Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÀO THỊ TỐ ĐIỂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
SINH THÁI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NÔNG SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TÀO THỊ TỐ ĐIỂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
SINH THÁI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NÔNG SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số

: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HOÀNG CẦM


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Tào Thị Tố Điểm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DU LỊCH
SINH THÁI ...................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển
của du lịch sinh thái........................................................................................... 8
1.2. Một số cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái19
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
DU LỊCH SINH THÁI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NÔNG SƠN .............. 27
2.1. Thực trạng phát triển tiềm năng du lịch sinh thái trên địa bàn huyện Nông
Sơn................................................................................................................... 27
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn
huyện Nông Sơn .............................................................................................. 37
2.3. Nhận xét chung về thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên
địa bàn huyện Nông Sơn ................................................................................. 43
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
HUYỆN NÔNG SƠN GIAI ĐOẠN 2019-2025 ........................................... 48
3.1. Phương hướng thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa

bàn huyện Nông Sơn ....................................................................................... 48
3.2. Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy chính sách phát triển du lịch sinh thái
ở Nông Sơn...................................................................................................... 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển mạnh của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề đô thị hóa tăng
mạnh và biểu hiện quá nóng khiến con người ngày càng gia tăng nhu cầu hướng trở
về với thiên nhiên. Du lịch sinh thái (DLST) hiện nay chính là sự lựa chọn đáp ứng
nhu cầu này và trở thành xu hướng du lịch phổ biến trên thế giới. Du khách luôn tìm
về các điểm du lịch còn lưu giữ những nét văn hoá truyền thống lâu đời, môi trường
trong sạch và nhất là các cảnh quan thiên nhiên, các khu bảo tồn đa dạng sinh học.
Mọi miền trên đất nước ta vốn sẵn có tài nguyên thiên nhiên phong phú và văn hóa
đặc sắc, trở thành là nơi có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái.
Tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Nông Sơn nói riêng là địa bàn có địa
hình và tài nguyên đa dạng và các giá trị văn hoá truyền thống phong phú. Nông
Sơn là một huyện thuộc khu vực trung du và miền núi, nằm ở phía Tây của tỉnh
Quảng Nam. Nơi đây tập trung nhiều nguồn tài nguyên du lịch có giá trị như: Làng
Đại Bình, Nước Nóng Tây Viên, Hòn Kẽm Đá Dừng, Khu Bảo tồn loài và sinh
cảnh Voi ... đã đạt đến mức độc đáo và quý hiếm.
Trong nhiều năm qua, kinh tế xã hội của huyện Nông Sơn, đặc biệt là lĩnh vực
du lịch nói đã có những thành tựu đáng kể, song vẫn còn chưa tương xứng với tiềm
năng, thế mạnh vốn có của huyện. Các chỉ tiêu về du lịch như: cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ dịch vụ du lịch... còn nhỏ bé; số lượng du khách; doanh thu ngành du
lịch chưa đạt chỉ tiêu vạch ra. Hầu hết các hoạt động du lịch của huyện chỉ dừng lại
ở việc khai thác các nguồn tài nguyên tự nhiên sẵn có mà chưa có sự đầu tư để phát
triển bền vững. Hoạt động du lịch sinh thái tuy bước đầu đã hoạt động nhưng còn

mang tính tự phát là chủ yếu, nên việc tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái đã bắt
đầu bộc lộ sự yếu kém gây tác động xấu đến cảnh quan, môi trường. Trong khi việc
ban hành và triển khai một số chính sách liên quan đến lĩnh vực du lịch còn chậm
trễ, chưa bao quát; vẫn còn tình trạng chồng chéo giữa một số chính sách liên quan
đến lĩnh vực này; chưa tiến hành khảo sát kỹ lưỡng và toàn diện về tài nguyên du
lịch tự nhiên cũng như các điều kiện khác để phát triển du lịch sinh thái, dẫn đến

1


thiếu quy hoạch, chiến lược phát triển… Hơn nữa, năng lực thực thi chính sách phát
triển du lịch sinh thái của huyện còn yếu, mà biểu hiện ra là các cấp, các ngành, đơn
vị, cá nhân làm du lịch chưa thật sự hiểu rõ về du lịch sinh thái và những lợi ích mà
nó mang lại, nên không chú trọng đầu tư (cả về cơ sở hạ tầng, nhân lực và kiến thức
khoa học). Hiện trạng này làm cho quá trình thực thi chính sách phát triển du lịch
sinh thái của Nông Sơn chưa đáp ứng sự mong đợi, nên chưa khai thác tốt tiềm
năng, thế mạnh sẵn có về phát triển du lịch sinh thái để đáp ứng được yêu cầu phát
triển mới của huyện Nông Sơn.
Với lý do trên, việc nghiên cứu đề xuất những giải pháp để phát triển du lịch
sinh thái là cần thiết, không chỉ với lý luận mà còn có giá trị thực tiễn cao. Do vậy
tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ chuyên
ngành Chính sách công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ngay từ khi xuất hiện như một loại hình du lịch mới, du lịch sinh thái đã thu
hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Chỉ trong
khoảng 2 thập kỉ từ khi loại hình du lịch này xuất hiện, đã có hàng trăm bài viết
được xuất bản về chủ đề này. Trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi chỉ điểm
lược một số công trình nghiên cứu tiêu biểu, có ý nghĩa về mặt phương pháp luận
cho luân văn.

Một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về chủ đề này là
nghiên cứu của Santhosh Thampi (2001). Theo tác giả, du lịch sinh thái xuất hiện
như một cứu cánh để 'hoà giải" giữa bảo tồn thiên nhiên và phát triển sinh thái ở
những khu vực giàu có về nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tác giả cho rằng du lich
sinh thái bao gộp trong nó nhiều cấu phần để có thể tạo ra tiềm năng cho sự sự phát
triển bền vững. Để giảm thiểu sự mất cân bằng trong phân chia lợi nhuận, một vấn
đề phổ biến ở các loại hình du lịch khác, thì vấn đề quan trọng là gia tăng sự sở hữu
của các cộng đồng địa phương đối với tài nguyên và với các hoạt động kinh doanh
du lịch. Thêm vào đó, vấn đề này còn có thể được giải quyết thông qua việc sừ dụng

