Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

QUYỀN THÀNH LẬP VÀ GIA NHẬP CÔNG ĐOÀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.27 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ HƯỜNG

QUYỀN THÀNH LẬP VÀ GIA NHẬP CÔNG ĐOÀN
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử NN&PL
Mã số

: 60.38.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn
HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 09 năm 2015
Tác giả luận văn

Vũ Thị Hường



LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết hợp với
kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác, với sự cố gắng nỗ lực của bản thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới TS. Đặng
Minh Tuấn là người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn cho tôi cả

chuyên môn và phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi nhiều kinh nghiệm
trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật trực thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như
trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn.
Mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các Thầy Cô, đồng nghiệp
và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 10 tháng 09 năm 2015
Tác giả luận văn

Vũ Thị Hường


MỤC LỤC
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. 1
Tôi xin chân thành cảm ơn!.....................................................................................1

4.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.............................................................................4
6.Những đóng góp của luận văn..............................................................................5
7.Ý nghĩa của Luận văn...........................................................................................5
8.Kết cấu của luận văn.............................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN THÀNH LẬP VÀ GIA NHẬP.............................6
CÔNG ĐOÀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG.............................................................6
1.1.1.3.Công Đoàn ở Việt Nam...............................................................................10
CHƯƠNG 2:...........................................................................................................43
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN THÀNH LẬP VÀ GIA NHẬP................43
CÔNG ĐOÀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM..................................43
CHƯƠNG 3:...........................................................................................................80
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀNTHÀNH LẬP VÀ GIA NHẬP
CÔNG ĐOÀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG...........................................................80

Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam khẳng định: “…
việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trước hết là trách nhiệm và
quyền lợi của mỗi quốc gia. Các quốc gia có trách nhiệm xây dựng hệ
thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc có tính đến hoàn cảnh
của mỗi nước để bảo đảm cho tất cả người dân được thụ hưởng quyền con
người một cách tốt nhất” [3]........................................................................82
Tại phiên khai mạc khoá 26 Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (LHQ),
Việt Nam khẳng định tiếp tục nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy các quyền con
người, quyền tự do hội họp và lập hội. Cụ thể, ngày 10 tháng 6 năm 2014,
tại Trụ sở Liên Hợp Quốc (LHQ) ở Geneva, Thụy Sĩ, Hội đồng Nhân
quyền Liên Hợp quốc khoá 26 đã khai mạc với sự tham dự của đại diện 47
nước thành viên Hội đồng Nhân quyền và các nước thành viên LHQ, Cao
uỷ Nhân quyền LHQ, đại diện các cơ quan trong hệ thống LHQ và các tổ
chức phi chính phủ quốc tế về quyền con người.........................................82




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu
Nguyên nghĩa
Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Quan hệ Công nghiệp
1
ACIRRT
Úc Đại Lợi
2
BLHS
Bộ luật hình sự
3
BLLĐ
Bộ luật lao động
4

Công đoàn
5
CĐCS
Công đoàn cơ sở
6
CFA
Ủy ban về tự do lập hội
7
CNLĐ
Công nhân lao động
Doanh nghiệp
8
DN

9
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
10 ICCPR
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
11 ICESCR
hóa, 1966
12 ILO
Tổ chức lao động quốc tế
13 LĐLĐ
Liên đoàn lao động
14 LHQ
Liên hợp quốc
Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả người lao
15 MWC
động di trú và các thành viên trong gia đình họ, 1990
16 NLĐ
Người lao động
17 NSDLĐ
Người sử dụng lao động
18 OHCHR Văn phòng cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc
19 TLĐ
Tổng liên đoàn
20 UDHR
Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người, 1948
21 UNDP
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
22 UNESCO Tổ chức, Giáo dục, khoa học và Văn hóa liên hợp quốc
23 UNHCR Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc về người tỵ nạn

24 UPR
Quy chế đánh giá nhân quyền định thể
24 XHCN
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong luật lao động quốc tế, tôn trọng quyền tự do công đoàn được xem như
là một nguyên tắc cơ bản trong lao động. Quyền này bao gồm quyền của người lao
động được tự do thành lập, tham gia hoặc không tham gia vào các công đoàn khác
nhau. Do đó, theo các công ước quốc tế của Liên hợp quốc và Tổ chức lao động
quốc tế, tất cả người lao động đều có quyền tự do thành lập, tham gia vào các công
đoàn, nếu việc thành lập, tham gia đó không trái với trật tự công cộng hoặc xâm
phạm an ninh, lợi ích của quốc gia sở tại. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 quy định “Mọi người đều có quyền tự do lập hội với những
người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”
(Điều 22, khoản 1). Quy định này cho phép tất cả mọi người lao động thực hiện
quyền tự do công đoàn một cách không hạn chế, ngoại trừ những trường hợp pháp
luật của quốc gia thành viên quy định hạn chế đối với những đối tượng nhất định,
nhằm mục đính đảm bảo cho một xã hội dân chủ, vì lợi ích, an ninh quốc gia và trật
tự công cộng hoặc vì mục đích bảo vệ các quyền và tự do của những người khác.
Ngoài Liên hợp quốc, quyền tự do công đoàn của người lao động cũng luôn là tâm
điểm được bảo vệ bởi Tổ chức lao động quốc tế. Quyền này là một trong những yếu
tố thể hiện nền dân chủ và sự phát triển của một quốc gia. Nói cách khác, nền dân
chủ và sự phát triển bền vững về kinh tế của một quốc gia sẽ bị hạn chế rất nhiều
nếu một bộ phận người lao động bị tước đi quyền được tự thành lập tổ chức để bảo
vệ quyền và lợi ích của mình. Do đó, tôn trọng quyền tự do thành lập và gia nhập
công đoàn là việc làm quan trọng giúp bảo đảm quyền của người lao động nói riêng,
quyền con người nói chung.

