Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.54 KB, 99 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TNHH
CT
CTCP
DN
DNNN

TGĐ
LDN
OECD

: Trách nhiệm hữu hạn
: Công ty
: Công ty cổ phần
: Doanh nghiệp
: Doanh nghiệp nhà nước
: Giám đốc
: Tổng Giám Đốc
: Luật Doanh nghiệp
: Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

DANH MỤC CÁC HỘP
TT

Nội dung

Trang



Hộp 2.1

Vi phạm của công ty TNHH một thành viên cấp nước
Thanh Hóa

64

Hộp 2.2

Sai phạm của bốn công ty thuộc khối công ích

66

Hộp 2.3

Vụ án Vietnam Airlines tại tòa án Rome (Italia)

70


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty TNHH môt thành viên là một trong những loại hình doanh
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, góp phần
làm sinh động thêm môi trường kinh doanh, đa dạng hóa các loại hình doanh
nghiệp, huy động thêm nhiều nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế, tăng thêm
sự lựa chọn cho các nhà đầu tư nhằm nâng cao tính cạnh tranh, năng động của
các thành phần kinh tế.
Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận

lợi cho các loại hình doanh nghiêp. Với những quy định thông thoáng, Luật
doanh nghiệp đã khích lệ và hâm nóng được tinh thần đầu tư, kinh doanh của
người dân và giới doanh nhân, lần đầu tiên cho phép một cá nhân cũng có thể
lựa chọn thành lập loại hình công ty TNHH một thành viên thay vì quy định
chỉ cho tổ chức (pháp nhân) được thành lập loại hình doanh nghiệp này như
Luật doanh nghiệp 1999. Tuy nhiên, với gần 10 năm Luật doanh nghiệp đi
vào cuộc sống, bên cạnh những ưu điểm mà Luật này mang lại vẫn còn xuất
hiện nhiều vướng mắc trong đó có những quy định về quản trị nội bộ công ty
TNHH một thành viên, nhất là đối với những Doanh nghiệp Nhà nước khi
được chuyển đổi sang hoạt động theo loại hình doanh nghiệp này. Theo quy
định của Luât doanh nghiệp vào ngày 01/7/2010 là thời hạn chuyển đổi các
doanh nghiệp nhà nước kết thúc, trong đó các Doanh nghiệp Nhà nước nếu
không tiến hành cổ phần hóa thì phải chuyển đổi sang loại hình công ty
TNHH một thành viên hoặc hai thành viên. Khi đó Nhà nước là một chủ sở
hữu vô hình của các công ty TNHH một thành viên, còn tài sản của Nhà nước
lại được giao cho một số ít người quản lý trong bối cảnh pháp luật còn nhiều
lỗ hổng để cho những người quản lý đó xâm hại đến tài sản của Nhà nước.

1


Thực tế thời gian qua những tranh chấp trong quản lý nội bộ công ty
TNHH một thành viên, cũng như những sai phạm của người quản lý điều
hành công ty diễn ra cũng không ít như: Tổng giám đốc lạm dụng quyền lực
để tư lợi riêng, những hành vi gian lận, lừa đảo của nhóm người điều hành
công ty đối với chủ sở hữu công ty, những giao dịch liên kết giữa người quản
lý với công ty nhằm trộm cắp tài sản công ty, những người quản lý cao cấp
tham nhũng những khoản tiền khổng lồ… Cho đến nay, thực trạng này vẫn
còn xuất hiện khá nhiều và phổ biến. Những vấn đề nêu trên có thể ảnh hưởng
rất lớn tới sự lành mạnh hoá quản lý nội bộ của công ty, gây thất thoát tài sản

của ngân sách Nhà nước đối với những công ty TNHH một thành viên mà chủ
sở hữu là Nhà nước, đồng thời tác động không tốt đến môi trường kinh doanh.
Trong kinh doanh, gây dựng được niềm tin của Nhà đầu tư là điều rất
khó nhất là trong giai đoạn hiện nay khi sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
ngày càng trở nên khốc liệt. Một loạt các công ty lớn trên thế giới đã bị phá
sản hay ở Việt Nam là sự sụp đổ của một số các tập đoàn lớn như Vinashins,
Vinalines…đặt ra nhiều vấn đề về quản lý điều hành trong công ty. Thiếu
vắng một cơ chế quản lý, điều hành công ty tốt quyền lợi của chủ sở hữu và
các Nhà đầu tư không được bảo vệ, những người có tiền sẽ ngại ngần khi đầu
tư vào các công ty, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của
công ty. Sự thành bại của một doanh nghiệp chịu tác động rât lớn của những
người “lèo lái” công ty. Do vậy người nắm quyền quản lý điều hành trong
công ty có vị trí quan trọng trong đối với sự tồn tại và phát triển của công ty,
chỉ khi họ thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình thì mới đem lại lợi ích
cho chủ sở hữu và chính công ty. Điều này đòi hỏi người quản lý phải ý thức
được cơ sở đạo đức căn bản là coi sóc tài sản của người khác như coi sóc tài
sản của chính bản thân mình. Việc xa rời nền tảng đạo đức này rất khó giúp
cho người quản lý công ty tránh khỏi những vi phạm nghĩa vụ bởi kinh doanh