2


nguồn nhân lực địa phương trong các hoạt động du lịch, bao gồm cả việc xây dựng
cơ sở hạ tầng cho đến nhân cộng làm các dịch vụ liên quan. Điều này cũng đồng
nghĩa với sự loại bỏ hoàn toàn việc chỉ giao các hoạt động liên quan đến du lịch
sinh thái cho các nhà đầu tư đến từ bên ngoài.
Bijender Punia (1999) trong nghiên cứu của mình có tiêu đề "Vấn đề và triển
vọng của du lịch ở Haryana’ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của các thành tố cho
phát triển du lịch sinh thái như khí hậu, cảnh quan, khá năng tiếp cận địa bàn, thái
độ của các cộng đồng chủ nhân, sự sẵn có của nguồn lực con người cũng như các kế
hoạch khả thi của các nhà hoạch định chính sách. Theo tác giả, các yếu tố này có vị
thế quan trọng như nhau trong việc hình thành nên một mô hình du lịch sinh thái
bền vững mà ở đó, cả vấn đề phát triển kinh tế địa phương lẫn vấn đề bảo tồn thiên
nhiên được đảm bảo. Trong khi đó, Aga Iqrar Haroon (1999) nhấn mạnh tầm quan
trọng của các cộng đồng địa phương. Theo tác giả, du lịch sinh thái sẽ không có ý
nghĩa nếu không có vai trò của các cộng đồng này. Giống như lập luận của
Santhosh Thampi, để tăng cường vai trò của cộng đồng địa phương trong phát triển
du lịch sinh thái, vấn đề sở hữu của các cộng đồng đối với các hoạt động liên quan
đến mô hình du lịch này phải được đặt lên hàng đầu.

Một khía cạnh quan trọng khác đối với sự phát triển bền vững của du lịch sinh
thái được các nhà nghiên cứu quan tâm là vấn đề quản lý và luật lệ. Theo Jacobson,
và các cộng sự (1998, để vấn đề bảo tồn thiên nhiên được đảm bảo, đặc biệt là ở
những địa bàn có sự phát triển mạnh của loại hình du lịch này, các quy định, chế tài
về vai trò và trách nhiệm của các công ty tổ chức triển khai hoạt động du lịch sinh
thái phải được thực hiện một cách bài bản và chặt chẽ. Một trong những gợi ý có
tính khả thi liên quan đến việc thúc đẩy trách nhiệm của các tổ chức khai thách du
lịch sinh thái là việc đánh giá mức độ tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường
của các tổ chức có liên quan. Chẳng hạn, có thể công khai cho công chúng biết tên
các cộng ty, khách sạn, tổ chức tuân thủ tốt hoặc không tốt các quy định do các nhà
chức trách đặt ra. Đây được coi là cách làm hữu hiệu bởi nó đánh vào vấn đề
thương hiệu của các tổ chức. Ngoài vấn đề về bảo vệ môi trường, sự đóng góp của

3


các tổ chức, công ty đối với cộng đồng chủ nhân cũng nên được kiểm soát, đánh giá
định kỳ và sau đó là công khai để khách du lịch có thông tin trong việc lựa chọn
công ty, tổ chức du lịch nào phù hợp. Để thúc đẩy vai trò và trách nhiệm trong bảo
vệ môi trường và đóng góp vào sự phát triển kinh tế địa phương, một vài quốc gia
đã vận hành hệ thống "Giẩy chứng nhận du lịch sinh thái". Ví dụ, ở Costa Rica,
chứng chỉ "Du lịch sinh thái bền vững" (CST) sẽ được cấp cho các công ty làm tổt
việc bảo vệ môi trường và đóng góp vào sự phát triển kinh tế cho các cộng đồng sở
tại. Loại chứng chỉ này tập trung đánh giá sự tương tác giữa công ty và các nguồn
lực văn hoá và tự nhiên, đánh giá sự đóng góp vào việc cải thiện chất lượng cuộc
sống cho các cộng đồng và trong một cộng đồng cũng như đánh giá mức độ đóng
góp của công ty đó cho sự phát triên kinh tế của vùng và quốc gia nói chung. CST
cũng đánh giá mức độ một công ty du lịch đóng góp vào việc giáo dục về ý nghĩa
của thiên nhiên cho khách du lịch của họ.
Ở Việt Nam, Du lịch sinh thái cũng được một số nhà nghiên cứu quan tâm,

tìm hiểu đó là:
- Đề tài khoa học năm 2012 “Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch cộng
đồng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” của tác giả Chu Thị Thanh Hiền. Đề tài này đã
nghiên cứu những điều kiện về xây dựng và phát triển du lịch cộng đồng, trên cơ sở
đó tìm hiểu và đánh giá khái quát về hiện trạng và tiềm năng phát triển du lịch cộng
đồng ở tỉnh Phú Thọ; phân tích mặt thuận lợi và thách thức trong quá trình thực
hiện du lịch cộng đồng trên địa bàn tỉnh và hiệu quả của nó về kinh tế xã hội mang
lại. Đây là luận cứ mà đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác, phát huy tiềm
năng phát triển du lịch cộng đồng ở tỉnh Phú Thọ. Dù vậy, đề tài này vẫn chưa đưa
ra được các giải pháp chiến lược và cụ thể nhằm phát huy tiềm năng du lịch cộng
đồng.
- Đề tài khoa học năm 2012 “Nghiên cứu, kết nối du lịch Phú Thọ với các
tuyến du lịch vùng Tây Bắc mở rộng” của tác giả Phùng Quốc Việt. Đề tài nghiên
cứu này đã góp phần chỉ ra cơ sở lí luận và thực tiễn về du lịch và du lịch liên vùng,
phân tích thực trạng du lịch của tỉnh Phú Thọ và vùng Tây Bắc mở rộng (Điện Biên,

4


Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Hòa Bình, Lào Cai và Hà Giang), đề xuất một số định
hướng và các giải pháp thúc đẩy du lịch tỉnh Phú Thọ kết nối với du lịch vùng Tây
Bắc mở rộng; thiết kế bản đồ các tuyến giao thông kết nối (đường bộ, đường thủy,
đường hàng không, đường sắt). Tuy vậy, kết quả đề tài này còn chưa đánh giá được
cụ thể về mặt hạn chế, tồn tại trong phát triển du lịch địa bàn tỉnh Phú Thọ và các
tỉnh Tây Bắc, nhằm đề xuất giải pháp khắc phục để phát triển du lịch bền vững.
- Trần Đức Thanh, “Cơ sở khoa học trong việc thành lập các bản đồ phục vụ
quy hoạch du lịch cấp tỉnh ở Việt Nam (Lấy ví dụ ở Ninh Bình)”. Luận án PTS, Hà
Nội 1995- 170 trang.
- Vũ Tuấn Cảnh (Chủ trì) “Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam”. Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp nhà nước 1998-2000. (Tài liệu lưu trữ tại viện nghiên cứu phát