Ở Việt Nam từ khi bước vào thời kì đổi mới, doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế trên cả nước đã tăng nhanh về số lượng và quy mô đầu tư, đặc biệt là
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh và thu hút số lượng lớn lao
động vào làm việc. Trước thực trạng đó, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến
quyền của người lao động đã được Nhà nước ban hành hoặc bổ sung, sửa đổi cho
phù hợp với những đặc điểm của thời kì mới. Việc bảo đảm quyền con người nói
chung và quyền của người lao động nói riêng luôn được xác định là chủ trương,
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, được ghi nhận trong Hiến pháp và nhiều

1


văn bản pháp luật quan trọng. Theo đó, quyền của người lao động trong các lĩnh
vực khác nhau, như: chính trị, công đoàn, việc làm, giáo dục, y tế và văn hóa…đã
từng bước được hoàn thiện. Trong đó, đối với người lao động quyền tự do công
đoàn là một quyền cơ bản và quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta bảo đảm
của người lao động nói chung, quyền thành lập và gia nhập công đoàn nói riêng vẫn
còn nhiều vấn đề vướng mắc phải nghiên cứu, cụ thể: một là, theo công ước quốc tế
thì người lao động có quyền tự do thành lập công đoàn để bảo về quyền lợi của
mình, người lao động có thể thành lập nhiều tổ chức công đoàn khác nhau, còn ở
Việt Nam chỉ có một tổ chức công đoàn duy nhất là Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam, như vậy, quyền của người lao động có những hạn chế nhất định; hai là, đối
với tổ chức công đoàn thì chỉ có người lao động Việt Nam mới có quyền gia nhập
công đoàn, còn người lao động là người nước ngoài thì không được gia nhập công
đoàn Việt Nam; ba là, việc cung cấp thông tin về tổ chức công đoàn cho người lao
động là rất hạn chế việc gia nhập công đoàn của người lao động thường rơi vào thế
bị động. Ngoài ra, còn có các vấn đề về quy trình thủ tục thành lập và gia nhập công
đoàn, trách nhiệm của cơ quan tổ chức trong thành lập và gia nhập công đoàn…
Trên thực tế, nhiều chủ doanh nghiệp tìm cách né tránh, trì hoãn, không tạo điều
kiện để người lao động thực hiện quyền thành lập, gia nhập công đoàn. Sự cản trở,

gây khó khăn của chủ doanh nghiệp được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp
tinh vi, nên rất khó cho việc kiến nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Theo
thống kê năm 2012 còn khoảng 80% doanh nghiệp dân doanh, 60% doanh nghiệp
FDI chưa có tổ chức công đoàn [4]. Trên thực tế, theo thống kê của Tổng LĐLĐ
Việt Nam, từ năm 2009 - 2014, có 3.104 cuộc ngừng việc tập thể xảy ra ở 40 tỉnh,
thành cả nước, tập trung chủ yếu ở vùng kinh tế trọng điểm. Ngừng việc tập thể xảy
ra nhiều ở các doanh nghiệp có vốn nước ngoài với 2.337 cuộc (chiếm 74,9%) [35].
Như vậy, bình quân mỗi năm xảy ra từ 300 - 450 cuộc ngừng việc và hầu hết mang
tính tự phát; không do Công Đoàn tổ chức, lãnh đạo…
Cùng với đó, Luật công đoàn 2012 của Việt Nam đã được thông qua thay thế
cho Luật Công đoàn năm 1990, theo đó việc bảo vệ quyền của người lao động được
xem xét chủ yếu trong việc bảo đảm mối quan hệ giữa người lao động với người sử
dụng lao động; bảo đảm quyền của người lao động thông qua hoạt động của tổ chức
công đoàn…Sự thay đổi này có ý nghĩa quan trọng song cũng đặt ra những vấn đề

2


cần nghiên cứu về thực thi và bảo đảm quyền trên thực tế cho phù hợp với các công
ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã là thành viên. Trong điều kiện đó, tác giả
lựa chọn nghiên cứu về vấn đề: “Quyền thành lập và gia nhập công đoàn của
người lao động ở Việt Nam hiện nay” để chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập;
từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện hơn nữa cơ sở pháp lý bảo đảm quyền thành
lập và tham gia công đoàn của người lao động ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của luận văn
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu khoa học liên quan tới người lao động,
công đoàn như, đề tài, “Bảo đảm quyền của người lao động trong doanh nghiệp ơ
Việt Nam”, PGS.TS Lê Thị Hoài Thu, 2013; “Cơ chế bảo đảm quyền của người lao
động trong các loại hình doanh nghiệp ơ Việt Nam hiện nay”, PGS.TS Lê Thị Châu,
Đề tài khoa học cấp Bộ (Viện nghiên cứu lập pháp); “Bảo vệ người lao động di trú:

tập hợp các văn kiện quan trọng của quốc tế, khu vực Asean và của Việt Nam liên
quan đến vị thế và việc bảo vệ người lao động di trú, Lao động, 2009; Bảo vệ người
lao động theo pháp luật lao động Việt Nam trong nền kinh tế thị trường, Luận văn
Ths Luật: 6.01.05, Nguyễn Thị Yến; Nghd TS Nguyễn Hữu Chí, Khoa Luật, 2005;
Bảo vệ Người lao động Việt Nam đi làm việc ơ nước ngoài theo hợp đồng - Thực
trạng và giải pháp: Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 07 Nguyễn Đặng Phước Tâm;
Nghd: TS. Nguyễn Xuân Thu, 2009... Các đề tài tập trung nghiên cứu khái quát biện
pháp bảo vệ quyền lợi của người lao động, cơ chế bảo vệ quyền của người lao
động…Tuy nhiên, để quyền lợi của người lao động thực sự được bảo đảm, để công
đoàn thực sự là tổ chức đại diện cho ý chí, tâm tư và nguyện vọng của người lao
động thì việc đi sâu nghiên cứu quyền thành lập và gia nhập công đoàn dưới góc độ
quyền con người là một vấn đề mới cần được nghiên cứu. Vì vậy, kế thừa, phát huy
kết quả nghiên cứu của các tác giả và xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên
chọn đề tài: “Quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động ở Việt
Nam hiện nay” để nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu vấn đề lý luận, các quy định
pháp luật về quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động. Trên cơ sở
đó phân tích, đánh giá mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật
quốc tế trong bảo đảm quyền này của người lao động, chỉ ra những hạn chế để từ đó

3


đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền thành
lập và gia nhập công đoàn của người lao động ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu quy định của pháp luật về bảo đảm quyền thành lập và gia
nhập công đoàn;

- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật Việt Nam về thành lập và gia
nhập công đoàn;
- Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền thành lập và gia nhập công đoàn của
người lao động ở Việt Nam;
- Đề xuất giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền
thành lập và gia nhập công đoàn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, nghiên
cứu các quy định của pháp luật về quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người
lao động. Đồng thời đánh giá thực tiễn thi hành và phân tích các luận cứ khoa học
về quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động. Trên cơ sở đó góp
phần hoàn thiện pháp luật về quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao
động ở Việt Nam.
- Phạm vị nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích quy định pháp luật về bảo
đảm quyền thành lập và gia nhập công đoàn theo công ước quốc tế, pháp luật Việt
Nam về quyền thành lập và gia nhập công đoàn. Từ đó, đánh giá thực trạng pháp luật
về quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn
Phương pháp luận: trong quá trình nghiên cứu, luận văn dựa vào phương
pháp luận là phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời vận dụng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam làm định hướng nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn, gồm: Phương
pháp so sánh pháp luật; Phương pháp phân tích quy phạm và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật; Phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng
phương pháp phân tích lịch sử. Các phương pháp được kết hợp với nhau để cùng
giải quyết vấn đề của luận văn.