2


là một hoạt động phức tạp trong khi các nghĩa vụ nêu trên đều là các nghĩa vụ
xuất phát từ nền tảng đạo đức, rất mơ hồ về các dấu hiệu pháp lý và phụ thuộc
nhiều vào sự giải thích trong các trường hợp cụ thể [9, tr191]. Kiểm soát
những giao dịch tư lợi cũng như vấn đề minh bạch thông tin của người quản
lý có tác động rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, những quy định của Luật doanh nghiệp hiện nay lại chưa chú
trọng đến vấn đề kiểm soát nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH
một thành viên, một số quy định còn thiếu chặt chẽ và rõ ràng, dẫn đến việc

áp dụng pháp luật chưa thống nhất, tạo ra nhiều kẽ hở để một số người quản
lý điều hành công ty lạm dụng, gây thất thoát tài sản của Nhà nước. Do đó,
những quy định về quản lý nội bộ công ty TNHH một thành viên trong đó có
quy định về nghĩa vụ và kiểm soát các giao dịch tư lợi của những người quản
lý công ty cần phải được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trong
thời gian tới. Để những người quản lý điều hành công ty thực sự là những
người mẫn cán, trung thực và trung thành với lợi ích của chủ sở hữu công ty.
Với sự cần thiết đó tác giả đã quyết đinh chon đề tài “Nghĩa vụ của người
quản lý trong công ty TNHH một thành viên” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn của mình góp phần giải quyết vấn đề vừa mang tính thời sự, vừa
mang tính khoa học và thực tiễn nêu trên.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề pháp lý liên quan
đến quy định nghĩa vụ người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên,
(đặc biệt chú trọng vào các công ty TNHH một thành viên là tổ chức), về tình
hình thực hiện những nghĩa vụ của người quản lý điều hành trong công ty.

3


Trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn là toàn bộ các quy định của
pháp luật hiện hành về nghĩa vụ người quản lý trong công ty TNHH một
thành viên. Phân tích những tình huống thực tiễn gắn liền với việc thực hiện
nghĩa vụ của những người giữ vai trò điều hành công ty. Thực trạng của việc
thực hiện nghĩa vụ người quản lý, việc kiểm soát các giao dịch tư lợi của
những người đứng đầu công ty, cũng như các chế tài được áp dụng đối với
những hành vi vi phạm nghĩa vụ người quản lý trong công ty TNHH một
thành viên. Những biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao vai trò trách
nhiệm người quản lý trong công ty TNHH một thành viên.
3. Tình hình nghiên cứu

Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu giá trị đi
sâu tìm hiểu về Công ty TNHH một thành viên như: Luận văn thạc sỹ “ Chế
độ pháp lý về quản lý nội bộ của công ty TNHH theo Luật doanh nghiệp” của
tác giả Lương Thị Thu Hà; hay luận văn viết về việc chuyển đổi DNNN sang
công ty TNHH một thành viên như Luân văn thạc sỹ “ Pháp luật về chuyển
đổi DNNN thành công ty TNHH một thành viên” của tác giả Nguyễn Thị Huế.
Ngoài ra vấn đề quy định về người quản lý công ty cũng đã được đề cập trong
một số giáo trình và sách tham khảo của các trường đại học như: Giáo trình
Luật Thương mại – Phần chung và thương nhân của PGS.TS Ngô Huy
Cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Chuyên khảo Luật kinh tế
của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu này
chỉ đi sâu tìm hiểu về quản trị nội bộ trong Công ty TNHH một thành viên
hay vấn đề chuyển đổi từ DNNN sang hoạt động theo loại hình này. Trong đó
cũng có đề cập đến nghĩa vụ của người quản lý, điều hành nhưng chưa có
công trình nghiên cứu chính thức nào đi sâu tìm hiểu một cách cặn kẽ về
nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên để có cái

4


nhìn khái quát về tình hình thực hiện nghĩa vụ của những người này đặc biệt
là đối với trường hợp công ty TNHH một thành viên mà Nhà nước sở hữu
100% vốn điều lệ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên; phân
tích, đánh giá thực trạng pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong Công
ty TNHH một thành viên ở Việt Nam hiện nay; để từ đó đề xuất các định
hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong
Công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam trong thời gian tới.

