Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích mối quan hệ giữa địa hình với các thành phần tự nhiên khác? Mối quan hệ này thể hiện ở địa hình Việt Nam như thế nào?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.45 KB, 9 trang )

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Khoa: Địa lý
BÀI ĐIỀU KIỆN:
ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Giảng viên: Nguyễn Quyết Chiến
Sinh viên: Đào Thị Hồng Sen
Lớp: K60C – Địa lý
1
Câu hỏi: Phân tích mối quan hệ giữa địa hình với các thành phần
tự nhiên khác? Mối quan hệ này thể hiện ở địa hình Việt Nam như
thế nào?
Địa hình là một trong những thành phần quan trọng nhất của môi
trường địa lý tự nhiên tạo nên diện mạo cảnh quan thực địa. Địa hình có
mối quan hệ chặt chẽ với các thành phần tự nhiên khác như: khí hậu,
sinh vật, thổ nhưỡng, thủy văn….
I. Mối quan hệ giữa địa hình với khí hậu.
Địa hình và khí hậu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Địa hình
có ảnh hưởng lớn đến khí hậu.

Địa hình ảnh hưởng đến gió bằng cách tạo ra chắn gió và các
đường hầm gió:
Chắn gió là nơi mà sự tăng hoặc giảm cảnh quan tạo ra một bức
tường chắn đất từ phía sau gió.
Đường hầm gió là nơi mà một hẻm núi hoặc thung lũng gió vào
một đoạn hẹp tạo ra những cơn gió mạnh trong khu vực đó.
Gió nhanh có thể tạo ra một cơn gió lạnh, yếu tố làm cho thời
tiết có vẻ lạnh hơn.

Địa hình ảnh hưởng đến nhiệt độ:
Càng lên cao không khí càng loãng nên khả năng hấp thụ nhiệt
của không khí ngày càng giảm => càng lên cao nhiệt độ càng giảm.



Địa hình ảnh hưởng đến độ ẩm:
Càng lên cao nhiệt độ càng giảm, độ ẩm tăng, khả năng tạo mưa
(ở vĩ độ thấp), băng tuyết (ở vĩ độ cao) càng lớn.
Biểu hiện ở khí hậu Việt Nam
1. Địa hình ảnh hưởng đến gió
- Gió mùa mùa đông (Tháng 11-tháng 4): vùng Đông Bắc bao gồm
đồng bằng Bắc Bộ, Trung du miền núi phía Bắc (phía Đông dãy
Hoàng Liên Sơn). Phía Bắc có các dãy núi không cao lắm (1000m-
<3000m), theo hình nan quạt trên các hướng Đông Bắc-Tây Nam,
Bắc-Nam..rồi chụm lại hướng về dãy núi Tam Đảo (đó là các cánh
cung Đông Triều, Bắc Sơn, Ngân Sơn, sông Gâm và kết thúc là dãy
2
Hoàng Liên Sơn trên ranh giới vùng Tây Bắc Bộ không ngăn cản mà
tạo thành các sườn dẫn gió mùa Đông Bắc và gió bắc thường thổi về
mùa đông. Vùng này tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ về phía Đông. Phía
Tây bị chắn bởi dãy Hoàng Liên Sơn cao nhất Việt Nam nên chịu ảnh
hưởng của khí hậu đại dương nhiều hơn vùng Tây Bắc Bắc Bộ. Gió
mùa mùa đông thổi đến dãy Hoành Sơn bị suy yếu và kết thúc ở dãy
Bạch Mã.
- Gió mùa mùa hạ (Gió mùa Tây Nam) (Tháng 5-Tháng 10):
+ Nửa đầu mùa hạ: không khí từ Ấn Độ dương vào nước ta
theo hướng Tây Nam gây mưa nhiều cho Nam bộ và Tây nguyên.
+ Nửa cuối mùa hạ: không khí từ áp cao cận chí tuyến nửa cầu
nam vài nước ta theo hướng Tây Nam, qua vùng biển xích đạo gây
mưa cho Nam bộ, Tây Nguyên, cùng với dải hội tụ nhiệt đới gây mưa
vào mùa hạ cho miền Nam, Bắc và mưa rào cho Nam Trung Bộ.
- Gió foehn (gió fơn): Về mùa hè, khi gió mùa Tây Nam hoạt
động mạnh thổi từ vịnh Thái Lan qua vùng lục địa rộng lớn đến dãy
Trường Sơn thì bị trút hết mưa xuống Tây Trường Sơn nhưng vẫn tiếp