4



6. Những đóng góp của luận văn
Từ kết quả của quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, luận văn sẽ đóng góp thêm
những giá trị về mặt ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong một phạm vi nhất định,
những điểm mới và đóng góp dự kiến của Luận văn gồm:
(1) Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, giúp người lao
động có thêm cơ sở, căn cứ bảo đảm quyền thành lập và gia nhập công đoàn.
(2) Luận văn nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền thành lập và gia nhập công
đoàn của người lao động nhìn nhận từ góc độ bảo đảm quyền con người.
(3) Luận văn chỉ ra những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật hiện
hành liên quan tới quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động ở Việt
Nam. Qua đó đóng góp một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền thành lập và gia
nhập công đoàn.
7. Ý nghĩa của Luận văn
- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận về quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động
theo pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế; thực tiễn bảo đảm quyền thành
lập và gia nhập công đoàn của người lao động ở Việt Nam
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng
trong việc hoàn thiện pháp luật về quyền thành lập và gia nhập công đoàn. Đề tài là
kênh thông tin bổ trợ giúp cơ quan có thẩm quyền thực thi pháp luật về bảo đảm
quyền thành lập và gia nhập công đoàn của người lao động được hiệu quả hơn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề
tài nghiên cứu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quyền thành lập và gia nhập công đoàn của
người lao động
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền thành lập và gia nhập công đoàn của
người lao động ở Việt Nam
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền thành lập và gia nhập công

đoàn của người lao động.
CHƯƠNG 1:

5


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN THÀNH LẬP VÀ GIA NHẬP
CÔNG ĐOÀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1 Khái niệm quyền thành lập và gia nhập công đoàn
của người lao động
1.1.1. Công đoàn
1.1.1.1. Lịch sử của tổ chức công đoàn
Cuộc Cách mạng công nghiệp diễn ra ở Anh vào giữa thế kỷ 18, sau đó tiếp
tục ở nhiều nước khác. Cuộc cách mạng này bắt đầu từ việc phát minh và sử dụng
các máy kéo sợi, máy dệt và đặc biệt là máy hơi nước…chuyển lao động bằng tay
sang lao động bằng máy đưa năng suất lao động lên cao. Từ cuộc cách mạng công
nghiệp, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã ra đời. Hai giai cấp này đối lập
nhau về quyền lợi. Do bị bóc lột, giai cấp công nhân đã đấu tranh chống giai cấp tư
sản từ lẻ tẻ, rời rạc, tự phát dần dần thành cuộc đấu tranh của cả một phân xưởng,
một nhà máy, một ngành, một địa phương. Trong đấu tranh, công nhân nhận thấy
cần tập hợp lực lượng, thống nhất hành động mới bảo vệ được quyền lợi của mình.
Do đó đã hình thành một tổ chức để đáp ứng yêu cầu ấy - đó là Công đoàn. Như vậy
nguyên nhân chủ yếu để công đoàn ra đời là do quan hệ lao động mâu thuẫn trong
mối quan hệ chủ thợ và để tập hợp bảo vệ quyền lợi của công nhân, công đoàn ra
đời là tất yếu khách quan. Công đoàn ra đời đầu tiên ở Anh vào đầu năm 1868, Pháp
năm 1884, Đức năm 1945…[6].
Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác, phong trào đấu tranh của công nhân ngày
càng được củng cố. Để truyền bá Chủ nghĩa Mác vào sâu rộng trong giai cấp công
nhân, Mác và Ăng-gen đã đứng ra thành lập Hội Liên hiệp Lao động quốc tế (tức
Quốc tế thứ nhất) vào ngày 28/09/1864 ở Luân Đôn. Quốc tế thứ nhất đồng thời làm

nhiệm vụ Quốc tế công đoàn, vạch ra cương lĩnh cơ bản và tích cực đấu tranh cho
các yêu cầu cụ thể của công đoàn. Phong trào đấu tranh của công nhân và công
đoàn ngày càng diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là sau Quốc tế II được thành lập ngày
14/05/1889 và trong những năm Chiến tranh thế giới lần thứ I tháng 08/1914. Thắng
lợi Cách mạng tháng 10 Nga 1917 đã làm vang dội thế giới, giải phóng giai cấp
công nhân và nhân dân lao động Nga, thành lập nhà nước vô sản đầu tiên trên thế
giới, phong trào công đoàn thế giới bước sang giai đoạn mới. Trong thời kỳ này,
công đoàn Xô Viết có một vị trí cực kỳ quan trọng trong tổ chức công đoàn quốc tế.

6


Từ sự thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, phong trào công nhân và công đoàn
đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước khác trên thế giới như Ý, Hung-ra-ri. Sự ra đời
của quốc tế III (1919) và Công hội Đỏ (RILU) năm 1921 đã đánh dấu một bước tiến
mới của công đoàn thế giới. Chiến tranh thế giới lần II kết thúc, hệ thống các nước
Xã hội chủ nghĩa ra đời thể hiện sự cân bằng lực lượng giữa Chủ nghĩa xã hội và
Chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ này, nhiều tổ chức công đoàn ra đời tiêu biểu nhất
là Liên hiệp công đoàn thế giới tháng 10/1945 (Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của tổ chức này từ năm 1949); Liên hiệp Quốc tế các công đoàn tự do (1949).
Những tổ chức công đoàn mang tính quốc tế này vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy
nhiên, vào thập kỷ cuối của thế kỷ 20, khi chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
các nước Đông Âu sụp đổ, phong trào công đoàn thế giới đã có những khủng hoảng
về kinh nghiệm, mô hình tổ chức, nội dung và phương pháp hoạt động. Ở các nước
Xã hội chủ nghĩa còn lại như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Cộng hoà dân chủ
nhân dân Triều Tiên, công đoàn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền
đang tiến hành đổi mới để phù hợp với tình hình mới.
Các học giả nghiên cứu về công đoàn đã đưa ra các quan điểm của mình về
vấn đề này. Cuốn Lịch sử Chủ nghĩa Công đoàn (1984) của Sidney và Beatrice
Webb có quan điểm rằng công đoàn là “một hiệp hội của những người làm công ăn