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nghĩa vụ của người
quản lý trong Công ty TNHH một thành viên;
- Nghiên cứu so sánh về nghĩa vụ của người quản lý trong Công ty
TNHH một thành viên trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý
trong Công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của
người quản lý trong Công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam trong thời
gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài của Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, đường lối, quan

5


điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập.
Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống
kê, phương pháp lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp luật so
sánh để làm rõ các vấn đề liên quan đến quy định về nghĩa vụ của người quản
lý trong công ty TNHH một thành viên. Để từ đó đề xuất những kiến nghị góp
phần hoàn thiện quy định của pháp luật phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
6. Những đóng góp của Luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu các quy định pháp lý về
nghĩa vụ của người quản lý trong công ty TNHH một thành viên. Về mặt lý
luận, Luận văn đưa ra cái nhìn tổng quan về người quản lý, địa vị pháp lý của

họ trong công ty. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp quy định pháp luật điều
chỉnh và thực tiễn áp dụng pháp luật quy định về nghĩa vụ của người quản lý
công ty, Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề phù hợp và chưa phù
hợp trong quy định của pháp luật hiện hành về nghĩa vụ người quản lý trong
công ty TNHH một thành viên. Qua đó có những giải pháp để góp phần hoàn
thiện pháp luật doanh nghiệp, giúp cho việc quản trị công ty minh bạch, hiệu
quả, bảo vệ được quyền lợi của chủ sở hữu, nhà đầu tư và những người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận, Luận văn được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về người quản lý và nghĩa vụ của người
quản lý trong Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

6


Chương 2: Thực trạng pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý trong
Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa
vụ của người quản lý trong Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ VÀ NGHĨA VỤ
CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM
HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN
1.1. Khái niệm người quản lý trong công ty TNHH một thành viên
1.1.1. Định nghĩa người quản lý trong công ty TNHH một thành viên

Bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều cần phải chú
trọng đến vấn đề quản trị nội bộ công ty. Một trong những vấn đề quan trọng
liên quan đến quản trị công ty đó là thiết lập bộ máy tổ chức quản lý điều
hành công ty. Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên cũng
không phải là một ngoại lệ. Đây là một loại hình doanh nghiệp tương đối đặc
biệt, chỉ có duy nhất một chủ sở hữu và chủ sở hữu công ty có thể là cá nhân
hoặc tổ chức. Do vậy mô hình quản trị công ty tùy thuộc vào đối tượng thành
lập công ty là ai và ai sẽ là người chịu trách nhiệm “lèo lái” công ty? Bởi lẽ
công ty là một thực thể pháp lý độc lập, mọi hoạt động của công ty phải thực
hiện thông qua người đại diện. Xác định đúng ai là người quản lý công ty và
quy định hợp lý các nghĩa vụ pháp lý phát sinh cho họ sẽ góp phần cho việc
quản trị công ty có hiệu quả, kiểm soát các giao dịch tư lợi nhằm bảo vệ
quyền lợi của chủ sở hữu cũng như các bên có liên quan khác như người lao
động trong công ty, chủ nợ, khách hàng của công ty…
Trong Luật doanh nghiệp 2005, người quản lý doanh nghiệp được quy định
tại Khoản 13 Điều 4 như sau: “ Người quản lý là chủ sở hữu, Giám đốc doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty Hợp danh, Chủ tịch Hội đồng
thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và các chức danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định”.

8


Theo cách tiếp cận của Luật doanh nghiệp 2005 thì người quản lý trong
công ty TNHH một thành viên gồm có: “ Chủ tich Hội đồng thành viên, Chủ
tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các chức danh quản lý khác do
điều lệ công ty quy định”. Công ty TNHH một thành viên có đặc trưng là Chủ
sở hữu công ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Nên việc xác định người quản
lý trong công ty này còn tùy thuộc vào đối tượng thành lập công ty. Trường
hợp Chủ sở hữu công ty là một tổ chức (pháp nhân) thì tổ chức này sẽ ủy

quyền cho một hoặc một số người đại diện cho tổ chức để thực hiện việc quản
lý công ty. Người quản lý sẽ là Chủ tịch Hội đồng thành viên nếu có ít nhất từ
2 người trở lên được cử làm đại diện cho chủ sở hữu, hoặc là Chủ tịch công ty
nếu chỉ có một người được ủy quyền đại diện cho chủ sở hữu công ty. Hội
đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty sẽ bổ nhiệm hoặc thuê Giám đốc
(Tổng giám đốc) để điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty.
Những người giữ các chức danh quản lý trên được coi là người quản lý trong
công ty. Đối với trường hợp chủ sở hữu công ty là cá nhân thì người quản lý
là Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty, chủ sở hữu công
ty lúc này đồng thời là Chủ tịch công ty. Do vậy đối với trường hợp này thì
chủ sở hữu cũng sẽ tham gia với tư cách là người quản lý trong công ty. Trong
phạm vi đề tài này, tác giả sẽ chỉ đi sâu đề cập đến những người quản lý trong
công ty TNHH một thành viên là tổ chức.
Như vậy theo quy định tại Khoản 13 Điều 4, người quản lý công ty được
xác định theo hình thức liệt kê một loạt các chức danh luật định và theo
hướng mở đó là xác đinh người quản lý công ty còn bao gồm “ các chức danh
quản lý khác do điều lệ công ty quy định”. Trong công ty có thể có các chức
danh quản lý khác như Phó giám đốc ( Phó tổng giám đốc), trưởng văn phòng
đại diện, quản đốc… Những người này thường được coi là người quản lý
doanh nghiệp theo điều lệ công ty. Từ đây có thể thấy Luật doanh nghiệp