tục vượt qua dãy núi để thổi sang vùng này. Lúc này do không còn
hơi nước nên gió mùa Tây Nam gây ra thời tiết khô nóng => được gọi
là gió fơn.
2 Địa hình ảnh hưởng đến nhiệt.
- Địa hình thoải nhận được nhiều bức xạ hơn địa hình dốc:
·Về tổng bức xạ, phía Bắc: các trị số khoảng 110-140
kcal/cm
2
/năm, còn về phía Nam thì thừ 140-160 kcal/cm
2
/năm.
·Ở miền Bắc thì khu Đông Bắc có cân bằng bức xạ thấp, chỉ
trong khoảng 70-75kcal/cm
2
/năm, trên địa hình núi cao khoảng 50-70
kcal/cm
2
/năm, còn vùng đồng bằng và đồi núi thấp từ 75-85
kcal/cm
2
/năm, riêng đồng bằng Thanh-Nghệ tới 85-90 kcal/cm
2
/năm.
·Từ sau đèo Hải Vân, cân bằng bức xạ cao dần khi xuống
dưới địa hình thấp. Tây Nguyên là 90-95 kcal/cm
2
/năm, duyên hải
Nam Trung Bộ và Nam Bộ 95-100 kcal/cm
2
/năm, ở cực Nam Trung

Bộ từ Nha Trang đến Phan Thiết có thể trên 100 kcal/cm
2
/năm.
- Nơi nào có độ cao lớn hơn có nhiệt độ trung bình thấp hơn:
Vào mùa đông lạnh vừa, tại đồng bằng Bắc Bộ là lạnh thì trên
núi phía Bắc là rét và rất rét.
3
Địa điểm Độ cao Nhiệt độ T.B năm
Sơn La 676m 21,0
0
C
Tam Đảo 897m 18,0
0
C
Phó Bảng 1400m 15,7
0
C
Sín Hồ 1529m 15,9
0
C
Sapa 1570m 15,2
0
C
Hoàng Liên Sơn 2170m 12,8
0
C
- Tổng nhiệt độ giảm dần từ thấp lên cao. Ở địa hình đồng
bằng từ Nam ra Bắc, tổng nhiệt độ giảm khoảng 150
0
C cho mỗi vĩ độ,

do đó phía Bắc đèo Hải Vân tổng nhiệt trên dưới 8000
0
C/năm đến
đồng bằng sông Cửu Long tới 10.000
0
C. Trên núi, tổng nhiệt độ giảm
khoảng 180-200
0
C/100m, vì vậy tại cùng núi ở miền Bắc, tổng nhiệt
độ có thể giảm xuống còn 6000-5000
0
C, còn tại vùng núi miền Nam
là 7000-6000
0
C.
3 Ảnh hưởng đến chế độ ẩm
- Cùng một sườn núi càng lên cao nhiệt độ càng giảm mưa càng nhiều,
nhưng tới một độ cao nào đó độ ẩm không khí đã giảm nhiều sẽ không
còn mưa nữa, vì thế những đỉnh núi thường khô ráo.
- Lượng mưa trung bình năm ở : ·đồng bằng: 1500mm
·núi cao: 2000-3000mm
·nơi khuất gió: khoảng
700mm
- Mưa nhiều nhất ở những vùng núi cao chắn gió:
·Ở miền Bắc: vùng núi thượng nguồn sông Chảy, vùng núi
Hoàng Liên Sơn, vùng núi Nam Châu Lãnh (Sapa 2833mm, Móng Cái
2749mm)
·Ở Nam Trung Bộ: các đỉnh núi cao của dải Trường Sơn Nam
(Hòn Ba-Khánh Hòa 3751mm). Cũng mưa nhiều như vậy là vùng núi
Ngọc Lĩnh (trên 3000mm), vùng núi Vọng Phu (trên 2800mm). Không