lương có mục đích duy trì hay cải thiện các điều kiện thuê mướn họ” thắng thế. Có
một định nghĩa hiện đại khác của Cục Thống kê Úc Đại Lợi rằng công đoàn là
“...một tổ chức hợp thành chủ yếu bởi những người làm thuê, hoạt động cơ bản là
thương lượng về lương bổng và điều kiện thuê mướn cho các thành viên của nó”.
Như nhà sử học R.A Leeson, trong cuốn United We Stand (Tạm dịch: Chúng ta hãy
đoàn kết đứng lên) (1971) có viết: “Hai quan điểm mâu thuẫn nhau của phong trào
công đoàn đấu tranh với nhau để giành ưu thế trong thế kỷ mười chín: một bên là
truyền thống phường hội nghiêm ngặt có tính phòng thủ truyền lại qua các câu lạc
bộ thợ thuyền và các hội bạn thợ... bên khác là xu thế bành trướng có tính tấn công
nhằm thống nhất toàn thể “người lao động nam cũng như nữ để thiết lập một trật tự
mới...” Kinh tế gia thế kỷ XIX Adam Smith đã lưu ý sự bất cân đối về quyền lợi của
người lao động so với của người sở hữu (hay “ông chủ”). Trong chương 8, tập I
cuốn Của cải của các Quốc gia, Ad.Smith viết: Hiếm khi ta nghe nói đến sự liên

7


hiệp của các ông chủ, mà thường nghe đến hội của những người làm công. Nhưng
ai đó dựa trên điều này mà tưởng tượng rằng các ông chủ hiếm khi tập hợp lại thì kẻ
đó thật dốt nát, cả về thế giới lẫn về vấn đề này. Các ông chủ ở mọi lúc mọi nơi đều
liên hiệp với nhau một cách ngấm ngầm nhưng khư khư bất biến, hòng không nâng
lương của nhân công lên trên mức hiện hữu…[Khi những người lao động tập hợp
lại,] các ông chủ… không ngừng làm ầm ĩ lên, kêu gọi sự hỗ trợ của chính quyền
dân sự, và đòi thực thi nghiêm khắc những luật lệ ngặt nghèo được ban hành nhằm
chống lại sự liên hiệp của những người đầy tớ, người làm công và thợ thuyền. Như
vậy điều đó cho thấy, công đoàn là bất hợp pháp trong nhiều năm ở hầu hết các
nước. Đã có những hình phạt khắt khe đối với tổ chức công đoàn. Mặc dù thế, công
đoàn vẫn được thành lập và dần dần có được sức mạnh chính trị, kết quả cuối cùng
là một bộ luật lao động không chỉ hợp pháp hoá những nỗ lực tổ chức công đoàn mà
đã luật hoá mối quan hệ giữa giới chủ với những người làm thuê được tổ chức thành

những công đoàn. Quyền gia nhập công đoàn đã được nhắc đến trong điều 23 phân
đoạn 4 của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) và được khẳng định lại
trong điều 20 phân đoạn 2 rằng “Không được ép buộc bất cứ ai trong việc tham gia
vào một hiệp hội”. Việc cấm đoán một người không được tham gia hay thành lập
công đoàn, cũng như ép buộc một người làm việc ấy, dù là do chính phủ hay doanh
nghiệp thực hiện, đều bị coi là hành vi xâm hại nhân quyền. Những lý lẽ tương tự
cũng được đặt ra khi người thuê mướn phân biệt đối xử dựa trên việc có tham gia
công đoàn hay không. Mục đích của người chủ, thường là kết hợp với sự hỗ trợ của
các lực lượng bên ngoài, nhằm cấm đoán việc công nhân của mình tham gia công
đoàn.
Trải qua một thời gian dài phát triển, nhận thức về công đoàn ngày càng hoàn
thiện hơn và đa số các quan điểm hiện nay thống nhất rằng: Các công đoàn có thể tổ
chức dựa trên một nhóm công nhân có cùng kỹ năng (công đoàn nghề nghiệp),
những công nhân thuộc các ngành nghề khác nhau (công đoàn toàn thể), hay các
công nhân trong toàn bộ một ngành công nghiệp (công đoàn ngành). Các công đoàn
này thường phân chia theo địa phương và thống nhất với nhau thành các nghiệp
đoàn quốc gia. Các nghiệp đoàn này lại liên kết với nhau thành các tổ chức quốc tế.
Hiện nay, có một số tổ chức công đoàn lớn như, Liên hiệp công đoàn thế giới

8


(WFTU), thành lập 1945; Tổng công đoàn quốc tế (ITUC) là trung tâm công đoàn
lớn nhất thế giới, ra đời năm 2006; Liên hiệp các công đoàn ngành toàn cầu (GUFs)
[34]. Ở nhiều quốc gia, công đoàn có tư cách pháp nhân được ủy quyền thương
lượng với giới chủ thay cho các công nhân mà công đoàn đại diện. Công đoàn có
một số quyền quan trọng như quyền thương lượng tập thể với người thuê mướn lao
động về lương bổng, giờ làm cũng và các điều kiện thuê lao động khác. Việc hai
bên không thể đạt đến một thỏa thuận nào đó có thể dẫn đến những hành động gây
áp lực và đỉnh điểm là đình công. Trong một số trường hợp cực đoan, việc đình