9


2005 xác định người quản lý công ty theo chức danh. Hiện nay, không hiếm
các đối tượng quản lý là Phó Tổng giám đốc, trưởng phòng kinh doanh, kế
toán trưởng… lợi dụng quyền hạn của mình để tư lợi, gây thiệt hại lớn cho
công ty. Do vậy cần có cách nhìn khái quát hơn về người quản lý trong công
ty, để từ đó có những quy định phù hợp hơn tránh bỏ xót những đối tượng
này.

Trong bản dự thảo sửa đổi Luật doanh nghiệp năm 2005 có quy định về
người quản lý như sau: “ Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công
ty và người quản lý doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư
nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội
đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản
lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo
quy định tại Điều lệ công ty”.
Như vậy người quản lý trong công ty TNHH một thành viên bao gồm:
Chủ tịch HĐTV, thành viên HĐTV, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh
công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Với
quy định này có thể thấy khi xác định người quản lý vẫn theo hướng liệt kê
một loạt các chức danh theo luật định và theo hướng mở. Đối với công ty
TNHH một thành viên có quy định thêm thành viên HĐTV cũng được coi là
người quản lý trong công ty thay vì trước đây chỉ có chủ tịch HĐTV là người
quản lý công ty. Tuy nhiên, định nghĩa về người quản lý này vẫn chưa thực sự
đầy đủ, rõ ràng.
Luật công ty của các nước theo hệ thống Common Law như
Newzealand, Canada, Singapo, Australia… xác định rất rõ ai là người quản lý

10


công ty và việc xác định dựa trên nguyên tắc: (i) là thành viên Ban giám đốc;
(ii) Giữ vị trí hoặc thực hiện vai trò trong vị trí của Giám đốc; (iii) Người đưa
ra các chỉ đạo để giám đốc làm theo. Như vậy khái niệm Giám đốc, người
quản lý công ty được hiểu khá rộng và bao gồm cả những người không được
chỉ định chính thức làm người quản lý công ty. Trong hoạt động xét xử, các
Tòa án xác định ai là người quản lý công ty theo chức năng, công việc mà

người đó làm chứ không phải chỉ theo chức danh. Vì thế một người không
được bổ nhiệm chính thức làm Giám đốc vẫn có thể bị Tòa án coi là Giám
đốc và phải chịu trách nhiệm như Giám đốc. Đấy là điểm khác biệt với
phương pháp xác định người quản lý công ty của Luật doanh nghiệp nước
ta[15].
Luật doanh nghiệp năm 2005 chưa định nghĩa một cách đầy đủ về người
quản lý mà chỉ đưa ra như có tính chất liệt kê những người nào được gọi là
người quản lý trong doanh nghiệp nói chung cũng như trong công ty TNHH 1
thành viên nói riêng. Theo quan điểm của chúng tôi, người quản lý trong
Doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH một thành viên nói riêng được
hiểu là những nguời do chủ sở hữu chỉ định, bổ nhiệm hoặc đi thuê, để quản
lý điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà những quyết định
của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của chủ sở hữu, của công
ty, chủ nợ và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến công ty.
1.1.2. Cơ chế chỉ định, bổ nhiệm người quản lý trong công ty TNHH
một thành viên
• Hội đồng thành viên và Chủ tịch Hội đồng thành viên
Đối với những công ty TNHH một thành viên mà chủ sở hữu duy nhất
của công ty là tổ chức (pháp nhân). Xuất phát từ bản chất pháp nhân vốn là

11


một thực thế pháp lý độc lập, mọi hoạt động của pháp nhân được thực hiện
thông qua người đại diện. Do vậy chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một hoặc một
số người đại diện theo ủy quyền để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ
sở hữu theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp có ít nhất hai người
được bổ nhiệm làm đại diện theo ủy quyền thì cơ cấu tổ chức quản lý của
công ty gồm: Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc
(Tổng giám đốc) và Kiểm soát viên. Như vậy, chủ sở hữu công ty có quyền