triển du lịch. Tổng cục du lịch Việt Nam.)
- Trần Quốc Nhật, “Quản lý nhà nước về du lịch trong giai đoạn phát triển
mới của nền kinh tế Việt Nam”, luận án thạc sỹ kinh tế,1996.
- Lê Thạc Cán “Đánh giá tác động môi trường - phương pháp luận, kinh
nghiệm thực tiễn.” Nxb KH và KT, Hà Nội 1994.
- Phạm Trung Lương “Đánh giá tác động môi trường trong phát triển du lịch
của Việt Nam”. Tuyển tập báo cáo hội thảo lần thứ nhất về “đánh giá tác động môi
trường” Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia, Hà nội 6-7/6/1997.
- Phan Trung Lương, “Cơ sở khoa học phát triển du lịch sinh thái Việt Nam.”
Báo cáo đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội, 1998
- Tổng cục du lịch Việt Nam “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai
đoạn 2001-2010” tháng 10/2001.
- Và một số công trình khoa học, bài viết khác.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các bài viết trên chỉ đề cập đến vấn
đề du lịch dưới các góc độ và phạm vi rộng hẹp khác nhau. Chưa có công trình nào
đi sâu nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về phát triển du lịch sinh thái ở Nông
Sơn. Đề tài: “Thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” không trùng lắp với bất cứ luận văn hoặc đề

5


tài khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Lập luận cứ khoa học và đề xuất những phương hướng và các giải pháp chủ
yếu thúc đẩy chính sách phát triển du lịch sinh thái ở Nông Sơn tương xứng với
tiềm năng sẵn có của huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về du lịch sinh thái và thực hiện chính

sách phát triển du lịch sinh thái.
- Nghiên cứu làm rõ thực tiễn thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái
ở Nông Sơn, tìm hiểu những hạn chế còn tồn tại cần giải quyết.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp thúc đẩy chính sách phát triển du
lịch sinh thái ở Nông Sơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu du lịch sinh thái trên địa bàn huyện Nông Sơn,
tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng 3 phương pháp nghiên cứu
chính, bao gồm: Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu, phương pháp điền dã
và phương pháp đánh giá.
Phương pháp phân tích và tổng hợp, được sử dụng để thu thập, phân tích và
khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm
các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, Bộ ngành ở
Trung ương và địa phương; các đề tài nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của
chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, người dân liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp tới vấn đề thực hiện chính sách phát triển, khai thác tiềm năng du lịch sinh thái,
tâm linh huyện Nông Sơn. Đồng thời, thu thập các các số liệu của các tổ chức liên
quan đến đề tài trong thời gian qua.
Phương pháp khảo sát thực địa: Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi

6


đã tiến hành điều tra nhu cầu về du lịch sinh thái tại Nông Sơn của khách du lịch
nội địa, cũng như các nhà quản lý và thực thi chính sách ở địa bàn. Ngoài ra chúng
tôi cũng phỏng vấn một số người dân bản địa về khả năng cũng như nhu cầu tham
gia vào các chương trình, dự án du lịch sinh thái tại cơ sở.
Phương pháp đánh giá: Đề tài đã sử dụng phương pháp chính sách công, văn

hóa học; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích tổng hợp và phương pháp
tổng kết thực tiễn để đánh giá phát triển du lịch sinh thái là ngành kinh tế mũi nhọn
trên địa bàn huyện Nông Sơn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt khoa học, cung cấp thêm một nghiên cứu trường hợp về các vấn đề
liên quan đến sự phát triển của du lịch sinh thái, ở cả khía cạnh quản lý, vận hành và
tính bền vững của nó, các chủ đề được thảo luận rộng rãi trong các nghiên cứu gần
đây trên thế giới. Kết quả nghiên cứu của luận văn, về ý nghĩa thực tiễn, cung cấp
cơ sở khoa học giúp tìm hiểu về các dịch vụ du lịch sinh thái, chất lượng các dịch
vụ du lịch sinh thái ở khu du lịch Nông Sơn, với những thuận lợi và hạn chế. Trên
cơ sở đó, đề ra những giải pháp để phát huy những lợi thế, khắc phục khó khăn
trong dịch vụ du lịch và chất lượng dịch vụ du lịch sinh thái góp phần thúc đẩy khu
du lịch sinh thái Nông Sơn hoạt động chuyên nghiệp, toàn diện và phát triển được
bền vững, lâu dài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
làm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du lịch
sinh thái.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện chính sách du lịch sinh thái của huyện Nông
Sơn thời gian qua.
Chương 3: Đề xuất các giải pháp thúc đẩy chính sách phát triển du lịch sinh
thái huyện Nông Sơn giai đoạn 2019- 2025.

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DU LỊCH SINH THÁI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát

triển của du lịch sinh thái
1.1.1. Khái niệm du lịch sinh thái
Cho đến nay, du lịch sinh thái đã và đang phát triển nhanh chóng ở nhiều quốc
gia trên thế giới và ngày càng thu hút được sự quan tâm rộng rãi của các tầng lớp xã
hội, đặc biệt là đối với những người có nhu cầu tham quan du lịch và nghỉ ngơi.
Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng
đồng, sự phát triển du lịch sinh thái đã và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to
lớn, tạo cơ hội giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập quốc gia và thu nhập cho
cộng đồng dân cư địa phương, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, nơi có cảnh quan
thiên nhiên, văn hóa hấp dẫn. Mặt khác, DLST còn góp phần vào việc nâng cao dân
trí và sức khoẻ cộng đồng thông qua giáo dục môi trường, văn hóa, lịch sử và nghỉ
ngơi giải trí. Là loại hình du lịch có xu thế phát triển nhanh trên phạm vi toàn thế
giới, DLST ngày càng nhận được sự quan tâm của nhiều người, nhiều quốc gia, bởi
đây là loại hình du lịch có trách nhiệm, có ảnh hưởng lớn đến việc “xanh hoá”
ngành du lịch thông qua các hoạt động nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường,
phát triển phúc lợi cộng đồng và đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Do tạo được sự quan tâm của xã hội nên nhiều tổ chức, cá nhân tham gia
nghiên cứu về loại hình du lịch này. Mỗi tổ chức, cá nhân khi nghiên cứu đều đưa ra
những định nghĩa của riêng mình:
- Một trong những định nghĩa được coi là sớm về du lịch sinh thái mà đến nay
vẫn được nhiều người quan tâm là định nghĩa của Hội Du lịch Sinh thái Quốc tế đưa
ra năm 1991: “Du lịch Sinh thái là loại hình du lịch có trách nhiệm đối với các vùng
tự nhiên, bảo vệ môi trường và duy trì cuộc sống yên bình của người dân địa
phương” [6, tr.11].
Định nghĩa nhấn mạnh đến trách nhiệm của du khách đối với khu vực mà họ