công có thể là hành vi bất hợp pháp. Bên cạnh đó một số công đoàn có thể không có
quyền đại diện hợp pháp cho công nhân hoặc quyền này bị hạn chế. Các công đoàn
có thể tham gia vào cuộc đấu tranh chính trị hay xã hội rộng lớn hơn. Chủ nghĩa
công đoàn xã hội bao gồm nhiều công đoàn có thể dùng sức mạnh quốc tế để ủng
hộ cho những chính sách và pháp luật có lợi hơn cho người lao động.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường đang diễn ra sôi động trên phạm vi toàn thế
giới, các tập đoàn tài chính quốc tế, các công ty đa quốc gia đã áp dụng chính sách
đầu tư linh hoạt và phương pháp quản lý mềm dẻo, đồng thời tăng cường bóc lột
công nhân. Thêm vào đó là tình hình việc làm của công nhân và người lao động trên
thế giới đang trở thành vấn đề lớn. Vì vậy, công đoàn thế giới cần phải đổi mới,
kiện toàn tổ chức công đoàn phải phấn đấu vươn lên không ngừng vì sự nghiệp hoà
bình thế giới, ổn định kinh tế xã hội và bảo vệ người lao động.
1.1.1.2. Mục đích và vai trò của Công đoàn
Thứ nhất, mục đích của Công đoàn. Công đoàn hoạt động vì mục đích xã
hội, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quan hệ lao động... Mục đích
xã hội của công đoàn thể hiện ở chỗ tổ chức này bảo vệ các quyền gắn liền với việc
bảo vệ nhân phẩm của người lao động và nâng cao vị thế của người lao động trong
mối tương quan lao động và xã hội của giới chủ.
Thứ hai, vai trò của Công đoàn. Trong xã hội tư bản, các nghiệp đoàn có vai
trò rất quan trọng. Ở đó, các tổ chức nghiệp đoàn có tư cách như là “lực lượng quân
bình” kéo cân lại vị thế vốn nhỏ bé của người lao động làm thuê so với thế lực “vạn
năng” của nhà tư bản. Nhà nước tư sản đã dùng công cụ pháp lý để xác lập quyền
thành lập và hoạt động nghiệp đoàn của người lao động, và cũng bằng công cụ pháp
lý giữ cho các nghiệp đoàn hoạt động trong khuôn khổ của trật tự xã hội tư bản. Ở

9


các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng, công đoàn cũng có một
vị trí, vai trò rất quan trọng ngoài tính chất là một tổ chức nghề nghiệp của người

lao động, công đoàn ở Việt Nam còn được xác định là một tổ chức chính trị xã hội .
Chính tính chất nghề nghiệp và tính chất chính trị xã hội đã khiến cho tổ chức công
đoàn có vị trí, vai trò, chức năng đặc biệt: không chỉ đại diện cho lực lượng tự mình
(đoàn viên công đoàn), công đoàn còn đại diện cho mọi người lao động trong xã
hội; không chỉ bảo vệ cho lợi ích của người lao động, công đoàn còn đại diện cho
họ tham gia quản lý kinh tế xã hội. Có thể thấy, trong nền kinh tế thị trường, công
đoàn có vai trò: Công đoàn giúp nâng cao mức phúc lợi tiền lương và lao động;
Công đoàn đã thúc đẩy dân chủ trong doanh nghiệp, đồng thời giúp nâng cao trình
độ quản lý doanh nghiệp; Công đoàn góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất doanh
nghiệp; Công đoàn phát huy vai trò tích cực trong mặt bảo vệ công bằng xã hội.
1.1.1.3. Công Đoàn ở Việt Nam
Ngày 28/7/1929 Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản
đảng quyết định tổ chức Hội nghị đại biểu Tổng Công hội đỏ Bắc Kì lần thứ I,
nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công nhân tăng cường sự thống nhất về
tổ chức và hành động của tổ chức công hội. Hội nghị được tổ chức tại trụ sở Tổng
công hội Bắc kỳ, số nhà 15 phố Hàng Nón, Hà Nội. Tham dự Đại hội có các đại
biểu các Tổng công hội tỉnh và thành phố: Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, khu mỏ
Đông Triều, Mạo Khê. Việc thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ có ý nghĩa hết sức
to lớn đối với phong trào công nhân Việt Nam. Đó vừa là kết quả tất yếu của sự
trưởng thành về chất lượng của phong trào công nhân nước ta, vừa là thắng lợi của
đường lối công vận của Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng Sản Đông Dương, đồng
thời cũng đáp ứng nhu cầu cấp thiết về tổ chức của phong trào công nhân Việt Nam.
Việc thành lập tổ chức công đoàn đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam góp
phần vào sự lớn mạnh của phong trào cộng sản công nhân quốc tế. Mối quan hệ
giữa phong trào công nhân Việt Nam với phong trào công nhân thế giới, đặc biệt là
với công nhân và công đoàn Pháp đã được công hội đỏ thiết lập. Trước yêu cầu và
nhiệm vụ mới của cách mạng, ngày 20/6/1946, Hội nghị Cán bộ công đoàn cứu
quốc toàn quốc đã quyết định đổi tên “Hội công nhân cứu quốc” thành “Công đoàn”
và thành lập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Ngày 28 tháng 7 được lấy là ngày
Công đoàn Việt Nam.


10


Hiện nay ở Việt Nam, “công đoàn” không được coi là một danh từ chung.
Định nghĩa về công đoàn được quy định trong Hiến pháp “Công đoàn Việt Nam là
tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành
lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ
của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình
độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (điều
10), và được cụ thể hóa trong Luật công đoàn 2012 “Công đoàn là tổ chức chính trị
- xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên
cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức,
công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động),
cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao
động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (Điều 1)
Khái niệm “Công đoàn” được hiểu là tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, là
một tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Công đoàn xuất hiện khi công nhân biết ý thức về sức mạnh tập thể và biết chăm lo
bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Tổ chức công đoàn ban đầu chỉ là một tổ chức
được lập ra nhằm đấu tranh và hạn chế sự bóc lột của giới chủ chứ chưa phải là một
tổ chức có nhiều quyền năng như ngày nay. Sự phát triển của công đoàn gắn liền

với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân, với sự phát triển của công nghiệp, kỹ thuật
và sự liên kết của người sử dụng lao động. Chính trong sự phát triển đó, hoạt động
công đoàn cũng được thúc đẩy và dần chiếm được vị trí quan trọng trong hệ thống
các tổ chức xã hội, cũng như trong đời sống của người lao động. Từ chỗ chỉ được
thừa nhận trong phạm vi hẹp, ngày nay công đoàn đã được thừa nhận trong phạm vi
toàn xã hội.

11


Thực tế, trong chặng đường lịch sử của đất nước những năm qua, Công đoàn
Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng thể hiện rõ vai trò của mình đối với xã hội.
Vai trò của Công đoàn Việt Nam để hiện trong các lĩnh vực: Thứ nhất, trong lĩnh
vực chính trị: Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp phần xây dựng và nâng
cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, qua đó tăng cường mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi pháp
luật và để Nhà nước thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
giữ vững sự ổn định về chính trị. Thứ hai, trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham
gia xây dựng, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhằm xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ. Công đoàn
góp phần củng cố những thành tựu kinh tế, văn hóa và khoa học - kỹ thuật đã đạt
được trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi
cho xã hội. Thứ ba, trong lĩnh vực văn hóa - tư tương: Công đoàn phát huy vai trò
của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức và lao động nâng cao lập trường
giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng; phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp thu
những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại, góp phần xây dựng nền văn hóa