quyết định áp dụng cơ cấu tổ chức theo mô hình hội đồng thành viên. Hội
đồng thành viên bao gồm tất cả những người được chủ sở hữu công ty bổ
nhiệm đại diện theo ủy quyền. Số lượng thành viên HĐTV do chủ sở hữu
công ty quyết định. Đối với công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu có quy định: “Hội đồng thành viên có các thành viên chuyên trách
và không chuyên trách. Số lượng thành viên không quá 5 người. Trường hợp
đặc biệt cần nhiều hơn 5 thành viên Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty
báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận” (Khoản 3, Điều 15, Nghị
định 19/2014 Ban hành Điều lệ mẫu của công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu).
Trong công ty TNHH một thành viên Chủ tịch Hội đồng thành viên do
chủ sở hữu công ty chỉ định trong số thành viên Hội đồng thành viên. Quy
định này khác với công ty TNHH hai thành viên trở lên, đó là Chủ tịch Hội
đồng thành viên trong công ty TNHH hai thành viên trở lên được lựa chọn
bầu ra trong số các thành viên của Hội đồng thành viên. Nghĩa là chức danh
Chủ tịch Hội đồng thành viên trong công ty TNHH một thành viên do chủ sở
hữu công ty toàn quyền quyết định.
• Chủ tịch công ty.

12


Như đã nói ở phần trên, chủ sở hữu công ty là tổ chức có toàn quyền
quyết định áp dụng cơ cấu tổ chức theo mô hình Hội đồng thành viên hay mô
hình Chủ tịch công ty. Đối với trường hợp chủ sở hữu công ty là một tổ chức
(pháp nhân) chỉ bổ nhiệm một người làm đại diện theo ủy quyền thì người đó
làm Chủ tịch công ty. Nghĩa là Chủ tịch công ty do chủ sở hữu công ty bổ
nhiệm. Còn trường hợp chủ sở hữu công ty là một cá nhân thì chủ sở hữu
công ty đồng thời là Chủ tịch công ty. Trong trường hợp này chủ sở hữu sẽ
đóng vai trò là người trực tiếp quản lý công ty, nhưng mọi hoạt động nhân

danh công ty của chủ sở hữu phải tách bạch với những chi tiêu cá nhân của
họ. Nhiệm kỳ hoạt động của chủ sở hữu không quá 05 năm, có thể được bổ
nhiệm lại hoặc thay thế. Chủ tịch công ty có thể kiêm Tổng giám đốc công ty.
Điều lệ công ty quy định Chủ tịch công ty hoặc Tổng giám đốc là người đại
diện theo pháp luật của công ty.
• Giám đốc ( Tổng giám đốc) và những người quản lý khác.
Trong pháp luật của một số nước, Giám đốc (Tổng giám đốc) là một
chức danh do điều lệ công ty quy định, là cơ quan trợ giúp điều hành hoạt
động trong công ty. Ở các nước này, Giám đốc (Tổng giám đốc) có địa vị
pháp lý như người giúp việc quản lý kinh doanh của một thương nhân. Họ
tham gia vào công ty với tư cách là người làm thuê, thông qua một hợp đồng
lao động. Nhìn chung đa số các nước trên thế giới đều nhận định rằng Giám
đốc (Tổng giám đốc) công ty không phải là người chủ, cũng không phải là
người làm thuê thông thường, mà họ là người có quyền chỉ huy điều khiển, và
có vị trí cao trong công ty.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 thì Giám đốc (Tổng giám
đốc) là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty do Hội

13


đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty bổ nhiệm hoặc thuê với nhiệm kỳ
không quá năm năm. Giám đốc (Tổng giám đốc) chịu trách nhiệm trước pháp
luật và Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty về việc thực hiện các
quyền và nhiệm vụ của mình. Như vậy, đối với chức danh Giám đốc (Tổng
giám đốc) có thể do Hội đồng thành viên bổ nhiệm trong số các thành viên
của HĐTV, hoặc thuê người khác làm Giám đốc (Tổng giám đốc). Chủ tịch
công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm Giám đốc (Tổng giám
đốc).
Ngoài những chức danh đã nêu ở trên như Hội đồng thành viên, Chủ tịch

Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc (Tổng giám đốc), trong
công ty còn có các chức danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định. Điều
này tạo ra hướng mở cho cách hiểu những người quản lý trong công ty, theo
đó, người quản lý công ty có thể gồm các Phó tổng giám đốc, trưởng phòng…
theo quy định của Điều lệ công ty. Trong phạm vi thẩm quyền của mình,
Giám đốc (Tổng giám đốc) có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các
chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội
đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty (Điểm đ, khoản 2, Điều 70 LDN
2005).
1.1.3. Quy chế pháp lý về người quản lý trong công ty TNHH một
thành viên
• Tiêu chuẩn, điều kiện của người quản lý công ty TNHH một thành
viên
Người quản lý doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH một thành viên
nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của công ty, bởi
lẽ sự thành bại của một doanh nghiệp không thể thiếu được vai trò lãnh đạo