8


đến thăm đó là trách nhiệm giữ gìn, tôn tạo, tránh sự ảnh hưởng tiêu cực đến môi

trường tự nhiên, hệ sinh thái và cả cuộc sống của cư dân địa phương.
- Theo quỹ bảo tồn động vật hoang dã (WWF - World Wild Fund): "Du lịch
sinh thái đề cập tới các hoạt động du lịch đi tới các khu vực thiên nhiên hoang dã,
gây tác động tối thiểu tới môi trường tự nhiên và cuộc sống của các loài động thực
vật hoang dã trong khi mang lại một số lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương và
những người bản địa phục vụ tại đó" [6, tr.11].
Ở định nghĩa này cũng đề cập đến địa điểm có thể tổ chức các tuor du lịch sinh
thái, đó là các khu vực tự nhiên hoang dã, và điều quan trọng là giảm thiểu những
tác động tiêu cực tới môi trường tự nhiên và đặc biệt là mang lại những lợi ích kinh
tế cho cộng cư dân địa phương và những người bản địa làm việc trực tiếp trong
ngành du lịch.
- Theo tổ chức du lịch thế giới (WTO - World Tourism Organisation): Du lịch
sinh thái là loại hình du lịch được thực hiện tại những khu vực tự nhiên còn ít bị can
thiệp bởi con người, với mục đích để chiêm ngưỡng, học hỏi về các loài động thực
vật cư ngụ trong khu vực đó, giúp giảm thiểu và tránh được các tác động tiêu cực
tới khu vực mà du khách đến thăm. Ngoài ra, DLST phải đóng góp vào công tác
bảo tồn những khu vực tự nhiên và phát triển những khu vực cộng đồng lân cận một
cách bền vững đồng thời phải nâng cao được khả năng nhận thức về môi trường và
công tác bảo tồn đối với người dân bản địa và du khách đến thăm [6, tr.11].
Có thể nói, đây là một định nghĩa đầy đủ nhất nội dung cũng như những đặc
điểm của DLST, đó là địa điểm để tổ chức được một tuor du lịch, mục đích chuyến
đi của du khách đặc biệt là việc giáo dục và nâng cao nhận thức cho du khách cùng
với nó là trách nhiệm của các tổ chức cũng như du khách trong việc bảo tồn giữ gìn
môi trường tự nhiên và môi trường văn hoá để đảm bảo cho sự phát triển bền vững
ở những nơi mà du khách tới tham quan.
Tại hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển DLST tháng 9-1999 tại Hà
Nội: "Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn
với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự

9



tham gia tích cực của cộng đồng địa phương" [36, tr. ].
Có thể nói, đây là một định nghĩa đầu tiên của Việt Nam về du lịch sinh thái,
mang đầy đủ những ý nghĩa và nội dung của loại hình du lịch này. Đây được coi là
cơ sở lý luận cho các nghiên cứu và ứng dụng thực tế việc phát triển du lịch sinh
thái ở Việt Nam.
Mặc dù có thể có sự khác nhau về diễn đạt và cách thể hiện nhưng trong các
định nghĩa về DLST đều có sự thống nhất cao về nội dung ở bốn điểm:
Thứ nhất, phải được thực hiện trong môi trường tự nhiên còn hoang sơ hoặc
tương đối hoang sơ gắn với văn hoá bản địa.
Thứ hai, có khả năng hỗ trợ tích cực cho công tác bảo tồn các đặc tính tự
nhiên, văn hoá và xã hội.
Thứ ba, có tính giáo dục môi trường cao và có trách nhiệm với môi trường.
Thứ tư, phải mang lại lợi ích cho cư dân địa phương và có sự tham gia của
cộng đồng cư dân địa phương.
Ngày nay, người ra rất hay sử dụng thuật ngữ du lịch sinh thái để giới thiệu,
quảng bá cho các điểm du lịch, tuor du lịch, bởi vậy khi xem xét, đánh giá chúng ta
cần phải dựa vào các đặc trưng của mỗi loại hình du lịch để có thể phân biệt đúng
về hoạt động du lịch đó là du lịch sinh thái hay là du lịch dựa vào thiên nhiên vì các
loại hình này có hình thức tương đối giống nhau, nếu không hiểu rõ bản chất người
ta sẽ dễ bị nhầm lẫn.
1.1.2. Phân biệt du lịch sinh thái với một số loại hình du lịch tương tự
* Phân biệt DLST với du lịch tự nhiên (nature tourism):
Du lịch tự nhiên, theo tổ chức du lịch thế giới (WTO) là loại hình du lịch với
động cơ chính của khách du lịch là quan sát và cảm thụ tự nhiên. Trong khi DLST
đòi hỏi tính trách nhiệm cao đối với môi trường và cộng đồng cư dân địa phương.
* Phân biệt DLST với du lịch mạo hiểm (adventure tourism):
Theo tổ chức du lịch Quebec (Canada): Du lịch mạo hiểm là hoạt động thể
chất ngoài trời hoặc các hoạt động kết hợp diễn ra tại một khu vực tự nhiên nhất

định (khu vực hoang dã, tách biệt hoặc đặc thù…). Những hoạt động này thường có

10


tính mạo hiểm và mức độ rủi ro tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường. Loại hình du
lịch mạo hiểm để chứng tỏ khả năng chinh phục tự nhiên của con người, nên nó
hoàn toàn khác với DLST. Vì DLST đi tìm sự hoà hợp, cùng chung sống hài hoà
giữa con người với thiên nhiên.
* Phân biệt DLST với các loại hình du lịch có chọn lựa (alternative tourism):
Du lịch có chọn lựa nhằm thúc đẩy sự trao đổi thông qua du lịch giữa các
thành viên của các cộng đồng khác nhau. Nó tìm kiếm sự hiểu biết, gắn kết và bình
đẳng giữa các thành viên tham gia trong đó. Các loại hình du lịch lựa chọn ra đời
một mặt nhằm thoả mãn đúng hơn các mong muốn của người tiêu dùng du lịch. Với
ý nghĩa này, DLST thực chất là một trong những loại hình du lịch lựa chọn.
1.1.3. Đặc điểm của du lịch sinh thái
Thứ nhất, DLST được thực hiện tại những nơi hoang sơ hoặc tương đối hoang
sơ và có môi trường tự nhiên đa dạng phong phú.
Những nơi có môi trường tự nhiên đa dạng phong phú gắn với bề dày thời
gian về sự hình thành và phát triển của các hệ động thực vật và con người. Để có
thể làm được DLST phải là nơi có tài nguyên tự nhiên dồi dào, mà cụ thể là các hệ
sinh thái được làm giàu bởi rất nhiều các loài động thực vật khác nhau. Những yếu
tố từ cây cối, nguồn nước, bầu khí quyển, đất đai cũng được tính đến. Điểm chú ý là
môi trường tự nhiên còn tương đối nguyên sơ, chưa bị hoặc ít bị can thiệp bởi con
người và chúng được hiện hữu dưới hình thức là các vườn quốc gia, các khu dự trữ
thiên nhiên hay các khu vực văn hóa lịch sử có gắn với không gian và tài nguyên
thiên nhiên phong phú. Trong DLST đề ra một nguyên tắc bất dịch: “hãy để thiên
nhiên như nó vốn đã thế”, đó là quyết định thông minh nhất trong thỏa thuận cùng
tồn tại giữa con người và thế giới tự nhiên. Như vậy, DLST thường được thực hiện
ở các khu bảo tồn tự nhiên, các vườn quốc gia, ở những nơi có mật độ dân số thấp