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Thứ tư, trong lĩnh vực xã hội: Công
đoàn có vai trò quan trọng trong việc tham gia xây dựng giai cấp công nhân vững
mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính
trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật của công nhân, làm
cho giai cấp công nhân trở thành lực lượng nòng cốt của khối liên minh công - nông
- trí, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Công đoàn là cơ sở vững chắc bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước.
1.1.2. Quyền của người lao động
Khái niệm “Quyền” thông thường được hiểu là “cái mà luật pháp, xã hội,
phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành…và khi thiếu sẽ
được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại”. Quyền thường gắn
với một chủ thể pháp luật. Luật pháp của các nước trên thế giới đều quy định quyền

12


và nghĩa vụ cơ bản của công dân là một chế định cơ bản, giữ vị trí quan trọng trong
Hiến pháp. Ở Việt Nam, quyền cơ bản của công dân là những quyền gắn bó mật
thiết tới cuộc sống của mỗi cá nhân - con người với tư cách là một thành viên của
cộng đồng xã hội. Nhà nước thừa nhận quyền của con người, của công dân trong
Hiến pháp và luật pháp, được bảo đảm thực hiện thông qua bộ máy công quyền từ
trung ương đến địa phương. Quyền của người lao động là một trong những nội
dung, thành tố cơ bản cấu thành quyền con người. Tuy nhiên người lao động với tư
cách là chủ thể tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội, quyền của
người lao động được xác định là một trong những quyền phổ biến và được quan tâm
chú ý nhiều nhất trên cả bình diện quốc gia và quốc tế, đặc biệt là trong điều kiện
hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về quyền của con người. Theo Văn
phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc

sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người”. Theo Tổ chức
Ân xá quốc tế “Nhân quyền là quyền cơ bản và quyền tự do mà tất cả mọi người
được hưởng không phân biệt quốc tịch, giới tính, nguồn gốc quốc gia hay dân tộc,
chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ hoặc trạng thái khác. Nhân quyền bao gồm các quyền
dân sự và chính trị, chẳng hạn như quyền sống, tự do và tự do phát biểu và các
quyền kinh tế văn hóa xã hội bao gồm quyền tham gia vào nền văn hóa, quyền có
lương thực, quyền làm việc và nhận được một nền giáo dục... Nhân quyền được bảo
vệ và duy trì bởi luật pháp quốc tế và quốc gia và các hiệp ước”. Ở Việt Nam, một
số chuyên gia nghiên cứu đã đưa ra những “quan niệm” về quyền con người là
“những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi
nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”. Các
tác giả của nhiều giáo trình viết về quyền con người đều có chung nhận định: “Dù
nhìn ở góc độ, cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định là những chuẩn
mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh
những giá trị nhân văn của toàn nhân loại chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi
người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới
được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá

13


nhân với tư cách là một con người”. Bảo đảm quyền của con người nói chung và
bảo đảm quyền của người lao động nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan
trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. “Đảm bảo quyền
của người lao động” hoặc “bảo đảm quyền của người lao động” không có sự phân
biệt. Trên thực tế “Bảo đảm” có nghĩa là “Sự giữ được đầy đủ, trọn vẹn”, còn thuật
ngữ “Đảm bảo” có nghĩa là “Hứa giữ gìn chắc chắn” [19]. Trong tiếng anh, từ “đảm
bảo” hay “bảo đảm” được dịch là “ensure” hay “guarantee”. Với mục đích và nhiệm
vụ nghiên cứu của đề tài, việc sử dụng khái niệm “bảo đảm quyền của người lao
động” sẽ là đầy đủ và chính xác hơn. Quyền của người lao động và việc bảo đảm

quyền này trong thực tế phụ thuộc vào thể chế chính trị, truyền thống văn hóa, trình
độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí…trong mỗi giai đoạn và trong từng
thời kỳ lịch sử. Cho đến nay sau hơn hai thập kỷ xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN, nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử
trong việc phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có việc bảo đảm quyền của người lao
động. Tuy nhiên đó mới chỉ là kết quả bước đầu, hơn nữa việc xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường mới chỉ diễn ra trong thời gian chưa được bao lâu, với những
hạn chế, yếu kém về mặt chủ quan đã làm cho việc bảo đảm quyền của người lao
động nói chung và quyền của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp ở
nước ta hiện nay bộc lộ nhiều bất cập. Vì vậy, việc xây dựng, hoàn thiện và vận
hành có hiệu quả cơ chế bảo đảm quyền của người lao động trong các loại hình
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay trở thành vấn đề mang tính cấp thiết.
Thông thường, quyền của người lao động được chia thành: Quyền được làm
việc; Quyền tự do không bị lao động cưỡng bức; Quyền được hương mức lương
công bằng, hợp lý và được trả lương bằng nhau cho những công việc như nhau;
Quyền được đảm bảo điều kiện làm việc an toàn và vệ sinh; Quyền nghỉ ngơi;
Quyền công đoàn; Quyền được hương an sinh xã hội. Như vậy, quyền công đoàn là
một bộ phận cấu thành quyền của người lao động.
1.1.3. Quyền thành lập và gia nhập công đoàn
1.1.3.1. Khái niệm quyền thành lập công đoàn của người lao động
Theo từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “thành lập” có nghĩa là: chính thức lập
nên, dựng nên (thường nói về một tổ chức quan trọng). Theo cách hiểu thông
thường, thuật ngữ thành lập được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, là thành lập một tổ

14


chức mới (nghĩa rộng); thứ hai, là thành lập một thành viên mới của tổ chức đó hoặc
một bộ phận mới của tổ chức đó (nghĩa hẹp). Người lao động được pháp luật hoặc
xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi để lập nên tổ chức công