14


của họ. Nhưng để “lèo lái” được công ty đòi hỏi những người quản lý phải có
những phẩm chất, kỹ năng cần có của một nhà quản lý hiện đại. Việc lựa chọn
người quản lý phù hợp cho doanh nghiệp là rất quan trong, về cơ bản phải dựa
trên những tiêu chuẩn nền tảng như: Năng lực quản lý, phẩm chất đạo đức,
các vấn đề về nhân thân…
Để đánh giá năng lực quản lý của những người đứng đầu doanh nghiệp
thông thường chúng ta dựa trên các yếu tố: Một là phải căn cứ vào trình độ,
kỹ năng chuyên môn cụ thể về nghề nghiệp. Hai là phải có sự am hiểu về
doanh nghiệp, ngành, các hoạt động liên quan cũng như các kiến thức về pháp
lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Nhìn chung họ phải có kỹ năng về

hoạch định, tổ chức và điều hành doanh nghiệp, cũng như đưa ra các dự báo
về khó khăn, trở ngại, biến động của môi trường kinh doanh một cách kịp thời
để đưa ra hướng phát triển cho doanh nghiệp.
Một tiêu chí quan trọng nữa để lựa chọn người quản lý doanh nghiệp đó
là yếu tố đạo đức. Người quản lý phải là người có phẩm chất đạo đức tốt,
trung thực, mẫn cán với hoạt động của công ty nhằm đem lại lợi ích tốt nhất
cho công ty, chủ sở hữu cũng như những người có quyền lợi liên quan đến
doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ lý do những người quản lý công ty là
những người biết rõ nhất mọi hoạt động của công ty. Do vậy rất cần những
nhà quản lý thiện tâm, trung thành với lợi ích của công ty.
Bên cạnh đó khi xét đến vấn đề nhân thân yêu cầu người quản lý phải có
đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm quản lý kinh
doanh, có nhân thân tốt.

15


Dựa trên những tiêu chí nền tảng trên Luật doanh nghiệp đã có những
quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đối với những người quản lý trong công ty
TNHH một thành viên như sau:
* Hội đồng thành viên và Chủ tịch Hội đồng thành viên
Đối với những công ty TNHH một thành viên tổ chức theo mô hình Hội
đồng thành viên, khi chủ sở hữu công ty bổ nhiệm người đại diện theo ủy
quyền phải dựa trên các tiêu chuẩn và điều kiện sau: Đủ năng lực hành vi dân
sự; Không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp; Có
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong
ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty; Đối với công ty con của công ty
có phần vốn góp hay cổ phần sở hữu nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ
thì vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em
ruột của người quản lý và của người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý

công ty mẹ không được cử làm người đại diện theo ủy quyền tại công ty con.
(Khoản 2, Điều 48 LDN 2005)
Trường hợp công ty TNHH một thành viên do Nhà nước sở hữu 100%
vốn điều lệ thì thành viên Hội đồng thành viên phải thỏa mãn những tiêu
chuẩn và điều kiện: thường trú tại Việt Nam. Chủ tịch Hội đồng thành viên
phải là công dân Việt Nam; tốt nghiệp đại học, có năng lực kinh doanh và
quản lý doanh nghiệp. Chủ tịch Hội đồng thành viên phải có kinh nghiệm ít
nhất 03 năm làm công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp thuộc ngành, nghề
kinh doanh chính hoặc ngành nghề có liên quan đến ngành kinh doanh chính
của công ty; có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, liêm khiết, hiểu
biết pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật; không đồng thời là cán bộ
trong bộ máy quản lý Nhà nước hoặc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội hoặc các chức vụ quản lý, điều hành tại các doanh nghiệp thành viên;

16


không thuộc đối tượng bị cấm đảm nhiệm chức vụ quản lý điều hành doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật; không là Chủ tịch Hội đồng thành viên,
thành viên Hội đồng thành viên (Chủ tịch công ty), Tổng Giám đốc (Giám
đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) đã từng bị miễn nhiệm trước thời
hạn tại công ty hoặc ở doanh nghiệp nhà nước khác trong những trường hợp
quy định tại Điểm a, Điểm c và Điểm đ Khoản 1 Điều 18 Điều lệ này; các tiêu
chuẩn khác theo quy định của pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu và các tiêu chuẩn khác theo ngành,
lĩnh vực kinh doanh chính của công ty (nếu có)[6, điều 17].
Trong công ty TNHH một thành viên Chủ tịch Hội đồng thành viên do
chủ sở hữu công ty chỉ định trong số các thành viên Hội đồng thành viên. Nói
cách khác, chức danh Chủ tịch Hội đồng thành viên trong loại hình công ty
này do chủ sở hữu công ty toàn quyền quyết định. Chủ tịch HĐTV cũng phải

thỏa mãn những tiêu chuẩn của thành viên HĐTV. Đối với Chủ tịch Hội đồng
thành viên của công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ được
chuyển đổi từ tổng công ty do Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập thì
không kiêm Tổng giám đốc; còn đối với những công ty khác thì chủ sở hữu
quyết định Chủ tịch hội đồng kiêm hoặc không kiêm Tổng giám đốc. Trường
hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Tổng giám đốc thì phải đảm bảo các
điều kiện: được doanh nghiệp đề nghị kiêm nhiệm và có đơn đề nghị của
người dự kiến kiêm nhiệm. Người được đề nghị kiêm nhiệm phải có sức khỏe
và đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện đối với cả hai chức danh này. Doanh
nghiệp phải quy định cụ thể và tách bạch trong thực thi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng thành viên và của Tổng
giám đốc. Người được đề nghị kiêm nhiệm phải chịu trách nhiệm đối với
chức năng, nhiệm vụ và vai trò là Chủ tịch Hội đồng thành viên và Tổng
Giám đốc công ty.

