Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

SỰ CHUYỂN đổi cơ cấu xã hội NGHỀ NGHIỆP của LAO ĐỘNG NÔNG THÔN ở HUYỆN lý NHÂN, TỈNH hà NAM TRONG QUÁ TRÌNH đô THỊ hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.32 KB, 70 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRƯƠNG THỊ THÚY VÂN

SỰ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HUYỆN LÝ NHÂN,
TỈNH HÀ NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRƯƠNG THỊ THÚY VÂN

SỰ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở HUYỆN LÝ NHÂN,
TỈNH HÀ NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Nghành: Giáo dục Chính Trị

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Lan

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chúng tôi, dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của TS. Trần Thị Lan. Các số liệu điều tra và kết quả nghiên cứu trong
khóa luận là trung thực và được lấy từ các nguồn đáng tin cậy. Nếu sai tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm .
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 05 năm 2019
Sinh viên thực hiện

Trương Thị Thúy Vân

i


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn thầy, cô giáo Khoa Giáo dục chính trị - Trường Đại
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã trang bị cho em những kiến thức, kinh
nghiệm quý giá trong thời gian học tập tại khoa và nhiệt tình giúp đỡ em thực hiện
khóa luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô giáo hướng dẫn - TS. Trần
Thị Lan đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình nghiên cứu và
thực hiện khóa luận.
Tuy đã có những cố gắng nhất định nhưng do trình độ nhận thức và năng lực
còn hạn chế nên chắc chắn khóa luận vẫn còn nhiều thiếu sót. Em kính mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để khóa luận của em được hoàn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 05 năm 2019
Sinh viên thực hiện

Trương Thị Thúy Vân


ii


MỤC LỤC
1.1.1. Khái niệm lao động nông thôn 7
1.1.2. Khái niệm cơ cấu xã hội - nghề nghiệp 10
Nhờ có sự phân công lao động xã hội, nghề nghiệp được hình thành một cách khách
quan dưới sự tác động của nhiều quy luật. Một trong những đặc trưng cơ bản của
phân công lao động xã hội là sự phân công lao động theo ngành nghề. 11
Trong Đại từ điển tiếng Việt có định nghĩa: “Nghề là công việc chuyên làm theo sự
phân công của lao động xã hội” [5,tr. 431]. 11
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam 21
2.1.1. Điều kiện tự nhiên của huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam 21
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội của huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam 22

iii


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
CNH, HĐH
KTTT
THCS
THPT
TCCN
CĐ, ĐH
KT-XH
HĐND
UBND


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Kinh tế thị trường
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trung cấp chuyên nghiệp
Cao đẳng, đại học
Kinh tế - xã hội
Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân

iv


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của huyện Lý Nhân giai đoạn 2015 - 2018..........
.................................................................................................................................... 23
Bảng 2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động trong cơ cấu ngành kinh tế ở huyện Lý Nhân
giai đoạn 2015 - 2018.............................................. Error: Reference source not found
Bảng 2.3. Cơ cấu kinh tế của huyện Lý Nhân giai đoạn 2016 - 2020 .Error: Reference
source not found
Bảng 2.4. Giá trị sản xuất của các ngành giai đoạn 2016 - 2020 ........Error: Reference
source not found
Bảng 2.5: Hiện trạng sử dụng đất phân theo loại đất (tính đến ngày 31/12/2017) ........
Error: Reference source not found
Bảng 2.6: Biến động lao động trong các ngành nghề ở huyện Lý Nhân ..............Error:
Reference source not found
Bảng 2.7. Trình độ của lực lượng lao động huyện Lý Nhân giai đoạn 2015 - 2018
..................................................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.8. Tương quan giữa thu nhập và trình độ học vấn Error: Reference source not
found

Bảng 2.9. Số hộ tham gia một số ngành nghề của huyện Lý Nhân giai đoạn 2015 2018 .........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.10. Tình trạng thất nghiệp trên địa bàn huyện Lý Nhân giai đoạn 2015 - 2018
..................................................................................Error: Reference source not found

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đô thị hóa nông
thôn đã và đang trở thành xu thế tất yếu của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Ở tầm
vĩ mô, đô thị hóa là một trong những giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đáp ứng mục tiêu phát triển
mạnh các ngành công nghiệp - dịch vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong giai đoạn
đến năm 2020.
Quá trình đô thị hóa đang và sẽ tiếp tục tác động nhiều chiều đến mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, nhất là sự chuyển dịch cơ cấu xã hội - nghề nghiệp. Sự tác động
đó bao hàm cả những mặt tích cực và mặt tiêu cực, hạn chế thậm chí là những khó
khăn, thách thức rất lớn đối với mỗi địa bàn trên cả nước, đặc biệt là khu vực nông
thôn. Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, nâng cao
đời sống nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, quá trình đô thị hóa vẫn
còn tồn tại không ít những bất cập đặt ra cần phải giải quyết: vấn đề việc làm cho
nông dân bị mất đất, phương pháp đền bù khi giải phóng mặt bằng, cách thức di dân,
dãn dân, cùng với đó là vấn đề lao động - việc làm đối với một bộ phận lớn dân cư
nông thôn. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm khi bị thu hồi đất đai phục vụ mục
tiêu đô thị hóa đã trở thành thách thức không nhỏ mà các cấp, các ngành từ trung
ương đến địa phương cần chung tay tìm kiếm giải pháp khắc phục.
Huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam là một trong những địa bàn diễn ra quá trình đô
thị hóa với tốc độ mạnh. Thực tế này đã tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời
sống dân cư nông thôn. Cơ cấu ngành nghề ngày càng biến đổi theo xu hướng đa