và tài nguyên thiên nhiên phong phú, ở những khu vực có giá trị cao về môi trường
tự nhiên như: hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh học cao và cuộc
sống hoang dã phong phú.
Thứ hai, du lịch sinh thái hỗ trợ tích cực cho công tác bảo tồn các đặc tính tự

11


nhiên, văn hóa, xã hội tại điểm tham quan.
Các nhà kinh doanh DLST ngoài việc phải quan tâm nuôi dưỡng, quản lý chặt
chẽ nguồn tài nguyên để nó tồn tại và hấp dẫn du khách, họ phải đóng góp tài chính
cho chính quyền sở tại, những cơ quan quản lý các tài nguyên từ những khoản lợi
nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh du lịch của mình. Những nguồn tài chính
này làm tăng thêm ngân sách cho các khu vực nơi tổ chức hoạt động DLST để bù
đắp cho các khoản chi phí như: quản lý, trồng thêm cây xanh, tôn tạo, trùng tu…
Bên cạnh đó, những tiêu chí và đòi hỏi cao hơn của DLST đối với công tác bảo vệ
môi trường, giữ gìn các hệ sinh thái khiến các nhà kinh doanh du lịch sinh thái phải
chuẩn bị kỹ lưỡng và đưa ra những yêu cầu cao hơn đối với những hướng dẫn viên
và với các khách du lịch mà mình phục vụ.
Du khách của loại hình DLST thường là những người yêu mến, thân thiện với
thiên nhiên, họ muốn đi du lịch là để được tìm hiểu và nghiên cứu những nơi họ
đến. Những hoạt động nghiên cứu, khám phá, tổng hợp của họ ít nhiều cũng có
những đóng góp và giúp ích cho công tác bảo tồn các đặc tính tự nhiên, văn hoá, xã
hội nơi họ đến tham quan. Những du khách khi đến tham quan Nông Sơn họ có thể
nghiên cứu như Lăng Bà Thu Bồn nằm bên tả ngạn dòng Thu Bồn ở thôn Trung An
(xã Quế Trung), suối nước nóng Tây Viên (xã Sơn Viên), làng nghề chế tác trầm
cảnh (xã Quế Trung), di tích Chiến thắng Nông Sơn – Trung Phước (Quế Trung),
thủy điện Khe Diên, mỏ than Nông Sơn, Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voi…, mới
thấy hết vẻ đẹp riêng về tự nhiên nơi vùng đất đầu nguồn Thu Bồn non nước hữu
tình và những giá trị văn hóa – lịch sử nơi đây … hay du khách khi đi thăm quan về

làng Đại Bình, nơi được mệnh danh là làng Nam Bộ thu nhỏ giữa đất miền Trung.
Đường làng Đại Bình xanh um, có hàng rào trồng bằng chè tàu hay sen núi xanh
mướt được cắt tỉa đẹp mắt. Dải đất của làng ôm trọn thành một “ốc đảo” quanh năm
xanh tốt. Các tổ chức, cá nhân sau khi tham gia vào các tour DLST họ được tận mắt
chứng kiến cảnh quan môi trường, tài nguyên thiên nhiên nơi họ đến thăm và đặc
biệt được giáo dục, được hiểu biết thêm về môi trường và tầm quan trọng của hệ
sinh thái họ có thể đóng góp các nguồn lực tài chính, hỗ trợ về mặt kiến thức khoa

12


học, kinh nghiệm quản lý cho các rừng quốc gia, các khu dự trữ thiên nhiên phục vụ
cho du lịch sinh thái.
Cư dân địa phương có thu nhập từ việc tham gia du lịch sinh thái, từ đó sẽ hạn
chế việc khai thác tài nguyên mang tính tiêu cực như: săn bắn động vật quý hiếm,
chặt cây đốn củi, phá rừng làm rẫy… gây ảnh hưởng xấu tới các loài động, thực vật
có giá trị về thẩm mỹ và kinh tế cũng như môi trường sống xung quanh họ.
Thứ ba, các hoạt động mang tính giáo dục, giảng giải nâng cao nhận thức về hệ
sinh thái và môi trường sống là nội dung quan trọng của Du lịch sinh thái.
DLST là một phương tiện tốt để truyền đạt thông tin vì nó có khả năng đưa
con người tiếp cận trực tiếp và thấy rõ vai trò của thiên nhiên đối với đời sống con
người. DLST đẩy mạnh các hoạt động mang tính giáo dục về các hệ sinh thái và môi
trường sống. Các hoạt động giáo dục này bao gồm việc giảng giải về lịch sử, nguồn
gốc hình thành, tập quán sinh hoạt, mối quan hệ tương tác qua lại giữa các loài động
thực vật và vai trò của chúng trong thiên nhiên. DLST hướng dẫn cách thức để những
người làm du lịch và khách du lịch tiến hành hoạt động du lịch đúng cách với thái độ
trân trọng, giữ gìn và bảo vệ môi trường sống. Các hoạt động giáo dục, chỉ dẫn cách
thức du lịch đúng đắn mà DLST thực hiện từ nhiều cách: phương pháp hướng dẫn,
thuyết minh trực tiếp từ hướng dẫn viên tới khách du lịch, các tờ giới thiệu, tờ bướm
thông tin về du lịch, các mô hình, mô phỏng, các phương tiện nghe nhìn.