17


* Chủ tịch công ty
Đối với trường hợp chủ sở hữu công ty là một tổ chức (pháp nhân) chỉ
bổ nhiệm một người làm đại diện theo ủy quyền thì người đó làm Chủ tịch
công ty. Nghĩa là Chủ tịch công ty do chủ sở hữu công ty bổ nhiệm. Còn
trường hợp chủ sở hữu công ty là một cá nhân thì chủ sở hữu công ty đồng
thời là Chủ tịch công ty. Trong trường hợp này chủ sở hữu sẽ đóng vai trò là
người trực tiếp quản lý công ty, nhưng mọi hoạt động nhân danh công ty của
chủ sở hữu phải tách bạch với những chi tiêu cá nhân của họ. Chủ tịch công ty
có thể kiêm Tổng giám đốc công ty.
Chủ tịch công ty phải đáp ứng tiêu chuẩn quy định như Chủ tịch Hội
đồng thành viên. Trường hợp Chủ tịch công ty kiêm Tổng giám đốc phải đảm
bảo các điều kiện: được doanh nghiệp đề nghị kiêm nhiệm và có đơn đề nghị

của người dự kiến kiêm nhiệm. Người được đề nghị kiêm nhiệm phải có sức
khỏe và đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện đối với cả hai chức danh này. Phải
quy định cụ thể và tách bạch trong thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của Chủ tịch công ty và của Tổng giám đốc. Người được đề
nghị kiêm nhiệm phải chịu trách nhiệm đối với chức năng, nhiệm vụ và vai
trò là Chủ tịch công ty và Tổng giám đốc công ty.
* Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc công ty TNHH một thành viên là người điều hành công việc kinh doanh
hàng ngày của công ty do Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty hoặc
Chủ sở hữu công ty bổ nhiệm hoặc thuê. Khoản 3 Điều 70 Luật doanh nghiệp
2005 có đưa ra tiêu chuẩn, điều kiện của Giám đốc (Tổng giám đốc) như sau:
“Có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm quản lý

18


doanh nghiệp theo quy định của Luật này; Không phải là người có liên quan
của Hội đồng thành viên, hoặc Chủ tịch công ty, người có thẩm quyền trực
tiếp bổ nhiệm người đại diện theo ủy quyền hoặc Chủ tịch công ty; Có trình
độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế tương ứng trong quản trị kinh doanh
hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn,
điều kiện khác quy định tại điều lệ công ty”.
Nghị định 102/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
doanh nghiệp có quy định rõ hơn đối với trường hợp công ty TNHH một
thành viên là tổ chức thì Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) phải có các tiêu
chuẩn và điều kiện sau đây: a. Có đủ năng lực hành vì dân sự và không thuộc
đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp quy định tại khoản 2
Điều 13 của Luật Doanh Nghiệp; b. có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm
thực tế tương ứng trong quản trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh

doanh chủ yếu của công ty, trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác;
c. Trường hợp chủ sở hữu công ty là cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp có
trên 50% sở hữu nhà nước, ngoài các tiêu chuẩn và điều kiện quy định tại các
điểm a và b khoản này, Giám đốc (Tổng giám đốc) không được là vợ hoặc
chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, hoặc anh, chị, em ruột của
người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan nhà nước và người đại
diện phần vốn nhà nước tại công ty đó [7, điều 15].
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy
định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề thì trong Hồ sơ đăng ký kinh
doanh của công ty phải có chứng chỉ hành nghề của Giám đốc (Tổng giám
đốc) và cá nhân khác (Khoản 5, Điều 18 LDN 2005). Quy định trên đã góp
phần cải thiện thực trạng mượn chứng chỉ, bảo đảm tính thực chất hơn trong
hoạt động quản lý doanh nghiệp.