dạng, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông
nghiệp; kinh tế phát triển góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân. Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá cũng khiến khu vực này phải đối mặt với nhiều
thách thức lớn về vấn đề dân số, nghề nghiệp, việc làm, tình hình rác thải công
nghiệp, ô nhiễm môi trường, sự biến đổi về văn hoá đạo đức lối sống…. Một trong
những vấn đề đáng quan tâm đó là sự chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của
người nông dân. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phát huy tác động tích cực và hạn
1


chế những khó khăn, thách thức của quá trình đô thị hóa đối với vấn đề chuyển đổi cơ
cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông thôn trên địa bàn huyện Lý Nhân, tỉnh Hà
Nam. Đây không chỉ là vấn đề cấp bách trước yêu cầu giải quyết thỏa đáng việc làm,
nâng cao năng suất lao động mà còn là vấn đề có tính chiến lược lâu dài để hợp lý
hóa cơ cấu và quy mô sản xuất, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của
huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận
và thực tiễn đó, em đã lựa chọn vấn đề “Chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của
lao động nông thôn ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam trong quá trình đô thị hóa” làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay nước ta đang trong thời kì CNH,HĐH vì thế vấn đề chuyển đổi cơ
cấu xã hội - nghề nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi quốc
gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt
Nam. Lao động nông thôn là nhân tố quan trọng góp phần tích cực vào quá trình
CNH, HĐH đất nước, đồng thời cũng tạo lợi thế để phát triển kinh tế tại các địa
phương. Qua quá trình tìm hiểu thực tế có thể thấy lao động nông thôn luôn là đề tài
được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu.
Tác giả Trần Thị Tuyết và Lê Văn Phùng, “Các nhân tố ảnh hưởng đến quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và tạo việc làm của lao động nông thôn”. Đề tài
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu

ngành nghề và việc làm của lao động nông thôn nhưng đề tài chưa đi sâu nghiên cứu
thực trạng của vấn đề này.
Tác giả Vũ Tiến Quang với cuốn sách “Việc làm ở nông thôn - Thực trạng và
giải pháp, Nxb Nông nghiệp đã tập trung nghiên cứu về cơ cấu việc làm ở nông thôn từ
đó đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm cho người nông dân.
Tác giả Lê Hải Thanh “Sự biến đổi cơ cấu lao động - việc làm ở nông thôn
ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”. Trong công trình này tác giả đã
nghiên cứu về thực trạng biến đổi lao động - việc làm của nông dân ngoại thành
Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả cũng đưa ra một số nguyên nhân ảnh hưởng đến
quá trình này đồng thời cũng dự báo về xu hướng biến đổi trong thời gian tới.

2


Trần Thị Bích Loan với đề tài “Tác động của quá trình đô thị hoá tới việc làm
và thu nhập của người lao động nông nghiệp nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc”.
Nguyễn Thị Vân Anh với đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu lao động vùng Đồng
bằng Sông Hồng giai đoạn 2011 - 2015” cũng đã bàn đến những vấn đề liên quan đến
thực trạng của việc chuyển đổi cơ cấu lao động.
Hoàng Văn Định -Vũ Đình Thắng (2002), Giáo trình kinh tế phát triển nông
thôn; Nhà xuất bản thống kê; Hà Nội năm 2002.
Thái Ngọc Tịnh (2003), Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở
nông thôn Hà Tĩnh, luận án Tiến sĩ kinh tế, trường Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội.
Đồng Văn Tuấn (2004), Giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm và tăng thu nhập
cho lao động nông thôn huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên năm 2004.
Trịnh Duy Luân (chủ biên) (2004), Xã hội học đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Lê Xuân Bá (2006), “Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động nông thôn Việt Nam”.
Võ Thanh Dũng (2007), Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động tại TPCT
trong bối cảnh đô thị hóa: trường hợp nghiên cứu quận Ô Môn.

Tạ Thị Kim Bình (2010), Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến biến động
đất đai và đời sống hộ dân trên địa bàn thị trấn Bích Động - huyện Việt Yên - tỉnh
Bắc Giang giai đoạn 2000 - 2010, Luận văn thạc sĩ.
Dương Thùy Trang (2013), “Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của hộ gia
đình nông thôn trong quá trình đô thị hóa”, Chuyên ngành Xã hội học, Hà Nội.
Trần Thị Bích Huyền (2014), Quá trình đô thị hóa Quận 2 - TP. Hồ Chí Minh
và những tác động đối với kinh tế - xã hội.
Dương Ngọc Thành và Nguyễn Minh Hiếu (2014), “Thực trạng lao động và
việc làm nông thôn Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số
30/2014.
Nguyễn Thị Hải Vân (2012), “Tác động của đô thị hóa đối với lao động việc
làm ở nông thôn ngoại thành Hà Nội”, Luận án tiến sĩ.
Nguyễn Thị Kim Hồng (2013), Nghiên cứu một số giải pháp giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ,
trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
3


Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận chung về sự chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp. Tuy nhiên, chưa có đề tài
nào nghiên cứu về “sự chuyển đổi của cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông
thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam”.
Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu đã công bố, đề tài tập trung đánh
giá thực trạng chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông thôn ở
huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, từ đó đưa ra những khuyến nghị thiết thực góp phần
nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông thôn
trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ lý luận chung về chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của

lao động nông thôn dưới tác động của đô thị hóa, đề tài đánh giá thực trạng và đề xuất các
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao
động nông thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận chung về đô thị hóa, về chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp
của lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao
động nông thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam và nhận
diện các yếu tố ảnh hưởng đến việc chuyển đổi nghề nghiệp của lao động nông thôn
trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu xã hội nghề nghiệp của lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động
nông thôn trong quá trình đô thị hóa.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp của lao động nông thôn là một lĩnh vực rất
rộng với nhiều cách tiếp cận, đề tài chỉ tập trung đánh giá và làm rõ sự chuyển đổi cơ
cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông thôn trong quá trình đô thị hóa ở huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
- Về thời gian: Đề tài khảo sát sự chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của
lao động nông thôn ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam từ năm 2015 - 2018 và đề xuất
giải pháp cho những năm tới.
5. Cơ sở lí luận của đê tài và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lí luận của đề tài

Cơ sở lí luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự biến đổi
của cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, chủ trương, chính sách của Nhà nước về chuyển đổi cơ cấu nghề
nghiệp, về lao động nông thôn, về đô thị hóa nông thôn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp logic - lịch sử.
- Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp liên ngành: Phân tích, so
sánh, hệ thống hóa.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Trên cơ sở hệ thống hóa các quan niệm về đô thị hóa, chuyển dịch cơ cấu xã
hội - nghề nghiệp, đề tài làm rõ hơn xu hướng chuyển dịch cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp của lao động nông thôn dưới tác động của quá trình đô thị hóa.
- Từ việc khảo sát, đánh giá thực trạng chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp của lao động nông thôn dưới tác động của đô thị hóa ở huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam, đề tài làm sáng tỏ các nhân tố tác động và đề xuất những giải pháp cơ bản
để nâng cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của lao động nông thôn
ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Sau khi hoàn thiện, đề tài được dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành Giáo dục chính trị.

5


7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và phần danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung đề tài gồm có 3 chương, 7 tiết.

6



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP CỦA
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
1.1. Khái niệm lao động nông thôn, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp và đô thị hóa
1.1.1. Khái niệm lao động nông thôn
* Quan niệm về lao động
Khái niệm "lao động" tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà khoa học đưa ra
các quan niệm về "lao động" tương ứng. Tuy nhiên, các quan điểm đều tập trung chủ
yếu vào hai khía cạnh: Thứ nhất, coi lao động là hoạt động, là phương thức tồn tại
của con người. Thứ hai, coi lao động chính là bản thân con người, là sự nỗ lực vật
chất và tinh thần của con người dưới dạng hoạt động tạo ra những sản phẩm vật chất
và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của con người.
Lao động là hoạt động có ý thức của con người, đó là quá trình con người sử
dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động cải biến nó tạo ra sản phẩm
để thỏa mãn nhu cầu của mình và xã hội.
C.Mác cho rằng: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra đối với con
người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của mình con người làm
trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên” [11,tr.230].
W.Petty là nhà kinh tế học người Anh xác định: lao động là một trong hai yếu tố,
nhưng là yếu tố chủ động quyết định việc tạo ra của cải “ Lao động là cha và đất là
mẹ của của cải vật chất” [37].
Ph.Ăngghen khẳng định: “Lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động
đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho lao động
đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế
nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế
đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra
bản thân loài người” [12, tr.641]. Qua đó, “con người nhân đôi mình không chỉ về
mặt trí tuệ như xảy ra trong ý thức nữa, mà còn nhân đôi mình một cách hiện thực,


7


một cách tích cực và con người ngắm nhìn mình trong thế giới do mình sáng tạo ra”
[13, tr.282].
Xét về bản chất, “lao động là một hoạt động tích cực và sáng tạo” [13, tr.119].
Bằng cách sử dụng công cụ và các tư liệu lao động tác động lên đối tượng lao động
để biến đổi nó thì con người đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình, phát triển
những khả năng, mở rộng và làm phong phú thêm kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng,
kỹ xảo trong lao động, trong hoạt động sống một cách tích cực, sáng tạo. Chính vì
vậy, quá trình lao động luôn chứa đựng trong nó và được thể hiện ra ngoài như là quá
trình tự biểu hiện, tự khẳng định của cá nhân.
Hồ Chí Minh coi lao động sản xuất là chức năng đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của một cấu trúc xã hội, trong đó người lao động đặt ở vị trung tâm là
nguồn lực quan trọng quyết định nhất cho quá trình sản xuất.
Lao động là vốn quý, là yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của
mọi hình thức kinh tế xã hội, chính vì lẽ đó Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn đề về
dân số, lao động, việc làm vào vị trí hàng đầu trong các chính sách kinh tế xã hội.
Từ những quan điểm đưa ra có thể khẳng định: Lao động là hoạt động có mục
đích, có ý thức của con người, trong quá trình lao động con người vận dụng sức lực
tiềm tàng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng
lao động nhằm biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của mình.
* Quan niệm về nông thôn
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nông thôn là làng mạc sống bằng sản xuất nông
nghiệp, khác hẳn với thành thị. Nói đúng hơn nông thôn là vùng địa lý cư trú gắn với
thiên nhiên, khác hẳn thành thị với dân cư chủ yếu là nông dân, ngành nghề chủ yếu
là nông nghiệp và có lối sống riêng, văn hóa riêng” [27,tr.123].
Tác giả V.Staroverov - nhà xã hội học người Nga đã đưa ra định nghĩa khá
khái quát về nông thôn: “Nông thôn với tư cách là khách thể nghiên cứu của xã

