Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI bền VỮNG ở HUYỆN BA vì, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.99 KB, 106 trang )

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Du lịch sinh thái

DLST

Hiệp hội các nước Đông Nam Á

ASEAN

Khoa học - công nghệ

KH - CN

Kinh tế - xã hội

KT - XH

Nhà xuất bản

Nxb

Tổ chức thương mại thế giới

WTO



Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI

Trang
3

BỀN VỮNG Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
11
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về du lịch sinh thái bền vững
11
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển
du lịch sinh thái bền vững ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI
BỀN VỮNG Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
36
2.1. Thành tựu, hạn chế trong phát triển du lịch sinh thái bền vững
ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
36
2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra
cần giải quyết từ thực trạng phát triển du lịch sinh thái bền
vững ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
53

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
SINH THÁI BỀN VỮNG Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI
64
3.1. Quan điểm phát triển du lịch sinh thái bền vững ở huyện Ba Vì
Thành phố Hà Nội
64
3.2. Giải pháp phát triển du lịch sinh thái bền vững ở huyện Ba Vì
Thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

69
93
95
101


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch là một hoạt động xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử nhân loại.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, cho đến nay du lịch đã trở thành nhu
cầu không thể thiếu trong đời sống của con người. Đây là một trong những
ngành dịch vụ quan trọng, góp phần vào sự phát triển của nhiều quốc gia,
vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Một trong những loại
hình du lịch mới ra đời và chiếm được sự quan tâm ngày càng nhiều của xã
hội là du lịch sinh thái. Du lịch sinh thái chú trọng vào tài nguyên và nguồn
lực địa phương, chú trọng đến hoạt động bảo tồn và đảm bảo phát triển
cộng đồng dân cư địa phương, điều này làm cho du lịch sinh thái được

nhiều nước quan tâm, phát triển.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng về du lịch sinh thái,
cùng với cách ngành kinh tế khác, ngành du lịch đã và đang được đầu tư
phát triển, đồng thời từ thực tiễn đặt ra yêu cầu phát triển bền vững du lịch
sinh thái trở nên cấp thiết. Để tạo điều kiện phát triển nhanh và bền vững
ngành du lịch, trong Hội nghị toàn quốc về phát triển du lịch, tại Thành phố
Hội An Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu cả hệ thống chính trị cần
quyết liệt vào cuộc để thúc đẩy ngành du lịch phát triển với phương châm
“mở cửa bầu trời” để ngành du lịch “cất cánh”. Do vậy, du lịch nói chung
và du lịch sinh thái nói riêng đang được các cấp, các ngành, các địa phương
khai thác ở mức độ khác nhau và mang lại hiệu quả cao đối với phát triển
KT-XH ở mỗi địa phương và trong cả nước.
Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến - là trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hóa của cả nước. Trong những năm qua, ngành du lịch thủ đô không
ngừng phát triển cả về quy mô, loại hình trên toàn Thành phố và từng địa
phương đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn
việc làm, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba Vì là một huyện thuộc Thành phố Hà Nội, có điều kiện địa lý,
tự nhiên, dân cư, văn hóa, lịch sử, đã trở thành nơi tập trung nhiều

3


nguồn tài nguyên du lịch sinh thái có giá trị như: Vườn quốc gia Ba Vì,
Ao Vua, Khoang Xanh- Suối Tiên, Đầm Long.... với hệ sinh thái phong
phú, thảm thực vật đa dạng, được coi là “lá phổi xanh” phía Tây thủ đô
Hà Nội. Đây còn là vùng đất địa linh, nhân kiệt, có truyền thống văn
hoá lâu đời, độc đáo, đặc trưng bởi 3 dân tộc Kinh - Mường - Dao với
những phong tục, tập quán, văn hoá khác nhau. Trong những năm qua
nhất là từ 2011 đến nay, du lịch Ba Vì nói chung, du lịch sinh thái nói

riêng đã có bước phát triển khá nhanh, mang lại nhiều lợi ích kinh tếxã hội cho địa phương.
Tuy nhiên những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh của vùng. Các khu du lịch sinh thái, quy mô còn khiêm tốn, sản phẩm du
lịch chủ yếu vẫn dựa vào các yếu tố tự nhiên, khai thác những tiềm năng sẵn có
và chưa được đầu tư thỏa đáng, chưa có sản phẩm du lịch sinh thái đặc trưng;
thêm vào đó việc khai thác quá mức không theo quy hoạch bảo tồn, thiếu sự
bền vững đang đặt ra những vấn đề báo động về ô nhiễm môi trường sinh thái,
hệ lụy bức xúc về văn hóa - xã hội, suy giảm chất lượng cuộc sống cộng đồng
tại các khu, điểm du lịch…tức là sự phát triển thiếu bền vững. Vì vậy tác giả
chọn đề tài: “Phát triển du lịch sinh thái bền vững ở huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học cả trong nước và quốc
tế nghiên cứu về du lịch và phát triển du lịch sinh thái trong đó có du lịch huyện
Ba Vì, một số công trình tiêu biểu như:
Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), “Du lịch bền vững”, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách giới thiệu những vấn đề về mối quan hệ giữa du
lịch và môi trường. Khái niệm, nguyên tắc, chính sách của du lịch bền vững,
du lịch bền vững ở những vùng sinh thái nhạy cảm như du lịch miền núi, du
lịch ven biển, du lịch sinh thái.
Đoàn Liên Diễm (2003), “Một số giải pháp phát triển du lịch bền vững
thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại

4


học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Luận án đã trình bày tổng quan những
vấn đề lý luận - thực tiễn về phát triển du lịch bền vững; thực trạng và tiềm
năng phát triển, giải pháp và phác họa mô hình phát triển du lịch bền vững.
Nguyễn Thị Nguyên Hồng (2004), “Giải pháp cơ bản khai thác tiềm năng du

lịch của Thủ đô và phụ cận nhằm phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2010”, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại, Hà Nội. Tác giả đã cho học viên cách
nhìn riêng khác biệt về tiềm năng du lịch của Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn hiến,
trong đó có Ba Vì, vùng đất linh kiệt, lịch sử ngàn năm với tiềm năng đặc biệt để
phát triển một ngành công nghiệp không khói, sánh tầm khu vực và thế giới.
Trần Đức Thanh (2004), “Phát triển du lịch sinh thái ở Hà Nội ”,luận
văn thạc sĩ du lịch, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài đã nghiên cứu tổng quan
cơ sở lý luận về du lịch sinh thái; đề cập đến kinh nghiệm và mô hình xây
dựng, phát triển khu du lịch sinh thái ở một số nước trên thế giới; phân tích
tổng quan, thực trạng hoạt động du lịch sinh thái và các khu du lịch sinh thái
hiện nay ở Thành phố Hà Nội; đề xuất các tiêu chí khu du lịch sinh thái làm
cơ sở cho đầu tư, phát triển các khu du lịch sinh thái theo định hướng chiến
lược phát triển du lịch Việt Nam.
Nguyễn Văn Mạnh, Lê Trung Kiên (2005), Đặc điếm của du lịch sinh
thái với khả năng kinh doanh loại hình du lịch này tại các vườn quốc gia và
khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 95.
Bài viết đã luận giải đặc điểm và các yếu tố ảnh hường đến du lịch sinh thái,
nghiên cứu sự cần thiết và khả năng kinh doanh sản phẩm du lịch sinh thái tại
các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam.
Tạ Minh Phương (2006), “Phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình thực trạng và giải pháp’’ luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã tập trung phân tích và đánh giá
thực trạng du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; đề xuất phương
hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch sinh thái ở Ninh Bình
trong thời gian tới. Tuy nhiên luận văn trên tiếp cận vấn đề du lịch sinh thái

5


Ninh Bình theo quan điểm kinh tế học phát triển, chưa đi sâu nghiên cứu luận

giải dưới góc độ kinh tế chính trị.
Lê Huy Bá (2006), “Du lịch sinh thái ”, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đã đề cập đến lý luận du lịch sinh
thái, vai trò của du lịch sinh thái đối với sự phát ứiển kinh tế - xã hội, luận
giải các nhân tố ảnh hưởng và điều kiện để phát triền du lịch sinh thái.
Nguyễn Đình Hòa, "Du lịch sinh thái - thực trạng và giải pháp để
phát triển ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 1 /2006 . Bài viết
giới thiệu về những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái; phân tích các
khía cạnh của du lịch sinh thái và đánh giá thực trạng phát triển loại hình
du lịch này hiện nay ở nước ta; trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và
giải pháp nhằm hoạch định chính sách, quản lý kinh doanh du lịch sinh thái
ở Việt Nam.
Đỗ Thị Thanh Hoa (2007), ‘‘Nghiên cứu đề xuất tiêu chí khu du lịch
sinh thái ở Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Bộ. Đề tài đã nghiên cứu tổng
quan cơ sở lý luận về du lịch sinh thái, khu du lịch và khu du lịch sinh thái;
đề cập đến kinh nghiệm và mô hình xây dựng, phát triển khu du lịch sinh
thái ở một số nước trên thế giới; phân tích tổng quan, thực trạng hoạt động
du lịch sinh thái và các khu du lịch sinh thái hiện nay ở Việt Nam; đề xuất
các tiêu chí khu du lịch sinh thái làm cơ sở cho đầu tư, phát triển các khu
du lịch sinh thái theo định hướng chiến lược phát triển du lịch Việt Nam.
Trần Đức Thắng (2008), “Phát triển du lịch sinh thái nhằm nâng cao
chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư vùng đệm Vườn Quốc gia Cúc
phương’’ luận văn thạc sĩ du lịch, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã
đề cập đến những vấn đề chất lượng cuộc sống; đánh giá hiện trạng chất
lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư vùng đệm vườn quốc gia Cúc
Phương và đề xuất một số giải pháp cho phát triển du lịch sinh thái nhằm
nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng dân cư vùng đệm vườn quốc
gia Cúc Phương.