19


Nhìn chung, những quy định về tiêu chuẩn và điều kiện Giám đốc (Tổng
giám đốc) giúp cho công ty lựa chọn, tuyển dụng được những nhà quản lý
giỏi. Đặc biệt những trường hợp các công ty do Nhà nước đầu tư vốn càng
cần mạnh dạn, dám bỏ ra những khoản tiền lương lớn để ký hợp đồng thuê
các Giám đốc có tài về quản lý doanh nghiệp, có như vậy mới có thể bảo toàn
và phát triển được nguồn vốn Nhà nước đầu tư.
• Nhiệm vụ, quyền hạn của người quản lý trong công ty TNHH một
thành viên.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng
thành viên
Hội đồng thành viên nhân danh chủ sở hữu công ty tổ chức thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty; có quyền nhân danh công ty thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty; chịu trách nhiệm trước pháp luật và

chủ sở hữu công ty về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao theo
quy định của Luật doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
Quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ cụ thể và chế độ làm việc của Hội đồng
thành viên đối với chủ sở hữu công ty được thực hiện theo quy định tại Điều
lệ công ty và pháp luật có liên quan.
Nghị định 25/2010/NĐ-CP về chuyển đổi công ty Nhà nước thành công
ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên do
Nhà nước làm chủ sở hữu đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
đồng thành viên tại Điều 20. Trong đó đã làm nổi bật một số những nhiệm vụ,
quyền hạn quan trọng sau: xây dựng và quyết định chiến lược phát triển; kế
hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm của công ty; quyết định phương án
phối hợp kinh doanh của các đơn vị thành viên do công ty sở hữu toàn bộ vốn

20


điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối (nếu có) thông qua việc sử dụng
quyền chi phối của công ty tại các doanh nghiệp này. Quyết định việc xây
dựng và sử dụng thương hiệu; các giải pháp phát triển thị trường và công
nghệ; các dự án đầu tư, hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có
giá trị dưới 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất
của công ty hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, hoặc không
vượt quá mức giá trị tối đa quy định tại Điều lệ công ty. Quyết định đầu tư
thành lập mới, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty con là công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên; các công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên thuộc sở hữu của các công ty con do công ty mẹ nắm 100% vốn
điều lệ; các đơn vị trực thuộc công ty mẹ; các chi nhánh, các văn phòng đại
diện của công ty mẹ ở trong nước và ở nước ngoài theo quy định của pháp
luật. Quyết định các phương án huy động vốn có giá trị không vượt quá giá trị
vốn điều lệ hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty, hoặc không

vượt quá mức giá trị tối đa quy định tại Điều lệ công ty. Quyết định cơ cấu tổ
chức, phương án tổ chức kinh doanh, quy chế quản lý nội bộ công ty, biên chế
bộ máy quản lý. Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng,
chấm dứt hợp đồng, mức lương và lợi ích khác đối với các Phó tổng giám đốc
(Giám đốc lĩnh vực), Kế toán trưởng của công ty theo đề nghị của Tổng giám
đốc. Cử người đại diện phần vốn góp của công ty ở doanh nghiệp khác theo
đề nghị của Tổng giám đốc. Thông qua báo cáo tài chính hàng năm của công
ty...
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, Chủ tịch Hội đồng thành
viên có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như: chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị
chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng thành viên; chuẩn bị hoặc tổ
chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu họp Hội đồng thành viên
hoặc để lấy ý kiến các thành viên; triệu tập và chủ trì cuộc họp Hội đồng

21


thành viên hoặc tổ chức việc lấy ý kiến các thành viên; giám sát hoặc tổ chức
giám sát việc thực hiện các quyết định của Hội đồng thành viên; thay mặt Hội
đồng thành viên ký các quyết định của Hội đồng thành viên; có trách nhiệm
giải trình và chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu về việc chậm trễ hoặc không
ký các quyết định của Hội đồng thành viên; các quyền và nhiệm vụ khác theo
quy định của Luật doanh nghiệp và Ðiều lệ công ty.
Nghiên cứu những quy định về quyền và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội
đồng thành viên, chúng ta có thể thấy rõ ràng Chủ tịch HĐTV nếu không
kiêm nhiệm Giám đốc (Tổng giám đốc) thì chỉ như một chức danh “hành
chính’’ trong công ty [16]. Với vai trò như một cơ quan thường trực của
HĐTV, hoạt động chủ yếu của Chủ tịch HĐTV là chuẩn bị các công việc cần
thiết cho hoạt động của HĐTV, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện các
quyết định của HĐTV chứ không có thực quyền trong việc quyết định các vấn

đề quan trọng của công ty. Song, trong thực tế, quyền lực của HĐTV lại rất
lớn. Chủ tịch HĐTV do chủ sở hữu công ty trực tiếp bổ nhiệm, thường là
thành viên có uy tín với chủ sở hữu. Nếu Chủ tịch HĐTV kiêm luôn GĐ/TGĐ
thì khả năng chi phối các hoạt động của Chủ tịch HĐTV trên thực tế là rất
lớn.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch công ty
Chủ tịch công ty nhân danh chủ sở hữu tổ chức thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công
ty; chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu và pháp luật về việc thực hiện quyền và
nhiệm vụ được giao. Luật doanh nghiệp 2005 không nêu cụ thể các quyền,
nghĩa vụ, nhiệm vụ cụ thể của Chủ tịch công ty mà chỉ quy định các quyền,
nhiệm vụ này được thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty và pháp luật
có liên quan.

22


×