đoàn bảo vệ lợi ích của mình. Thành lập công đoàn ở Việt Nam được hiểu theo
nghĩa thứ hai, đó là “thành lập một thành viên mới của tổ chức đó…”. Như vậy,
quyền thành lập Công đoàn của người lao động được hiểu là quyền của tập thể
người lao động được lập nên tổ chức Công đoàn để bảo vệ cho lợi ích của mình.
Cần lưu ý rằng, cá nhân người lao động không thể thực hiện quyền thành lập Công
đoàn mà phải thực hiện quyền đó thông qua hành vi của một tập thể lao động.
Theo pháp luật Việt Nam, hiện nay chưa có khái niệm chính thức về “thành
lập công đoàn”, tuy nhiên nó được hiểu là quyền thành lập công đoàn cơ sở - một
bộ phận cấu thành của hệ thống Công đoàn Việt Nam. Chẳng hạn công đoàn ngành
trung ương được tổ chức theo đặc điểm ngành, nghề do Đoàn chủ tịch tổng liên
đoàn quyết định thành lập phù hợp với các quy định của Luật công đoàn Việt Nam
(tổ chức đã có là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam; thành viên mới được thành lập
là các công đoàn ngành trung ương). Công đoàn cơ sơ được thành lập ở các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các đơn vị sự nghiệp và cơ quan Nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội có 5 đoàn viên trở lên và được
công đoàn cấp trên quyết định công nhận. Công đoàn cơ sở có tư cách pháp nhân.
Nghiệp đoàn là tổ chức cơ sơ của Công đoàn, tập hợp những người lao động tự do
hợp pháp cùng ngành, nghề, được thành lập theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao động
có 10 đoàn viên trở lên và được công đoàn cấp trên là Liên đoàn lao động cấp
huyện hoặc công đoàn ngành địa phương trực tiếp quyết định thành lập (hoặc giải
thể) và chỉ đạo hoạt động. Công đoàn ngành: công đoàn cấp trên cơ sở hoạt động
trong phạm vi các ngành nghề, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người lao động trong ngành nghề tương ứng. Về tổ chức, công đoàn ngành gồm có
công đoàn ngành trung ương và công đoàn ngành địa phương nhưng hoạt động chủ
yếu ở cấp ngành trung ương để chỉ đạo công đoàn cơ quan bộ, đoàn thể trung ương,
công đoàn tổng công ty và công đoàn cơ sở của các đơn vị thuộc bộ [5].
1.1.3.2. Khái niệm quyền gia nhập công đoàn của người lao động
Theo từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “Gia nhập” nghĩa là đứng vào hàng ngũ,
trở thành thành viên của một tổ chức nào đó. Ví dụ: gia nhập quân đội, gia nhập


15


Liên hợp quốc…Người lao động được pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được
hưởng, được làm, được tham gia đứng vào hàng ngũ của tổ chức công đoàn để bảo
vệ lợi ích của mình. Bên cạnh đó, “gia nhập” còn được hiểu là một chủ thể (một
quốc gia một tổ chức, một cá nhân) đủ điều kiện tán thành những quy định của tổ
chức đã có trong xã hội và tự nguyện xin vào tổ chức đó, được tổ chức đó chấp
thuận. Việc gia nhập tổ chức phải có ít nhất hai điều kiện: một là, bên gia nhập phải
đủ điều kiện mà tổ chức yêu cầu, đồng thời phải tự nguyện xin vào tổ chức; hai là,
phải được đồng ý, chấp thuận theo quy chế nội bộ của tổ chức.
Như vậy quyền gia nhập tổ chức Công đoàn của người lao động là quyền của
người lao động dược tự do gia nhập hoặc không gia nhập tổ chức Công đoàn, không
một cá nhân, tổ chức nào có thể ngăn cản quyền tự do gia nhập Công đoàn của
người lao động.
1.1.3.3. Mối quan hệ giữa quyền lập hội và quyền thành lập và gia nhập
công đoàn
Thứ nhất, Lập hội là việc các cá nhân liên kết, tập hợp lại với nhau thành
nhóm để hướng đến những lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung. Trong khi các
nhóm, hội đoàn, tổ chức tự nguyện là các thành tố hạt nhân của xã hội dân sự thì
các chế độ độc đoán luôn tìm cách cản trở sự liên kết tự do của người dân, khống
chế sự hoạt động của các hội tự nguyện. Điều này đã được nhắc đến như nỗ lực
nhằm “nguyên tử hóa” (tách rời cá nhân ra thành các đơn vị riêng lẻ) của các chế độ
lạm quyền. Các hội có hình thức đa dạng, đó có thể là các câu lạc bộ, hội nghề
nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng
và công ty. Do sự đa dạng của các nhóm, pháp luật các quốc gia thường có quy định
điều chỉnh riêng một số nhóm, hội bằng các luật riêng như: luật về doanh nghiệp,
luật về công đoàn - nghiệp đoàn, luật về các đảng phái chính trị, luật về các tổ chức
tôn giáo. Theo cách hiểu thông thường, trong tiếng Việt, danh từ "hội" có hai nghĩa
gần nhau dùng để chỉ: 1) cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người tham dự, theo

phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt; 2) tổ chức quần chúng rộng rãi của những người
cùng chung một nghề nghiệp hoặc có chung một hoạt động [33].
Khái niệm “hội” trong tiếng Anh cũng có nội hàm rất rộng. Theo Đại diện
đặc biệt của LHQ về những người bảo vệ nhân quyền (trong văn bản số A/95/401,
đoạn 46) thì: Khái niệm “hội” nhắc đến bất kỳ nhóm cá nhân hoặc bất kỳ thực thể

16


pháp lý nào liên kết với nhau để cùng nhau hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi
hoặc bảo vệ một lĩnh vực quan tâm chung. Trong báo cáo của mình, Báo cáo viên
về tự do hội họp và lập hội của Liên Hợp quốc Maina Kiai đã nhắc lại và sử dụng
định nghĩa này (Báo cáo về năm hoạt động đầu tiên 1/5/2011 - 30/4/2012, A/HCR/
20/27, đoạn 51). Quyền tự do lập hội chỉ giới hạn ở các nhóm hình thành vì mục
đích “công”, còn các nhóm chỉ vì lợi ích riêng tư, chẳng hạn như nhóm gia đình,
được bảo vệ bởi các quy định khác, chẳng hạn như Công ước về các quyền dân sự,
chính trị (ICCPR) Điều 17. Trong vụ P.S. kiện Đan Mạch (mã số 397/90), HRC (Ủy
ban Nhân quyền, cơ quan giám sát việc thực thi ICCPR) kết luận rằng khiếu nại của
người cha liên quan đến sự vi phạm quyền của mình được tụ họp với con trai không
làm phát sinh vấn đề liên quan đến quyền lập hội (Điều 22 ICCPR). Hội đó có thể
là các câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các quỹ, công đoàn,
tổ chức tôn giáo, quyền tự do hiệp hội có ý nghĩa quan trọng đối với thúc đẩy các
quyền con người, đời sống hiệp hội là một chỉ số của xã hội dân chủ [14]. Hội có
thể có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân. Nếu không có tư cách
pháp nhân, hội có thể bị giới hạn một số quyền nhất định (như quyền sở hữu tài
sản...). Quyền lập hội gồm ba lĩnh vực cơ bản là: Một là, quyền thành lập hội; hai
là, quyền gia nhập hội; ba là, hoạt động, điều hành các hội.
Quyền thành lập và gia nhập hội. ICCPR tái khẳng định và cụ thể hóa quy
định về quyền tự do hội họp trong Điều 20 UDHR. Khoản 1 Điều 22 ICCPR xác
định: Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và

gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình. Từ nội dung đó, có thể thấy
quyền này bao gồm cả ba khía cạnh: (i) Thành lập ra các hội mới, (ii) Gia nhập các
hội đã có sẵn, và (iii) Hoạt động, điều hành các hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy
động các nguồn kinh phí. Quyền thành lập và gia nhập các hội là nội dung chủ yếu
của quyền tự do hiệp hội. Quyền này bao hàm cả quyền thành lập và gia nhập các
công đoàn để bảo vệ lợi ích của người lao động. Cũng cần lưu ý là quyền thành lập
và gia nhập các công đoàn được bảo vệ cả trong ICCPR (Điều 22) và ICESCR
(Điều 8). Bên cạnh đó, Công ước quốc tế về quyền tự do hiệp hội và bảo vệ quyền
tổ chức 1948 (Công ước 87 của Tổ chức Lao động thế giới - ILO), tại Điều 2, xác

17


định mọi người lao động và người sử dụng lao động đều có quyền thành lập và gia
nhập các tổ chức mà họ tự lựa chọn mà không phải xin phép trước.
Thứ hai, quyền công đoàn là quyền có tính chất tập thể của người lao động
và hiểu theo nghĩa rộng. Hiểu đầy đủ thì quyền công đoàn bao gồm quyền được
thành lập, tham gia công đoàn, được thương lượng tập thể và được đình công.
Quyền tự do công đoàn của người lao động xét về tổng thể, chỉ là một khía cạnh
của quyền tự do lập hội của con người nói chung được tuyên bố tại Điều 20
UDHR “1.mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa, 2.
Không ai bị ép buộc tham gia bất cứ tổ chức nào” [10]. Theo khoản 1, điều 4, Luật
công đoàn 2012 của Việt Nam thì “Quyền công đoàn là quyền thành lập, gia nhập
và hoạt động công đoàn của người lao động, đoàn viên công đoàn và quyền của
tổ chức công đoàn theo quy định của pháp luật và quy định của cơ quan có thẩm
quyền”. Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn Việt Nam được quy
định “Người lao động là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn” (điều 5, Luật Công
đoàn 2012)
Như vậy, việc thành lập tổ chức để bảo vệ quyền của người lao động là nhu

cầu phát triển tất yếu của xã hội. Quyền thành lập và gia nhập công đoàn là một bộ
phận cấu thành của quyền tự do lập hội. Quyền lập hội nói chung và quyền thành
lập, gia nhập công đoàn nói riêng là quyền con người và quyền của người lao động.
Tuy nhiên, ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì quyền thành lập và gia nhập
công đoàn cũng mang những đặc trưng so với quyền lập hội, chẳng hạn như: công
đoàn là tổ chức chính trị xã hội, công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng...
Bên cạnh đó, quyền thành lập và gia nhập công đoàn cũng là một bộ phận
cấu thành của quyền tự do liên kết. Quyền tự do liên kết là một trong những quyền
cơ bản của NLĐ, được quy định trong các văn kiện về quyền con người nói chung
và quyền của NLĐ nói riêng của Liên hợp quốc cũng như được quy định trong các
công ước của ILO về các quyền cơ bản của NLĐ. Quyền tự do liên kết biểu hiện rõ
ràng nhất thông qua quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, quyền liên kết
để tiến hành thương lượng tập thể và quyền liên kết để tiến hành tranh chấp lao
động và đình công. Quyền mang ý nghĩa nền tảng chính là quyền thành lập, gia

18


nhập và hoạt động công đoàn (quyền tự do công đoàn), đây là một trong các nội
dung trong quyền tự do lập hội theo ILO. Trong quan hệ lao động, NLĐ luôn ở vị
thế yếu hơn và bị động hơn so với người NSDLĐ, do đó việc liên kết lại trong một
tổ chức là một nhu cầu tất yếu nhằm bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân nói riêng và
cả tập thể nói chung. Tuyên ngôn Philadelphia (1944) của ILO đã khẳng định: “tự
do ngôn luận và tự do liên kết là điều kiện thiết yếu của tiến bộ lâu dài” và xem đây
là một trong các nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho tổ chức này
1.2 Vai trò của quyền thành lập và gia nhập công đoàn
của người lao động
Hiện nay, có hai học trường phái cơ bản đưa ra quan điểm trái ngược nhau về
nguồn gốc của quyền con người, đó là: Học thuyết về quyền tự nhiên và học thuyết
về các quyền pháp lý. Những người theo học thuyết quyền tự nhiên cho rằng quyền

con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng.
Ngược lại, học thuyết quyền pháp lý cho rằng các quyền con người không phải là
bẩm sinh, vốn có mà là sản phẩm mang tính nhà nước. Tuy nhiên, mọi người đang
hướng tới quan điểm, sự phủ nhận một cách cực đoan hoàn toàn bất cứ lý thuyết
nào đều không phù hợp và đều không thực tế. Liên quan đến lịch sử phát triển của
quyền con người, có thể chia các quyền thành ba “thế hệ” [30]. Thế hệ thứ nhất, các
quyền dân sự, chính trị: hướng vào vấn đề tự do và sự tham gia vào đời sống chính
trị của cá nhân, tiêu biểu như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo tín
ngưỡng, tự do biểu đạt, quyền bầu cử, ứng cử, quyền được xét xử công bằng. Thế
hệ thứ hai, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa: hướng vào tạo lập điều kiện và đối xử
bình đẳng, công bằng cho mọi công dân trong xã hội, tiêu biểu như quyền có việc
làm, quyền được bảo trợ xã hội, quyền có nhà ở…Thế hệ thứ ba: bao gồm các
quyền tiêu biểu như quyền phát triển, quyền được sống trong môi trường trong lành.
Như vậy, quyền tự do lập hội nói chung, quyền thành lập và gia nhập công đoàn nói
riêng nằm trong thế hệ quyền con người thứ nhất (các quyền dân sự, chính trị) và
thế hệ quyền con người thứ hai (các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội).
Quyền tự do công đoàn là một trong những yếu tố thể hiện nền dân chủ và sự
phát triển của một quốc gia. Nói cách khác, nền dân chủ và sự phát triển bền vững
về kinh tế của một quốc gia sẽ không tồn tại nếu một bộ phận dân cư bị tước đi
quyền được tự thành lập các tổ chức để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Quyền tự

19


×