những dải Trường Sơn mưa nhiều mà các đồng bằng ven biển cũng có
lượng mưa tới trên 2500mm (Hà Tĩnh 2642, Huế 2868mm)
- Những nơi có lượng mưa trung bình là hai đồng bằng miền
Bắc, miền Nam và đồng bằng Trung Bộ từ Quảng Ngãi đến Phú Yên
( Hà Nội 1676mm, Tp Hồ Chí Minh 1931mm, Quy Nhơn 1692mm).
4
- Nơi mưa ít do khuất gió ẩm có lượng bốc hơi tăng, còn tại vùng
đón gió thì lượng bốc hơi giảm. Lên miền núi, nhiệt độ giảm theo độ
cao, lượng bốc hơi cũng giảm.
- Độ ẩm trung bình năm cũng có sự khác biệt giữa địa hình. Ở miền
núi phía Bắc, ở Hoàng Liên Sơn độ ẩm trung bình năm là 90%, Việt
Bắc và sườn đông Fansipan là 84-88%. Tại miền Nam, nơi khô nhất là
Ninh Thuận (Nha Hố 75%) .
II. Mối quan hệ giữa địa hình với thủy văn
Địa hình có ảnh hưởng lớn đến thủy văn. Địa hình có thể làm
thay đổi mật độ sông ngòi, diện tích lưu vực, chiều dài, độ dốc và tốc
độ của dòng chảy.
Biểu hiện ở thủy văn Việt Nam
- Do tính chất đồi núi bị cắt xẻ hình dạng hẹp ngang mạnh của
lãnh thổ nên phần lớn các sông ở nước ta là những sông ngắn có diện
tích lưu vực nhỏ. Có đến 91% số sông ngòi dài 10 đến 50 km, sau đó tụt
hẳn xuống thì sông dài 50km đến 100km chiếm trên 6% và sông dài
trên 100km chỉ quá 2%.
- Hướng chính của sông ngòi cũng theo hướng của địa hình
nước ta là theo hướng Tây Bắc-Đông Nam và hướng vòng cung. Trên
cùng một dòng sông cũng có khúc già khúc trẻ xen kẽ, điển hình nhất là
các sông chảy trên các cao nguyên xếp tầng như: sông Đa Nhim và Đa
Đưng. Trong vùng núi mà phần lớn các sông trẻ đang đào lòng dữ dội
,thung lũng hẹp ,có nơi là những hẻm vực.
- Ở những vùng đá vôi mật độ sông ngòi thuộc dạng thấp nhất,

dưới 0,5km/km
2
, chủ yếu ở miền Bắc ,đồng thời lượng dòng chảy mặt
giảm xuống rõ rệt.
- Khu vực miền núi cao có sườn đón gió là nơi có mật độ sông
suối lớn .
- Vùng đồng bằng châu thổ có mật độ mạng lưới sông ngòi đạt
giá trị cao nhất tới 2,0-4,0km/km
2
.
- Là một mạng lưới sông miền núi, độ cao bình quân của các
lưu vực sông từ 500-1000m ,thuộc địa hình núi thấp, còn độ dốc bình
quân lưu vực khoảng 20% đến 25%.
- Do sự tương phản sâu sắc giữa địa hình đồi núi mà có sự thay
đổi đột ngột giữa vùng hạ du và vùng thượng du sông. Dòng sông ở
thượng lưu rất dốc, trắc diện dọc trong khoảng 10-20 km đầu nguồn gần
5

×