hội học về một phân hệ xã hội có lãnh thổ xác định đã hình thành từ lâu trong lịch
sử. Đặc trưng của phân hệ xã hội này là sự thống nhất đặc biệt của môi trường
nhân tạo với các điều kiện địa lý ưu trội, kiểu loại tổ chức xã hội phân tán về mặt
không gian” [34].

8


Tác giả Tô Duy Hợp lại khẳng định: “Nông thôn phân biệt với đô thị bởi trình
độ phát triển kinh tế - xã hội thấp hơn về mức độ phúc lợi xã hội, sinh hoạt. Điều này
thể hiện rõ trong cơ cấu xã hội và trong lối sống của cư dân nông thôn. Ở nông thôn
loại hình hoạt động lao động kém đa dạng (so với đô thị) tính thuần nhất về xã hội và
nghề nghiệp cao hơn. Nông thôn là hệ thống độc lập tương đối ổn định, là một tiểu hệ
thống không gian - xã hội. Các thành phần của nó đồng nhất với đô thị song mặt khác
lại tách biệt. Nông thôn và đô thị hợp lại thành chỉnh thể xã hội và lãnh thổ của cơ
cấu xã hội ” [9, tr.115].
Từ những quan điểm trên có thể khẳng định: Nông thôn là vùng khác hẳn với
thành thị, ở đó có cộng đồng chủ yếu là nông dân sinh sống và làm việc, có mật độ
dân cư thấp, có cơ cấu hạ tầng kém phát triển hơn, có trình độ tiếp cận thị trường và
sản xuất hàng hóa thấp hơn.
* Quan niệm về lao động nông thôn
Lao động nông thôn là toàn bộ những hoạt động lao động sản xuất tạo ra
của cải vật chất của những người lao động nông thôn. Do đó, lao động nông thôn
bao gồm: lao động trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, dịch vụ
nông thôn…
Lao động nông thôn là một bộ phận của nguồn nhân lực quốc gia, sinh sống và
làm việc ở nông thôn đang trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động theo quy
định của pháp luật.
Đặc điểm của lao động nông thôn:
- Trình độ thể lực hạn chế do kinh tế kém phát triển, mức sống thấp. Điều này

ảnh hưởng đến năng xuất lao động và trình độ phát triển kinh tế.
- Lao động nông thôn có tính thời vụ, có thời kỳ căng thẳng, có thời kỳ nhàn
rỗi. Điều này ảnh hưởng đến nhu cầu lao động trong từng thời kỳ; Ảnh hưởng đến đời
sống sản xuất và thu nhập của lao động nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp luôn chịu
tác động và bị chi phối mạnh mẽ bởi các qui luật sinh học và điều kiện tự nhiên của
từng vùng (khí hậu, đất đai,…). Do đó, quá trình sản xuất mang tính thời vụ cao, thu
hút lao động không đồng đều. Chính vì tính chất này đã làm cho việc sử dụng lao
động ở các vùng nông thôn trở nên phức tạp hơn.

9


- Trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật cũng như trình độ tiếp cận thị trường
thấp. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng đến khả năng tự tạo việc làm của lao động. Hoạt
động sản xuất được tham gia bởi nhiều đối tượng ở nhiều độ tuổi khác nhau, trong đó
có cả những người ở ngoài độ tuổi lao động.
- Lao động nông thôn đa dạng, ít chuyên sâu, trình độ thấp. Sản xuất nông
nghiệp có nhiều việc gồm các khâu với các tính chất khác nhau. Hơn nữa mức độ áp
dụng máy móc thiết bị vào sản xuất còn thấp vì thế mà sản xuất nông nghiệp chỉ đòi
hỏi về sức khỏe, sự lành nghề và kinh nghiệm. Mỗi lao động có thể đảm nhận nhiều
công việc khác nhau nên lao động nông thôn ít chuyên sâu hơn lao động trong các
ngành công nghiệp và một số ngành khác. Bên cạnh đó, phần lớn lao động nông
nghiệp mang tính phổ thông, ít được đào tạo, sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào kinh
nghiệm và sức khỏe, tổ chức lao động đơn giản, công cụ lao động cũng thô sơ mang
tính tự chế cao. Lực lượng chuyên sâu, lành nghề, lao động chất xám không đáng kể,
phân bố lao động không đồng đều, vì vậy mà hiệu suất lao động thấp, khó khăn trong
việc tiếp thu công nghiệp hiện đại vào sản xuất.
- Lao động nông thôn nước ta còn mang nặng tư tưởng và tâm lý tiểu nông,
sản xuất nhỏ, ngại thay đổi nên thường bảo thủ và thiếu năng động, sáng tạo.
1.1.2. Khái niệm cơ cấu xã hội - nghề nghiệp

