với đường từ gốc mũi đến môi trên (Crumley 1) và chiều
cao mặt tổng thể (Crumley 2) [30].
1.2.4. Tương quan của mũi và khuôn mặt
Toàn bộ mũi nằm ở tầng giữa mặt. Khi nhìn nghiêng, mũi bắt đầu từ điểm
gốc mũi, lý tưởng ngang mức nếp gấp mi mắt trên và kết thúc ở điểm chân trụ
mũi. Vì mũi nằm ở trung tâm và là đơn vị thẩm mỹ lồi nhất của khuôn mặt nên
mũi có vai trò quan trọng trong thẩm mỹ khuôn mặt. Khi xác định các đặc điểm
của một chiếc mũi, nên đưa ra trong tương quan với giới tính, chiều cao, dáng
người và đặc biệt là tương quan với toàn bộ khuôn mặt, cũng như mối tương
quan của mô mềm mũi với các cấu trúc khác trên khuôn mặt [23].
Tương quan giữa kích thước mũi và kích thước khuôn mặt
Theo tiêu chuẩn tân cổ điển, chiều cao mũi (N’-Sn) chiếm khoảng 45%
chiều cao tầng mặt dưới (N’-Gn). Chiều rộng cánh mũi (Al-Al) nên bằng với
khoảng cách giữa hai mắt (En-En), và bằng với chiều rộng của mắt (En-Ex),
theo nguyên tắc 1/5, khuôn mặt được chia thành năm phần bằng nhau, mỗi
phần tương đương chiều rộng của một mắt [27]. Năm 1988, Guyron đề xuất


17

chiều rộng cánh mũi nên rộng hơn 1-2mm so với khoảng cách giữa hai mắt.
Chiều rộng cánh mũi nên bằng 70% chiều dài mũi (N’-Pn) [26].
Tương quan của mũi với các thành phần khác trên khuôn mặt
Mối tương quan của mũi với các thành phần xung quanh bao gồm: trán,

cằm. Thể hiện ở tương quan giữa các góc trán – mũi, mũi – cằm, đường mũi- cằm.
Góc trán mũi tạo bởi tiếp tuyến đi qua điểm N’ (nasion) và Gl’
(glabella) với tiếp tuyến sống mũi đi qua điểm N’ và Pn (pronasale) (Hình
1.10) [26]. Ở người da trắng, theo Power và Humphrey (1984) gíá trị góc mũi
trán lý tưởng từ 1150- 1300 [12].
Dean M.Torumi và Daniel G.Becker, chiều dài mũi ảnh hưởng bởi góc
trán mũi và góc mũi môi. Một góc trán – mũi nông và/hoặc góc mũi môi nhọn
góp phần làm mũi dài ra. Và một góc trán – mũi sâu và/hoặc góc mũi môi quá
tù góp phần làm mũi ngắn lại [32].

Hình 1.17. Góc trán mũi lý tưởng tử 1150 - 1300 [26]
Góc mũi cằm tạo bởi tiếp tuyến sống mũi đi qua điểm N’ và Pn với
đường thẳng nối đỉnh mũi Pn và điểm trước nhất của Pg, góc này nên có giá
trị từ 120-132. Giá trị góc này giảm rõ rệt ở các trường hợp khuôn mặt bất hài
hoà.


18

Đường mũi – cằm cũng có ý nghĩa trong việc đánh giá thẩm mỹ khuôn
mặt, dựa vào vị trí môi trên và môi dưới so với đường mũi cằm kẻ từ đỉnh mũi
Pn đến điểm trước nhất của cằm Pg’ đánh giá độ nhô của mũi với độ nhô của
mũi và cằm. Theo nghiên cứu của Gonzales U nghiên cứu trên người da trắng,
đường này cách môi trên 2mm và môi dưới 4mm [27].
1.2.5. Tương quan góc mũi – môi với các thành phần liên quan
Góc mũi môi tạo bởi tiếp tuyến của môi trên (Sn-Ls) với tiếp tuyến bờ
dưới mũi (Sn-Cm) đi qua điểm dưới mũi subnasale (Sn). Trung bình ở người
da trắng, ở nam từ 1000 ± 120, ở nữ từ 1050 ± 100 (Hình 1.11) [26].

Hình 1.18. Góc mũi môi lý tưởng ở nam từ 1000 ± 120, ở

nữ từ 1050 ± 100 [26]
Theo Pearlman S.J. [5], nhiều bác sỹ phẫu thuật thẩm mỹ chỉ chú trọng
vào các vấn đề liên quan đến sống mũi và đỉnh mũi mà bỏ qua các vấn đề của
vùng mũi môi. Sự thay đổi cấu trúc vùng này, cũng như sự xoay và nhô của
đỉnh mũi, có thể ảnh hưởng đến góc mũi, chiều dài môi trên và là then chốt
làm nên sự hài hòa của mũi ngoài với tổng thể khuôn mặt. Góc mũi môi là
chìa khóa đánh giá thẩm mỹ mô mềm vùng mũi môi, do đó nó là một trong
những thông số quan trọng đánh giá thẩm mỹ mũi.