Thứ tư, dựa vào việc khai thác tiềm năng tự nhiên và nhân văn du lịch sinh
thái mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư bản địa.
Khi du lịch phát triển và mở rộng, nhiều địa phương đã thoát khỏi cảnh đói
nghèo, người dân được tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng như:
Điện thắp sáng, đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước và thông tin liên lạc...
Đối với DLST, những lợi ích được nó mang lại là khơi dậy và đánh thức những tiềm
năng sẵn có để qua đó mang lại thu nhập đáng kể cho cư dân địa phương bằng các
hoạt động dịch vụ du lịch như: phục vụ lưu trú, ăn uống, bán hàng lưu niệm và các
dịch vụ bổ trợ khác. Đồng thời, DLST luôn quan tâm đến việc tôn tạo cảnh quan
thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái để phát triển bền vững chính những hoạt

13


động này đảm bảo cho hệ thống rừng cây, hệ động thực vật được bảo đảm, làm
giảm thiểu sự tác động của thiên nhiên đến đời sống của người dân bản địa như hạn
chế được xói mòn, lũ quét và những thiên tai địch họa khác.
Những người làm DLST đã nhận ra vấn đề, thấy được chính những người dân
bản địa, họ sinh ra và tồn tại cùng với các hệ sinh thái và môi trường thiên nhiên
xung quanh từ bao đời lại có được kiến thức truyền thống văn hoá quý giá của cha
ông họ để lại về thiên nhiên và môi trường xung quanh, họ có văn hóa, phong tục
tập quán riêng của dân tộc mình. Do đó, phải quan tâm đến lợi ích của người dân
bản địa là nhân tố động lực quan trọng thúc đẩy phát triển DLST bền vững.
Một biện pháp mà DLST góp phần mang lại các lợi ích kinh tế, phát huy các
giá trị văn hóa và xã hội của những người dân bản địa là: sử dụng những người dân
bản địa làm các hướng dẫn viên du lịch tại những khu DLST. Khuyến khích người
dân gìn giữ và phát triển những nghề truyền thống của mình như dệt thổ cẩm, thêu
ren, làm hàng thủ công mỹ nghệ, trồng các loại cây đặc sản của địa phương… để
khách du lịch được chiêm ngưỡng, học hỏi và mua sắm các sản phẩm nơi họ đến
tham quan. Các lễ hội, phong tục tập quán cần được gìn giữ và phát huy vì đó là

những nét đặc trưng riêng của vùng sinh thái du lịch, là điểm nhấn để thu hút khách
tham quan. DLST giúp người dân bản địa chủ động làm kinh tế cùng với việc gìn
giữ bản sắc văn hóa của mình bằng việc cung ứng dịch vụ lưu trú trong hành trình
của khách du lịch. Rất nhiều điểm DLST người ta tổ chức cho khách lưu trú ngay
trong nhà dân, du khách được ăn cùng mâm, ngủ cùng nhà với người dân địa
phương, thậm chí còn tham gia vào một số công đoạn sản xuất hàng hoá truyền
thống của địa phương, được thưởng thức các món ăn, tìm hiểu phong tục, tập quán
lối sống cũng như sinh hoạt của cư dân; tiêu chí của DLST là khai thác tối đa
nguyên liệu sẵn có tại địa phương để tạo ra dịch vụ và hàng hóa phục vụ khách du
lịch chính những nguyên liệu địa phương cùng với các sản phẩm đặc thù là những
nguyên nhân làm hấp dẫn du khách. Theo đó DLST đã mang lại nhiều lợi ích cho
người dân địa phương.

14


1.1.4. Ý nghĩa của phát triển du lịch sinh thái
Góp phần bảo vệ tài nguyên môi trường và phát triển du lịch bền vững.
Góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương.
Góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông
thôn theo hướng tiến bộ.
Góp phần bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển du lịch sinh thái ở Nông Sơn
* Nhận thức của xã hội:
Du lịch và DLST được quan tâm và phát triển đúng với những gì mà nó vốn
có thì việc nhận thức và quan tâm đúng đắn là một vấn đề hết sức quan trọng.
Về mặt kinh tế, Nông Sơn là một trong những địa phương ở tỉnh Quảng Nam
có quy mô nền kinh tế còn nhỏ, phát triển kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây khá cao, trung bình giai đoạn 20082013 là 10,23%, giai đoạn 2013-2015 là 11,47%. Về du lịch (trong đó có DLST) đã
trở thành một trong những ngành quan trọng đóng góp vào phát triển. Phát triển du

lịch vừa đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng, vừa góp phần nâng cao
dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội. Nên hoạt động của DLST có mối
quan hệ tương tác đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Bản thân du
lịch mang lại rất nhiều lợi ích cho các địa phương đón khách. Về mặt xã hội, phát
triển du lịch và DLST sẽ tăng cường giao lưu, trao đổi sự hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc, các quốc gia… Như vậy để du lịch thực sự góp phần vào việc bảo vệ
thiên nhiên đòi hỏi phải có sự suy nghĩ và hành động đúng không những của những
người làm du lịch mà còn là toàn xã hội. Người dân, chính quyền địa phương và du
khách cần phải nhìn thấy những lợi ích của DLST có thể mang lại thông qua những
hoạt động và những cơ hội mà loại hình du lịch này tạo nên mà mục tiêu cơ bản của
DLST là phát triển bền vững. Nghĩa là: "Đảm bảo đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà
không làm cản trở đến việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai" [12].
Sẽ rất có tác dụng nếu như các đối tượng sau đây được tuyên truyền hiểu biết
và nhận thức sâu sắc về DLST: Những nhà lập kế hoạch và đầu tư; những các tổ

15


chức quản lý ở các khu bảo tồn, khu dự trữ sinh quyển…; các cán bộ điều hành của
các công ty du lịch; các hướng dẫn viên du lịch, nhân viên khách sạn, nhà hàng; cư
dân địa phương; khách du lịch.Đồng thời, để tạo điều kiện và kích thích loại hình du
lịch này phát huy tác dụng của nó, vấn đề giáo dục cộng đồng sẽ góp phần hỗ trợ các
mối quan hệ tích cực hai chiều của DLST và bảo tồn tự nhiên cũng như DLST và
cộng đồng địa phương. Cần phải làm cho tất cả các thành phần trong xã hội nhất là cư
dân địa phương hiểu được những tác động tích cực của DLST đến địa phương.
* Tài nguyên:
Tài nguyên của DLST gồm: tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Hai
yếu tố này gắn kết nhau tạo nên sự hấp dẫn của DLST.
Cảnh quan thiên nhiên, vùng núi có phong cảnh đẹp, các hang động, di tích
lịch sử, di tích văn hoá, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con

người, các di tích tự nhiên, các vùng khí hậu đặc biệt, các điểm nước khoáng, suối
nước nóng, hệ sinh vật, các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các hệ sinh thái
độc đáo, môi trường văn hóa bản địa… Đó là các yếu tố tạo ra sự hấp dẫn và hình
thành các điểm du lịch, khu DLST. Môi trường, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên
nhân văn càng phong phú càng hấp dẫn sẽ thu hút khách tham quan nhiều hơn.
Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức hoạt động, lãnh thổ cũng
như cơ cấu và chuyên môn của khu, điểm du lịch sinh thái. Với mỗi loại tài nguyên
có thể tổ chức loại hình du lịch với những đặc trưng riêng, loại hình riêng để phục
vụ các nhu cầu và mục đích khác nhau của du khách. Tài nguyên du lịch được xem
là tiền đề để phát triển du lịch sinh thái. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng
phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch
càng cao bấy nhiêu. DLST, loại hình du lịch gắn liền với thiên nhiên và môi trường
nên nguồn tài nguyên lại càng quan trọng hơn và cũng có nguy cơ thường xuyên bị
đe doạ xâm hại và tàn phá. Muốn phát triển DLST một cách bền vững thì một hoạt
động mang tính nguyên tắc là việc khai thác phải đi đôi với việc bảo vệ và nuôi
dưỡng tài nguyên, đảm bảo nguyên tắc sức chứa.
* Dân cư và lao động trong lĩnh vực du lịch sinh thái:

16


Dân số huyện Nông Sơn có 32.026 người (nam 16.072 người, nữ 15.954
người). 100% dân số sống ở khu vực nông thôn. Trong DLST, số lượng dân cư và
chất lượng lao động vừa ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, vừa ảnh hưởng tới
môi trường sinh thái. Hệ sinh thái, môi trường tự nhiên sẽ rất dễ bị phá vỡ nếu mật
độ dân cư quá đông, trình độ dân trí thấp.
Với DLST, sự tham gia của cư dân địa phương đóng một vai trò quan trọng.
Thực tế mối quan hệ giữa người dân bản địa và các tài nguyên thiên nhiên có lịch sử
gắn bó lâu đời. Ở nhiều nơi người dân địa phương sử dụng tài nguyên thiên nhiên
như một kế sinh nhai của mình và họ biết cách để bảo vệ, kiểm soát việc sử dụng tài

nguyên thiên nhiên để tránh đi tình trạng tàn phá tài nguyên. Nên ngoài kiến thức
chuyên môn nghiệp vụ về du lịch, yếu tố quan trọng đối với một điểm DLST thành
công hay không còn phụ thuộc vào lao động làm việc ở các đơn vị này có am hiểu
về môi trường sinh thái, có hiểu biết sâu rộng về hệ sinh thái động thực vật hy
không cũng như khả năng MC thuyết minh giảng giải cho khách tham quan.
* Môi trường luật pháp và cơ chế chính sách:
Xây dựng cơ chế, chính sách về quản lý một cách đồng bộ, khuyến khích việc
khai thác các tiềm năng DLST đặc biệt là ở các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
thiên…phải được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp lý, từ các cơ quan quản lý nhà
nước như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài chính, Tổng cục Du
lịch…Thực tế, mặc dù nhiều nước, nhiều quốc gia vùng lãnh thổ có tiềm năng rất
lớn về DLST nhưng sự nhìn nhận của các cấp lãnh đạo, những nhà hoạch định
chính sách và đầu tư chưa thật sự sâu sắc, từ đó không có cơ chế, chính sách thích
hợp để quy hoạch, tập trung đầu tư để phát triển du lịch do đó đã làm lãng phí
nguồn tài nguyên thậm chí có thể bị lãng quên hoặc bị tàn phá do không có cơ quan
đơn vị hay người quản lý các nguồn tài nguyên đó.
Để DLST phát triển thì việc nhận ra thế mạnh và phát huy nó là một vấn đề cần
được quan tâm. Vấn đề này chỉ được giải quyết khi các nhà hoạch định chính sách,
các cấp quản lý nhận thức rõ và đưa ra cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển. DLST
chỉ phát triển khi nó có được một cơ chế chính sách hợp lý và pháp luật đồng bộ. Đó

17


là nghiên cứu quy hoạch, đầu tư và khuyến khích đầu tư, cơ chế xúc tiến quảng bá, cơ
chế phối hợp và phân chia một cách hài hòa lợi ích giữa người dân địa phương với
các cơ quan quản lý, các công ty lữ hành. Cơ chế mà qua đó hoạt động DLST tạo
điều kiện cho người dân địa phương (có việc làm và thu nhập mà lợi ích của nó mang
lại) sẽ nâng cao ý thức người dân trong bảo vệ môi trường, gìn giữ phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc. Các cơ chế chính sách và luật pháp cần hướng tới, đó là:

- Khuyến khích phát triển các nguồn lực du lịch về phương diện sức hấp dẫn
thiên nhiên cũng như các điểm lịch sử, khảo cổ và văn hóa, chú trọng đến chất
lượng cùng với hệ thống thông tin có hiệu quả và có nhận thức về khả năng thu xếp
nơi nghỉ cho du khách.
- Có sự điều phối để tạo ra sự hợp tác giữa tất cả các bên liên quan, nhấn mạnh
đến việc thúc đẩy tinh thần trách nhiệm đối với hệ sinh thái và việc tổ chức các tour
sẽ không gây thiệt hại hay huỷ hoại môi trường.
- Xây dựng nhận thức về loại hình du lịch mà có góp phần vào sự nghiệp bảo
tồn và có sự hoàn trả thích hợp cho hệ sinh thái.
- Triển khai lập kế hoạch, cải tiến và xây dựng nguyên tắc và quy định, tổ
chức, quản lý hiệu quả du lịch sinh thái, từ đó có thể tạo nên sự hợp tác và giúp đỡ
lẫn nhau giữa Chính phủ, khối tư nhân và người dân địa phương.
- Có chính sách, cơ chế động viên cộng đồng địa phương tham gia trực tiếp
vào quá trình và thu được lợi ích từ du lịch.
* Hoạt động xúc tiến quảng bá:
Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá là một khâu quan trọng trong quá trình phát
triển và xây dựng thương hiệu, hình ảnh của một sản phẩm hay điểm đến. Đối với
DLST, việc tuyên truyền quảng bá và hoạt động xúc tiến thương mại lại còn quan
trọng hơn để du khách biết đến qua các kênh thông tin, các hoạt động quảng bá và xúc
tiến thương mại. Chương trình quảng bá, xúc tiến là phải là làm thế nào khuyến khích
du khách có ấn tượng và mong muốn được đi du lịch theo hình thức DLST.
Có rất nhiều hình thức quảng bá hữu hiệu, nhưng tiết kiệm và hiệu quả nhất
đó là việc quảng bá trực tiếp ngay tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch. Hơn