Cơ cấu xã hội là kết cấu tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất định
trong đó có sự thống nhất bền vững tương đối của các yếu tố, thành phần, mối liên hệ
cơ bản của hệ thống xã hội đó. Cơ cấu xã hội nằm trong bản thân xã hội, trước hết là
một bộ phận, nhân tố cấu thành hệ thống xã hội. Các quan niệm về cơ cấu xã hội đều
thừa nhận sự gắn kết giữa cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội.
Cơ cấu xã hội còn được quan niệm là tổng thể các nhóm xã hội có liên hệ tác
động qua lại với nhau, cũng như các thiết chế xã hội và các mối quan hệ của chúng.
Cơ chế tồn tại và phát triển của cơ cấu xã hội được chứa đựng trong hệ thống hoạt
động của con người. Sự phân công lao động xã hội như nguồn gốc sâu xa nhất của
các khác biệt xã hội, là chìa khoá để giải thích lịch sử các mối quan hệ xã hội, nó
mang tính nguyên tắc đối với quá trình cấu tạo nhóm.
Cơ cấu xã hội là mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã hội:
các cộng đồng xã hội (dân tộc; giai cấp) là những thành tố cơ bản về phần mình, mỗi

10


cộng đồng xã hội lại có những cơ cấu phức tạp với những tầng lớp bên trong và
những mối liên hệ giữa chúng”.
Như vậy, cơ cấu xã hội là khái niệm rộng, không chỉ liên quan tới hành vi xã
hội mà còn là mối tương tác giữa các yếu tố khác của hệ thống xã hội. Khi nói tới cơ
cấu xã hội, cần quan tâm đến những khía cạnh sau: Xã hội là một tổ chức phức tạp,
đa dạng của các mối liên hệ cá nhân, tổ chức xã hội và xã hội. Cơ cấu xã hội có mối
quan hệ chặt chẽ hữu cơ với các quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội là hình thức vận
động của cơ cấu xã hội và ngược lại, cơ cấu xã hội là cơ sở của sự tồn tại và phát
triển của các quan hệ xã hội.
Nhờ có sự phân công lao động xã hội, nghề nghiệp được hình thành một cách
khách quan dưới sự tác động của nhiều quy luật. Một trong những đặc trưng cơ bản
của phân công lao động xã hội là sự phân công lao động theo ngành nghề.
Trong Đại từ điển tiếng Việt có định nghĩa: “Nghề là công việc chuyên làm

theo sự phân công của lao động xã hội” [5,tr. 431].
Theo Từ điển tiếng Việt: “Nghề ” là công việc hàng ngày làm để sinh nhai”; “
Nghề nghiệp : là nghề làm để mưu sống” [27,tr.726].
Theo giáo trình Kinh tế lao động: “Nghề nghiệp là hình thức phân công lao
động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành
những công việc nhất định” [7,tr.175].
Với tư cách là một hình thức lao động sản xuất nào đó trong xã hội, tác giả
E.A.Klimov khẳng định: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất
và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do sự phân
công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho con người khả năng sử dụng lao động của
mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển” [36].
Từ các khái niệm trên chúng ta có thể hiểu, nghề nghiệp là một dạng lao động
vừa mang tính xã hội (sự phân công xã hội) vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản
thân), trong đó con người với tư cách là chủ thể tham gia lao động để thỏa mãn những
yêu cầu nhất định của xã hội và cá nhân.
Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp là sự phân công lao động xã hội, là sự chuyên
môn hoá theo ngành của các tập đoàn xã hội nhằm thực hiện những chức năng lao
động của mình trong khuôn khổ của các tổ chức sản xuất xã hội chung (tổ chức sản
11


xuất hay phi sản xuất) trong nền kinh tế xã hội. Có thể nói cơ cấu giai cấp là sự phân
chia xã hội theo tầng lớp theo chiều ngang của cơ cấu xã hội. Còn cơ cấu nghề nghiệp
là sự phân chia cơ cấu xã hội theo chiều dọc của xã hội.
Mỗi một xã hội và mỗi một giai đoạn lịch sử đều có một thang giá trị nghề
nghiệp khác nhau. Khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì thang giá trị nghề nghiệp
cũng thay đổi theo.
Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp xã hội chịu tác động mạnh mẽ của cơ cấu xã hội giai cấp và cơ cấu xã hội dân số. Sự phân công lao động xã hội là nhân tố quan trọng
để tạo ra sự phân chia lao động xã hội. Theo đó, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp là hệ quả
của sự phân công lao động xã hội. Đặc trưng cơ bản của phân công lao động xã hội là

sự phân công lao động theo ngành nghề. Trong khuôn khổ của sự phân công lao động
xã hội sẽ xuất hiện những ngành nghề mới. Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp được xem là
hệ thống gồm các nhóm người, các tầng lớp khác nhau về ngành nghề.
Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất
và trình độ học vấn của người lao động. Không những thế, nó còn phụ thuộc vào các
yếu tố khác như giới tính, truyền thống ngành nghề của cộng đồng dân cư... Xã hội học
nghiên cứu cơ cấu lao động nghề nghiệp nhằm tìm hiểu xu hướng biến đổi của cơ cấu
lao động nghề nghiệp và các nhân tố tác động, chi phối quá trình biến đổi này.
Như vậy, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về
chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các nghề nghiệp trong một hệ thống
kinh tế - xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp
luôn gắn với sự phân công lao động xã hội, là sự chuyên môn hóa theo ngành của
các tập đoàn xã hội, thực hiện các chức năng của mình trong khuôn khổ của tổ chức
sản xuất xã hội chung của tổ chức sản xuất của một ngành nghề nào đó trong nền
kinh tế xã hội.
1.1.3. Khái niệm đô thị hóa
Hiện nay các nhà khoa học đã nghiên cứu quá trình đô thị hóa và đưa ra không
ít định nghĩa cùng với những đánh giá về quy mô, tầm quan trọng và dự báo tương lai
của quá trình này.