19

Theo Holdaway, góc mũi môi là yếu tố phát hiện các dấu hiệu mất hài
hòa vùng dưới mũi để chẩn đoán và quyết định điều trị chỉnh hình răng hàm
mặt kịp thời và chính xác, đồng thời giúp tiên lượng kết quả điều trị chỉnh
hình răng hàm mặt [33]. Góc mũi môi không chỉ bị ảnh hưởng bởi chức
năng của một vài đặc điểm giải phẫu như độ nghiêng của trụ mũi, chiều dài
nhân trung mà còn phản ánh độ nhô của môi trên, qua đó phản ánh mức độ
ngả ra trước hay vẩu của răng cửa trên. Vẩu hàm trên có xu hướng làm cho
môi nhọn, góc mũi môi càng nhỏ thì vẩu càng nặng và ngược lại, góc mũi
môi tù hơn khi độ ngả ra trước của răng cửa giảm [34].
Các nghiên cứu đã cho thấy giá trị góc mũi môi là một thông số quan
trọng cần kiểm tra khi tiên lượng và điều trị chỉnh hình răng, sự di chuyển của
răng cửa hàm trên trong bất kỳ ba mặt phẳng đều ảnh hưởng đến góc này
[34], [35],[36],[37].
Góc mũi môi không những phụ thuộc vào hình thái bờ dưới mũi, mà
còn phụ thuộc vào hình thái môi trên, hai cấu trúc này độc lập nhau, dẫn đến
hình thái góc mũi môi rất đa dạng. Giá trị bản thân góc mũi môi không cung
cấp đầy đủ thông tin để đánh giá được thành phần nào chịu trách nhiệm cho
sự bất hài hòa. Nó có thể là mũi, môi hoặc cả hai. Một người có thể có góc

mũi môi bình thường, mặc dù có vẩu hàm trên do mũi hếch. Sự kết hợp của
các biến thể như vậy có thể dẫn đến những kết luận sai lầm trong chẩn đoán
chỉnh hình răng mặt cũng như chẩn đoán trước phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ
[38],[39].
Góc mũi môi là thông số quan trọng để đánh giá thẩm mỹ vùng mũi
môi, là yếu tố then chốt phản ánh sự hài hòa của mũi và môi trên mặt nhìn
nghiêng. Tuy nhiên giá trị góc mũi môi trong giới hạn bình thường có thực sự
phản ánh sự hài hòa của vùng mũi môi? Góc mũi môi nhọn phản ánh tình
trạng mũi khoằm hay do môi trên vẩu? Góc mũi môi tù có phản ánh đúng
mức độ hếch của mũi không? Để trả lời những câu hỏi này, cần đánh giá góc


20

mũi môi trong mối tương quan với các thành phần liên quan, đặc biệt là với
mũi và môi trên.
Từ lâu các nhà nghiên cứu đã cố gắng đưa ra các phương pháp thiết lập
và đánh giá tương quan mô mềm vùng mũi môi mà cụ thể là tương quan giữa
góc mũi môi với độ nghiêng của mũi và độ nghiêng của môi trên.
Scheidemann (1980) phân tích góc mũi môi dựa trên phân tích hai góc
thành phần tạo nên góc mũi môi, góc A tạo bởi đường tiếp tuyến gốc mũi với
mặt phẳng ngang, góc B tạo bởi đường tiếp tuyến môi trên với mặt phẳng
ngang. Giá trị hai góc này thay đổi độc lập nhau, do đó cần được đánh giá
riêng trong quá trình điều trị [40]. Tuy nhiên mặt phẳng ngang khó xác định
chính xác, bởi vậy cần có phương pháp đánh giá chính xác hơn.
Với việc ra đời của phim sọ nghiêng từ xa, các phân tích trên phim sọ
nghiêng cho phép đánh giá tương quan mô mềm - mô cứng chính xác hơn nhờ
dựa trên các mặt phẳng của nền sọ. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh mặt
phẳng Frankfort là mặt phẳng thực sự, có thể xác định chính xác, rõ ràng trên
phim sọ nghiêng từ xa [38],[39].