18


nữa, dịch vụ DLST nó chỉ xuất hiện khi có khách hàng, du khách đến sử dụng,
tham quan… Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học - kỹ thuật, sự
phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin, do đó có rất nhiều hình thức

quảng bá xúc tiến phát triển du lịch. Việc xây dựng, duy trì và nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ, môi trường cảnh quan thiên nhiên độc đáo hay thái độ
phục vụ, hành vi ứng xử có văn hóa của nhân viên phục vụ, cộng đồng dân cư địa
phương đó là những phương thức quảng bá hữu hiệu nhất.
* Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ DLST là toàn bộ phương tiện vật chất tham gia
vào việc tạo ra và thực hiện dịch vụ hàng hoá du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của
khách du lịch. Với DLST nó bao gồm các hoạt động nhằm cung cấp các sản phẩm,
dịch vụ đáp ứng nhu cầu đi lại, ăn uống, lưu trú, mua sắm, giải trí, thông tin liên lạc,
các hoạt động giảng giải, hướng dẫn, nghiên cứu thiên nhiên và văn hoá… của khách
du lịch. Vì vậy phạm vi hoạt động kinh doanh rất rộng, bao gồm hệ thống các cơ sở lưu
trú du lịch, nhà hàng, các điểm vui chơi giải trí, cho đến hệ thống giao thông vận tải,
điện, nước, thông tin liên lạc… Cơ sở hạ tầng là những hấp dẫn thứ cấp bổ sung cho
tài nguyên thiên nhiên của khu du lịch. DLST thông qua các vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên… thường nằm ở vùng sâu, vùng xa, đi lại khó khăn, vì vậy cần thiết
phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để du khách đến được những điểm tham quan.
Tuy nhiên nếu việc quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng không hợp lý và khoa học
thì sẽ dễ dẫn đến phá vỡ cảnh quan môi trường. Vì vậy, việc lập quy hoạch xây
dựng cơ sở hạ tầng cho phù hợp, thân thiện với môi trường là quan trọng. Xây dựng
cơ sở vật chất đảm bảo cho việc cung cấp và làm thỏa mãn nhu cầu của khách tham
quan cũng đồng thời với việc đảm bảo cho phát triển bền vững là yêu cầu quan
trọng của DLST.
1.2. Một số cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh
thái
1.2.1. Một số khái niệm liên quan
Chính sách công luôn gắn liền với việc thực thi vai trò, chức năng của chính

19



quyền nhà nước. Theo đó, chính sách công là những hành động do nhà nước quyết
định lựa chọn nên làm hay không nên làm (quan niệm của E. Anderson). Chính sách
công là một giải pháp hành động hay không hành động của nhà nước để giải quyết
một vấn đề công cộng (Kraft and Furlong). Chính sách công còn được hiểu là sự tập
hợp các quyết định có liên quan với nhau được Nhà nước ban hành để lựa chọn giải
pháp hành động nhằm giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định.
Đối với tác giả xác định, chính sách công (theo nghĩa thông dụng) được hiểu
là những hành động ứng xử của Nhà nước thông qua các quyết định được lựa chọn
để giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống thực tiễn nhằm thúc đẩy xã hội
phát triển.
Như vậy, thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái là quá trình chuyển
hóa ý chí của chủ thể chính sách này tác động đến đối tượng thông qua tổ chức hoạt
động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hiện thực hóa mục tiêu xác định của
chính sách phát triển du lịch sinh thái trong thực tiễn cuộc sống theo nguyên tắc, và
trình tự thủ tục nhất định.
1.2.2. Chủ thế thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái
Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách là lực lượng đông đảo, bao gồm:
các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, hiệp hội, doanh nghiệp và
người dân hoặc các đối tượng của chính sách. Ngày nay trong bối cảnh hội nhập và
mở cửa, ngoài các chủ thể chủ yếu tham gia thực thi chính sách nêu trên, quá trình
thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái còn phải tính đến cả sự tham gia
của các đối tác là những tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ quốc tế, tổ chức phi
chính phủ. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, cùng với xu hướng xã hội hóa các hoạt động cung cấp dịch vụ, quá trình
thực thi chính sách phát triển du lịch sinh thái còn có sự tham gia tích cực của các
đối tác xã hội như: các doanh nghiệp, hiệp hội, người dân, tổ chức đào tạo, các tổ
chức nghiên cứu...
Dù rằng, có rất nhiểu chủ thể tham gia vào quá trình thực thi chính sách và
các chủ thể này có mối quan hệ tương tác với nhau trong quá trình thực hiện chính


20


sách; số lượng chủ thể và vai trò của từng chủ thề tham gia tùy thuộc vào từng
chính sách cụ thể và bốì cảnh của từng nước. Tuy nhiên, có thể nhóm các chủ thể
tham gia vào thực thi chính sách thành các nhóm sau: (1) Chủ thể thực thi là các
cơ quan nhà nước và nhân sự của các cơ quan đó - đây là chủ thể chịu trách nhiệm
thực hiện chính sách côn; (2) Chủ thể tham gia là các đối tác phi nhà nước (các
doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước); (3) Chủ thể tham gia
với tư cách là đối tượng thụ hưởng chính sách (các cộng đồng dân cư, các nhóm
dân số, thậm chí mọi người dân).
Trong số đó, chủ thể triển khai trước hết và quan trọng nhất là các cơ quan
hành chính nhà nước cùng với các công chức của các cơ quan này.
1.2.3. Quy trình thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái
Xuất phát từ vai trò quan trọng của sự chuyển hóa ý chí chủ thể chính sách
thành chương trình hành động thực tiễn, nên hệ thống các cơ quan nhà nước và
chính quyền địa phương các cấp cần chú trọng chỉ đạo công tác triển khai tổ chức
thực thi chính sách. Để tổ chức, điều hành có hiệu quả công tác thực hiện chính
sách phát triển du lịch sinh thái, cần tuân thủ các bước tổ chức thực hiện căn bản
dưới đây:
* Bước 1: Xây dựng chương trình kế hoạch tổ chức điều hành thực hiện chính
sách.
- Việc lập chương trình kế hoạch tổ chức điều hành chính sách phát triển du
lịch sinh thái phải bảo đảm về việc dự kiến cơ quan chủ trì, các cơ quan phối hợp
tổ chức thực hiện chính sách; số lượng và chất lượng đội ngũ nhân sự tham gia
triển khai thực hiện; dự kiến cơ chế trách nhiệm và giải trình của cán bộ quản lý
và công chức thực hiện chính sách; dự kiến các cơ chế tác động giữa các cấp
thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái.
- Xác định kế hoạch chi tiết về dự kiến các nguồn lực phục vụ như: cơ sở vật
chất kiến trúc, nguồn lực tài chính, trang thiết bị dụng cụ kỹ thuật để thực thi chính

sách; các vật tư văn phòng phẩm...
- Xác định thời gian tổ chức thực hiện như dự kiến: về thời gian duy trì hiệu

21


×