12


Theo khoản 1, điều 3, Luật Quy hoạch đô thị, “Đô thị là nơi tập trung dân
cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông
nghiệp; là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành; có
vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ,
một địa phương; bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố, nội thị, ngoại thị
của thị xã, thị trấn” [34].
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Đô thị hóa là quá trình tập trung dân cư ngày càng

cao vào các đô thị và làm nâng cao vai trò của thành thị đối với sự phát triển của xã
hội ” [27, tr.6].
Theo cuốn Bách khoa toàn thư “Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị tính theo
tỷ lệ phần trăm giữa dân số đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích
của một vùng hay một khu vực ”. Nó cũng có thể tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu
tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách thứ nhất thì nó còn được gọi là mức độ đô thị
hóa còn theo cách thứ hai gọi là tốc độ đô thị hóa.
Dưới góc độ tiếp cận của Xã hội học, “Đô thị hóa chính là sự di cư từ nông
thôn ra thành thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong những vùng lãnh
thổ địa lý hạn chế được gọi là các đô thị ” [28, tr 8-10].
Theo khái niệm của ngành địa lý, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không
gian hoặc mật độ dân cư hoặc thương mại hoặc các hoạt động khác trong khu vực
theo thời gian. Dưới góc độ tiếp cận này có thể hiểu đô thị hóa là một quá trình biến
đổi các khu vực lãnh thổ đô thị. Khu vực lãnh thổ ban đầu có thể là cánh đồng nông
nghiệp - lâm nghiệp, đất trống, đồi trọc hay khu dân cư nông thôn”.
Theo tác giả Đồng Văn Tuấn: “Đô thị hóa là quá trình mở rộng mạng lưới
các thành phố và phổ biến lối sống thành thị, tập trung dân cư và đẩy mạnh các
hoạt động kinh tế khác nhau trên lãnh thổ, đô thị hóa là chỉ tiêu để xác định mức
độ phát triển của một quốc gia ” [29, tr.6].
Đô thị hóa là quá trình chuyển hóa và vận động phức tạp mang tính quy luật,
diễn ra trên quy mô toàn cầu, mang tính chất đặc trưng của sự phát triển kinh tế - xã
hội trong thời đại hiện nay. Đô thị hóa bao gồm những thay đổi đa dạng về mặt kinh
tế - xã hội, gắn với sự phát triển công - thương nghiệp, dịch vụ và sự phân bố dân cư,
phân bố sản xuất.

13


Như vậy, đô thị hóa là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, diễn ra trong
mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật, làm thay

đổi sự phân bố lực lượng sản xuất, phân bố dân cư, thay đổi cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp, văn hóa, xã hội, kết cấu giới tính, lứa tuổi của dân cư và môi trường sống.
Đặc điểm của đô thị hoá:
Đô thị hoá là sự phát triển về quy mô, số lượng, nâng cao vai trò của đô thị
trong khu vực và hình thành các chùm đô thị.
Đô thị hoá gắn liền với một thể chế kinh tế - xã hội nhất định, gắn liền với sự
biến đổi về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn, sự biến đổi ấy thể hiện ở sự phát
triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ… Phương hướng, điều kiện
phát triển của đô thị hoá phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất.
Ở các nước phát triển, đô thị hoá đặc trưng cho sự phát triển các nhân tố theo
chiều sâu, tạo điều kiện để điều tiết và khai thác tối đa các ích lợi, hạn chế bất lợi của
quá trình đô thị hoá, nâng cao điều kiện sống và làm việc, công bằng xã hội, xóa bỏ
khoảng cách thành thị và nông thôn…
1.2. Tính tất yếu chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp trong quá trình đô
thị hóa
1.2.1. Sự cần thiết chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp trong quá trình đô
thị hóa
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, quá trình đô thị hóa diễn ra ngày
càng nhanh và tạo nên nhiều sự thay đổi căn bản theo hướng đa dạng và phức tạp trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có cơ cấu xã hội - nghề nghiệp. Có
thể thấy sự cần thiết chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp trong quá trình đô thị
hóa trên một số bình diện sau:
Một là, đô thị hóa làm thay đổi sự phân bố dân cư, từ dạng phân tán ở các
vùng nông thôn sang dạng tập trung ở các đô thị, gắn với các hoạt động sản xuất phi
nông nghiệp. Theo đó tỷ lệ lao động phi nông nghiệp và vai trò của các ngành dịch vụ
tăng lên. Nhờ các cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học kỹ thuật, tỉ lệ
dân cư sống trong các khu đô thị ngày càng tăng lên, nhịp độ đô thị hóa cũng diễn ra
nhanh chóng: dân nhập cư tăng nhanh, cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật phát triển và
14