Năm 1992, Fitzgerald nghiên cứu trên phim sọ nghiêng từ xa đã đưa ra
phương pháp đánh giá vùng mũi môi bằng việc thiết lập tương quan giữa ba
thông số góc vùng mũi môi bao gồm: góc mũi môi (Cm - Sn - Ls), góc tạo bởi
tiếp tuyến bờ dưới mũi với mặt phẳng Frankfort (N/FH) và góc tạo bởi tiếp
tuyến môi trên với mặt phẳng Frankfort (L/FH). Ông cho rằng có sự liên quan
chặt chẽ giữa góc mũi môi với hai góc này và mối tương quan này có thể
được ứng dụng trong việc thiết lập góc mũi môi và có thể tái lập góc mũi môi
đó trên lâm sàng. Ngoài ra tương quan của góc mũi môi với sáu góc sọ-mặt
khác cũng được xem xét và đánh giá (hình 1.15) [38].


21

Hình 1.19. Các góc vùng mũi môi theo Fitzgerald và cộng sự [38]

Hình 1.20. Sáu góc sọ-mặt trong nghiên cứu của
Fitzgerald và cộng sự bao gồm góc mặt, góc lồi mặt,
ANB, SGn/FH, góc trục mặt Y - Axis và FMA
(góc tạo bởi mặt phẳng Frankfort với mặt phẳng hàm dưới) [38]


22

Năm 2011, Nandini S. và cộng sự cũng sử dụng phương pháp nghiên
cứu của Fitzgerald trên người Ấn Độ, xác định được mối tương quan giữa góc
mũi môi với độ nghiêng bờ dưới mũi và độ nghiêng môi trên, qua đó lập
phương hồi quy tuyến tính [39].
Các nghiên cứu của Dua V. (2010), Kandhasamy K. (2012) trên người
Ấn Độ theo phương pháp này đã cho kết quả tương tự [41],[42]. Kết quả các
nghiên cứu đã cho thấy phương pháp đánh giá mối tương quan vùng mũi môi

dựa vào mặt phẳng Frankfort là phương pháp đáng tin cậy, có ý nghĩa trên
lâm sàng.
1.3. Các phương pháp nghiên cứu mô mềm mũi
Sự tăng trưởng khuôn mặt mỗi cá nhân ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền
riêng biệt cũng như yếu tố môi trường bên ngoài. Cùng với sự tăng trưởng và
phát triển của hệ thống sọ-mặt-răng, hình thái mô mềm mũi cũng có sự thay
đổi theo tuổi [43],[44]. Đó chính là lý do càng làm thêm đa dạng hình thái
mũi sau tuổi dậy thì [45]. Mẫu tăng trưởng của các chủng tộc và dân tộc
thường có khuynh hướng khác nhau [46],[47],[48],[49],[50],[51].
Những nghiên cứu cắt ngang và nghiên cứu dọc về sụ tăng trưởng và
phát triển của mô mềm mũi trên thế giới như Genecov (1989), Sarnäs và
Solow (1980) đã cho thấy sự tăng trưởng phát triển của mô mềm mũi không
dừng lại sau 17 tuổi [43] nhưng sự phát triển rất nhỏ, khoảng dưới 0,5mm
hoặc 0,50 sau mỗi 5 năm [52]. Theo nghiên cứu của Torlakovic L. (2011) [53]
và Kaur M. (2014) [54] sự thay đổi mô mềm trong đó có mô mềm mũi do
quá trình lão hóa bắt đầu sau 30 tuổi. Tại Việt Nam bước đầu có một số ít
nghiên cứu về mô mềm mũi của Trần Thị Anh Tú [24], còn lại phần lớn các
nghiên cứu chủ yếu về hình thái và sự tăng trưởng sọ-mặt nói chung: Đống
Khắc Thẩm (2010) [55], Võ Trương Như Ngọc (2010) [23], Lê Nguyên Lâm
(2014) [56]. Các nghiên cứu đã sử dụng nhiều phương pháp đo đạc, cách đánh


23

giá và phân tích khác nhau như đo trực tiếp, đánh giá qua ảnh chụp chuẩn hóa
và phim Xquang sọ mặt từ xa, nhằm ứng dụng trong lâm sàng và nghiên cứu.
1.3.1. Phép đo trực tiếp
Phép đo trực tiếp là phương pháp cơ bản nhất trong phân tích những
thay đổi kích thước mô mềm bằng đo đạc trực tiếp. Hạn chế của phương pháp
này là: sự nhạy cảm của một số tổ chức phần mềm với việc đo trực tiếp như