tăng diện tích đất phi nông nghiệp. Điều đáng quan tâm, đô thị hóa không chỉ tập
trung về mặt số lượng mà về mặt chất lượng và cơ cấu nguồn lao động cũng có sự
phát triển vượt bậc. Nó đáp ứng được các yêu cầu đòi hỏi của phát triển các ngành
kinh tế - kỹ thuật và dịch vụ đang mở ra rất phong phú trong bối cảnh đa dạng hóa
ngành nghề hiện nay. Vì vậy, xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp đã trở
thành nhu cầu nội tại của quá trình đô thị hóa.
Hai là, đô thị hóa không chỉ gắn với sự phát triển công nghiệp mà còn gắn với
sự phát triển của các ngành dịch vụ khác như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, tài
chính - ngân hàng, khoa học giáo dục, y tế… Điều này tất yếu dẫn đến nhu cầu
chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp của dân cư.
Ba là, qúa trình đô thị hóa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và hệ
thống kinh tế vùng nông thôn, thúc đẩy đầu tư xây dựng các tuyến đường từ liên thôn,
liên xã, liên huyện và tỉnh. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất và lưu thông
hàng hóa. Nhờ vậy, nhiều ngành nghề mới tất yếu cũng có điều kiện để hình thành và
do đó, sự chuyển đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trở thành vấn đề tất yếu khách quan.
Bốn là, đô thị hóa có tác động mạnh tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các đô thị có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương,
các vùng trong nước. Đô thị là nơi sử dụng đông đảo lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn kĩ thuật; có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có sức hút đối với đầu tư
trong nước và ngoài nước, tạo ra động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Các đô thị có khả năng tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động. Chính
điều này đã thúc đẩy và hình thành tư duy thay đổi ngành nghề trong phần lớn các bộ
phận dân cư.
Năm là, đô thị hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sản xuất hàng hóa và dịch vụ
thường đạt hiệu quả cao tại những đô thị có quy mô mật độ dân số tương đối lớn với
nguồn lao động dồi dào, có quy mô hoạt động kinh tế đủ lớn do các doanh nghiệp tập
trung đông, có hệ thống phân phối rộng khắp và tốc độ tăng trưởng cao đã tạo ra hiệu
ứng lan tỏa kích thích mạnh tới tăng trưởng kinh tế. Với tác động tích cực này, đô thị

hóa đã tạo sức hút, tạo điều kiện và môi trường xã hội rộng lớn để người lao động
nhận thấy sự cần thiết phải chuyển đổi nghề nghiệp theo hướng đa dạng và phát huy
được lợi thế của địa phương cũng như lợi thế của chính bản thân.

15


Sáu là, đô thị hóa góp phần cải thiện đời sống của dân cư đô thị và các vùng
lân cận. Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà có thể tạo ra nhiều cơ hội
việc làm mới cho người dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao thu nhập cho
họ. Khi mức thu nhập bình quân đầu người/tháng tăng lên thì nhu cầu chi tiêu đời
sống của dân cư cũng tăng nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Một điều rõ ràng mà chúng ta nhận thấy là quá trình đô thị hóa, CNH,HĐH
diễn ra đã dẫn đến rất nhiều thay đổi ngay cả trong cuộc sống đời thường hàng ngày
của mỗi người. Quá trình này còn ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đồng
thời tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động. Nếu xét dưới góc độ cá nhân lao
động, quá trình đô thị hóa sẽ khiến công việc, nghề nghiệp của họ có những thay đổi.
Người lao động ở mọi trình độ đào tạo luôn mong muốn có một việc làm ổn định phù
hợp với khả năng lao động và có thu nhập đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, mức sống
chung cho chính bản thân và cả gia đình họ. Thế nhưng do quá trình đô thị hóa mà
người lao động nông thôn nhất là lao động nông nghiệp phải chuyển đổi nghề nghiệp
thì mới có thể kiếm sống để tồn tại được. Mặt khác, khi kinh tế phát triển kéo theo sự
phát triển của tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, làm cho các ngành này được
nâng cấp đổi mới để đáp ứng thị trường trong nước và ngoài nước. Vì vậy nguồn lực
trong các ngành, lĩnh vực này đòi hỏi phải được đào tạo nâng cao chất lượng để đáp
ứng nhu cầu. Điều này lý giải vì sao việc chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp đã
trở thành vấn đề mang tính tất yếu khách quan, là điều cần thiết giúp người lao động
có được những ngành nghề khác nhau theo xu hướng tất yếu.
Đặc biệt ở nông thôn quá trình đô thị hóa đang diễn ra làm cho người nông dân
bị mất một phần ruộng đất canh tác, họ rơi vào tình trạng thất nghiệp, không có việc

làm. Cho nên việc chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp cho bộ phận người lao
động này là nhu cầu khách quan, là yêu cầu nội tại của sự phát triển xã hội. Đây là
vấn đề hết sức cần thiết không thể không quan tâm nghiên cứu và tìm biện pháp để
phát huy tác động tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của quá trình đô thị hóa đến
sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung ở mỗi địa phương.
Thực tế đã chỉ ra rằng, đô thị hóa là quá trình mở rộng mạng lưới các thành
phố và đẩy mạnh các hoạt động kinh tế khác nhau trên lãnh thổ, do đó khi diện tích