mắt; độ đàn hồi, độ dày và mật độ của tổ chức phần mềm; lực ấn khi sử dụng
dụng cụ đo đạc cũng ảnh hưởng đến độ chính xác kết quả [23].
Phương pháp này được sử dụng từ rất sớm, đơn giản và dễ thực hiện. Tại
Việt Nam, từ lâu phép đo trực tiếp đã được nhiều tác giả sử dụng trong nghiên
cứu hình thái, điển hình là Nguyễn Quang Quyền (1974) [57], Vũ Khoái
(1978) [58], Phan Ngọc Toàn (1999) [59], Lê Gia Vinh (2000) [22], Ngô Thế
Hải (2001) [60], Lê Việt Vùng (2005) [61].
1.3.2. Phép đo trên ảnh chụp
Phép đo trên ảnh chụp là phương pháp đo đạc chính xác dựa trên các
bức ảnh chuẩn hóa được đưa ra vào những năm 1940. Cho đến nay, những
chuẩn hóa về tư thế bệnh nhân cũng như chuẩn hóa về tư thế và các thông số
máy ảnh giúp cải thiện rất lớn độ tin cậy của phương pháp này. Phân tích trên
ảnh chụp được thực hiện trên ảnh chụp tư thế thẳng và nghiêng. Đây là
phương pháp được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau như nhân
trắc, hình sự với ưu điểm: rẻ tiền và có thể giúp đánh giá tốt hơn về tương
quan của các cấu trúc ngoài sọ gồm cơ và mô mềm. Các tác giả đã phân tích
các chỉ số nhân trắc khuôn mặt qua ảnh và đã đưa ra các tiêu chuẩn để chụp
mặt với các tư thế khác nhau như Farrario, Bisharra, Farkas, mục đích để
chuẩn hóa kỹ thuật chụp ảnh nhằm đánh giá và so sánh dễ dàng hơn [6].


24

1.3.3. Phép đo trên phim sọ nghiêng từ xa
Phim XQ sọ nghiêng chụp theo kỹ thuật từ xa giúp chúng ta đánh giá
cấu trúc mô xương và mô mềm khi chẩn đoán, lên kế hoạch điều trị, định
hướng các thủ thuật điều trị chỉnh hình và phẫu thuật, và cuối cùng giúp theo
dõi, đánh giá các kết quả điều trị. So với đo trực tiếp và đo trên ảnh chuẩn
hóa, ưu điểm vượt trội của đo trên phim sọ mặt là đánh giá được mô xương
bên dưới và mối tương quan giữa mô cứng và mô mềm.

Đối với đánh giá thẩm mỹ vùng mũi môi, phim sọ nghiêng chụp từ xa
cung cấp thông tin chuẩn xác về tương quan của mũi, môi trên dựa trên các
đường thẳng và mặt phẳng đi qua các điểm mốc mô mềm và mô cứng. Một số
nghiên cứu về mô mềm mũi được thực hiện trên phim sọ nghiêng từ xa của
Genecov (1989) [43], Fitzgerald J.P. (1992) [38], El-hadidy M. (2007) [62],
Nandini S. (2011) [39].


25

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên một nhóm người Việt (người Kinh) tại
Hà Nội tuổi từ 18-25 tại trường Cao đẳng Y Hà Nội và Học viện Y học cổ
truyền Việt Nam thuộc nhóm đối tượng nghiên cứu của đề tài Nhà nước
“Nghiên cứu đặc điểm nhân trắc đầu mặt ở người Việt Nam để ứng dụng
trong y học”.
 Tiêu chuẩn lựa chọn: Có đầy đủ các tiêu chí sau
+ Tuổi từ 18 đến 25.
+ Có đủ 28 răng vĩnh viễn (không kể răng hàm lớn thứ ba).
+ Đối tượng có phân loại khớp cắn (theo Angle) hai bên cùng loại .
+ Chưa điều trị nắn chỉnh răng, phẫu thuật thẩm mỹ mũi hoặc phẫu thuật
thẩm mỹ hàm mặt.
+ Không có dị dạng hàm mặt, không có tiền sử chấn thương mũi hoặc
chấn thương hàm mặt.
+ Không bị dị ứng, mụn nhọt vùng mũi, không có viêm nhiễm cấp tính
vùng mũi ảnh hưởng đến hình thái mô mềm mũi.
 Tiêu chuẩn loại trừ: Khi có một trong các tiêu chí sau
+ Đang có viêm nhiễm cấp tính vùng mũi hoặc viêm mũi dị ứng.

+ Đang có mụn nhọt lớn vùng mũi, môi, trán, cằm.
+ Bị dị dạng hàm mặt, có tiền sử chấn thương mũi hoặc chấn thương
hàm mặt.
+ Đã điều trị nắn chỉnh răng, hoặc phẫu thuật thẩm mỹ mũi hoặc phẫu
thuật thẩm mỹ hàm mặt.
+ Không hợp tác nghiên cứu.


×