16


đất nông nghiệp của người lao động ở nông thôn bị thu hẹp, nếu bản thân họ không
chủ động tìm kiếm việc làm mới, không chuyển đổi sang nghề nghiệp khác như nghề
công nghiệp, thương mại, dịch vụ… thì cuộc sống của họ sẽ trở nên khó khăn. Khi
đó, vấn đề chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp cho người lao động không chỉ có ý
nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội.
Cùng những trở ngại về kinh tế, tình trạng thất nghiệp là nguyên nhân của
nhiều tệ nạn xã hội. Khi không có việc làm, không có thu nhập để tồn tại trong cuộc
sống với nhiều cám dỗ như hiện nay thì một bộ phận người lao động nhất là lao động
nông thôn do thời gian nhàn dỗi, thiếu việc làm cộng với trình độ lao động thấp
không có khả năng tìm việc, chuyển đổi sang nghề phi nông nghiệp đã bị lôi kéo
tham gia các hoạt động trái pháp luật, làm hủy hoại bản thân và ảnh hưởng đến lợi ích
của xã hội. Hệ lụy này tất yếu khách quan đòi hỏi chính quyền các cấp phải quan tâm
thỏa đáng bằng việc định hướng và tăng cường quản lý, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ
cấu xã hội - nghề nghiệp theo hướng tích cực. Nếu không sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tăng trưởng kinh tế, đến phát triển văn hóa xã hội trên nhiều bình diện.
Chính vì tất cả những điều trên cho thấy sự cần thiết phải chuyển đổi cơ cấu xã
hội - nghề nghiệp cho người lao động nhất là lao động nông thôn khi quá trình đô thị
hóa nông thôn đang và sẽ diễn ra ngày một nhanh hơn.
1.2.2. Xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội - nghề nghiệp

trong quá trình đô thị hóa
Quá trình đô thị hóa cùng với quá trình CNH,HĐH đã làm cho cơ cấu kinh tế
thay đổi và đồng thời với đó là quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động và cơ cấu xã hội
- nghề nghiệp. Đây thực chất là quá trình giảm dần lao động nông nghiệp, tăng lao
động các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có năng suất lao động cao hơn.
Một khi kinh tế phát triển tất nhiên sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế, từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, kéo theo đó là sự thay đổi nhu cầu về lao
động. Điều đó tác động tạo ra nhận thức và cách làm mới về chuyển đổi cơ cấu xã hội
- nghề nghiệp của người lao động nói chung và lao động ở nông thôn nói riêng. Khi
đó muốn đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, người lao động phải nhận thức vấn đề ở
chỗ làm sao tìm được một nghề phù hợp với sự phát triển không ngừng của xã hội.

17


Điều đó dẫn đến xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp cho người lao
động từ nông nghiệp chuyển sang những nghề phi nông nghiệp.
Quá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra với tốc độ cao hình thành các khu công
nghiệp, các trung tâm thương mại, mở rộng đô thị… cụ thể là:
Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô thị
lớn. Sự hình thành các khu trung tâm có tính chất chuyên ngành trong những đô thị
lớn là xu thế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của đô thị, là biểu hiện của tính tập
trung hóa trong sản xuất. Tuy nhiên, quy mô sản xuất và hoạt động thương mại dịch
vụ sẽ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và quy mô dân số của vùng để
đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Đồng thời các trung tâm này còn là điểm nối, hay sự
chuyển tiếp giữa các đô thị lớn làm cho tính hiệu quả của hệ thống đô thị được nâng
cao. Trong quá trình đô thị hóa, các trung tâm này sẽ trở thành những đô thị vệ tinh
của các đô thị lớn.
Mở rộng các đô thị hiện có: Việc mở rộng các đô thị hiện có là xu thế tất yếu
khi nhu cầu về đất xây dựng đô thị tăng và khả năng mở có thể thực hiện tương đối

dễ. Xu hướng này tạo sự ổn định tương đối và giải quyết được các vấn đề quá tải cho
đô thị hiện nay.
Chuyển đổi một số vùng nông thôn thành đô thị. Đây là xu hướng hiện đại được
thực hiện trong điều kiện có đầu tư lớn của nhà nước. Vấn đề cơ bản là tạo nguồn tài
chính để cải tạo đất, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại phục vụ đắc lực cho sự chuyển
đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp theo hướng đa dạng hóa ngành nghề hiện nay.
Có thể khái quát sự biến đổi của cơ cấu xã hội - nghề nghiệp theo các hướng
cơ bản dưới đây:
Nếu xem xét cơ cấu xã hội - nghề nghiệp theo nhóm ngành kinh tế, thì sự biến
đổi cơ cấu đó trong giai đoạn đang có sự chuyển dịch tích cực từ nông, lâm, ngư
nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ các ngành có năng suất thấp sang ngành có
năng suất cao hơn. Quá trình chuyển đổi cơ cấu xã hội - nghề nghiệp ở nông thôn đã
hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung với quy mô lớn, phát huy thế mạnh,
tiềm năng của các địa phương. Quá trình này đồng nghĩa với việc gia tăng các mô
hình trồng trọt, chăn nuôi có quy mô lớn gắn liền với sản xuất hàng hóa; mô hình hộ

18


×