6



Lê Thị Ngoan (2009), “Phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
tại Vân Đồn, Quảng Ninh ”: Luận văn thạc sĩ du lịch, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Luận văn của các tác giả đã đề cập lý luận chung về du lịch sinh thái dựa
vào cộng đồng địa phương; đánh giá tiềm năng, thực trạng hoạt động du lịch
sinh thái và mối quan hệ giữa du lịch sinh thái với cộng đồng địa phương; đề
xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng ở
khu vực nhằm hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội địa phương với công tác
bảo tồn và phát triển du lịch bền vững.
Nguyễn Tấn Trung (2011), “Khai thác tiềm năng phát triển du lịch
sinh thái tỉnh Đồng Nai”: Đại học Quốc gia Hà Nội; luận văn thạc sĩ du lịch,
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Luận văn của các tác giả đã nghiên
cứu du lịch sinh thái dưới góc độ chuyên ngành du lịch học và khẳng định vai
trò quan trọng của phát triển du lịch sinh thái đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương, đánh giá tiềm năng, thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và đề
xuất một số giải pháp phát triên du lịch sinh thái ở các địa phương đó.
Nguyễn Hữu Vinh, “Những vấn đề về du lịch sinh thái ở Thành phố Cần
Thơ giai đoạn 2009 - 2012”, chuyên đề kinh tế du lịch. Tác giả đã phân tích
thực trạng du lịch sinh thái Thành phố cần Thơ; đề ra giải pháp phát triển nhằm
nâng cao hình ảnh du lịch sinh thái, loại hình du lịch đặc trưng của khu vực
sông nước Cửu Long, nâng cao hiệu quả kinh tế từ mô hình này, thúc đẩy du
lịch sinh thái của Thành phố phát triển bền vững.
Phạm Lê Hồng Nhung (2012), “Phân khúc thị trường du lịch sinh thái tại
Thành phổ cần Thơ ”, Tạp chí khoa học Trường Đại học cần Thơ, số 21. Tác giả
đã nghiên cứu tiến hành phân khúc thị trường du lịch sinh thái; đề xuất giải pháp
thu hút và thỏa mãn nhu cầu của khách trong từng phân khúc; xây dựng chiến
lược phát triển sản phẩm hiệu quả, mang tính đặc trưng cho du lịch sinh thái thái
Thành phố cần Thơ.
Vũ Mạnh Hoạch (2012), “Phát triển kinh tế du lịch sinh thái ở tỉnh Ninh

Bình hiện nay”, luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện chính trị, Bộ quốc phòng.

7


Luận văn của các tác giả đã nghiên cứu du lịch sinh thái dưới góc độ chuyên
ngành du kinh tế chính trị và khẳng định vai trò quan trọng của phát triển kinh tế
du lịch sinh thái đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đánh giá
tiềm năng, thực trạng, đưa ra những quan điểm cơ bản và đề xuất một số giải
pháp phát triển kinh tế du lịch sinh thái ở Ninh Bình.
Hà Xuân Hưng (2014), Bí thư Huyện ủy Ba Vì Bài viết: Chương trình
xúc tiến, quảng bá với chủ đề: "Du lịch Ba Vì đổi mới, thân thiện và phát triển"
. Bài viết không chỉ để giới thiệu về Ba Vì với tiềm năng du lịch đặc biệt mà còn
cho học viên và người đọc tiếp cận với quan điểm, chủ trương, chính sách của
Hà Nội nói chung và Ba Vì nói riêng trong việc đẩy mạnh phát triển du lịch để
Ba Vì là một điểm đến đầy hấp dẫn của Việt Nam, du khách bạn bè quốc tế.
Phạm Minh Luân (2015), “Phát triển kinh tế du lịch ở huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội hiện nay ”, luận văn cao học Kinh tế chính trị, Học viện chính trị,
Luận văn đã đưa ra quan niệm phát triển kinh tế du lịch; khẳng định cơ sở quan
trọng nhất trong quá trình phát triển kinh tế du lịch là xây dựng và phát triển các
sản phẩm du lịch bền vững. Đồng thời, luận văn cũng làm rõ nội dung, tiêu chí
cũng như sự cần thiết phải phát triển kinh tế du lịch ở Việt Nam nói chung và
Thành phố Hà Nội cũng như Ba Vì nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Các luận văn, luận án trên đã hệ thống hóa lý luận cơ bản về du lịch, phát
triển du lịch, nguồn nhân lực du lịch, xúc tiến đầu tư du lịch… chỉ ra những tiềm
năng và lợi thế (tài nguyên thiên nhiên và truyền thống văn hóa lịch sử của Thủ
đô ngàn năm văn hiến); thực trạng phát triển du lịch Hà Nội về quy hoạch, chính
sách đầu tư, điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ lao động, thị trường, vai trò quản lý
nhà nước… đồng thời đưa ra những định hướng và giải pháp để phát triển du
lịch Hà Nội từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn

Những công trình phát triển du lịch và phát triển DLST đã nêu trên được
nhiều tác giả quan tâm, ở những góc độ và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về phát triển
DLST bền vững. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “ Phát triển du lịch sinh thái bền

8


vững ở huyện Ba Vì, Thành Phố Hà Nội” làm công trình luận văn tốt nghiệp
của mình, không trùng lặp với bất cứ công trình nào mà tác giả đã tìm hiểu và
nêu ở trên, đây là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn hiện nay
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Ngiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển DLST bền vững ở huyện Ba
Vì, Thành phố Hà Nội; trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và giải pháp triển
phát triển DLST bền vững ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2025.
* Nhiệm vụ
- Luận giải làm rõ cơ sở lý luận phát triển DLST bền vững ở huyện
Ba Vì, Thành phố Hà Nội trong đó làm rõ những vấn đề lý luận chung về
phát triển DLST bền vững; quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động
đến phát triển DLST bền vững ở huyện Ba Vì
- Đánh giá thực trạng phát triển DLST bền vững ở huyện Ba Vì. Tập trung
đánh giá những thành tựu, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân thành tựu và những vấn
đề đặt ra cần giải quyết từ thực trạng phát triển DLST bền vững ở huyện Ba Vì
thời gian qua.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp phát triển DLST bền vững huyện
Ba Vì, Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu phát triển DLST bền vững dưới góc độ Kinh tế chính trị ở
huyện Ba Vì Thành phố Hà Nội
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về nội dung phát triển
DLST bền vững ở huyện Ba Vì: về kinh tế; về xã hội và về môi trường.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội

9


Về thời gian: Khảo sát từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các Nghị quyết của
Đại hội đại biểu Đảng bộ, Ban Chấp hành Thành ủy, HĐND thành phố Hà Nội,
Huyện ủy- HĐND -UBND huyện Ba Vì về phát triển kinh tế - xã hội nói chung về
phát triển DLST nói riêng .
* Cơ sở thực tiễn
Thông qua điều tra, nghiên cứu, lấy số liệu tại địa phương và qua các báo cáo
của UBND các cấp, Sở du lịch TP Hà Nội, Phòng văn hóa Ba Vì.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử; phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học kinh tế chính trị là phương
pháp trừu tượng hóa khoa học. Ngoài ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khác như: phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp
điều tra khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc xác định
chủ trương, giải pháp phát triển DLST bền vững ở huyện Ba Vì, thành phố Hà

Nội và các địa phương khác.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
học tập, giảng dạy môn Kinh tế Chính trị, Kinh tế du lịch trong các Học viện,
trường đại học.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, 3 chương, (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI BỀN VỮNG
Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về du lịch sinh thái bền vững
1.1.1. Quan niệm về du lịch
Du lịch là một hoạt động đã có từ lâu, nhưng trước đây nó không được
hiểu là du lịch. Du lịch ban đầu chỉ là việc con người bắt đầu mở rộng giao
lưu với thế giới bên ngoài bằng các cuộc di chuyển. Ban đầu chỉ là khám phá
tìm vùng đất mới, sau đó là các hoạt động đi lại gắn liền với buôn bán và
thường thì sẽ lưu trú lại tại nơi đó một khoảng thời gian ngắn.
Với sự phát triển của công nghiệp ngày càng mạnh mẽ từ thế kỷ XVIII,
hàng loạt các phương tiện di chuyển hiện đại được phát minh thì nhu cầu nghỉ
dưỡng, tham quan, nghiên cứu… trở nên dễ dàng hơn với mọi người. Chính
vì lẽ đó hoạt động du lịch có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Năm 1925, hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO (Internation of
Union Official Travel Organization) được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu
bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu tiên,
du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời
khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh

để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh.
Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt
động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm
thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát
triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hoá hoặc thể
thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá” [13,
tr15]
Tổ chức du lịch thế giới WTO định nghĩa: “Du lịch theo nghĩa hành
động được định nghĩa là một hoạt động di chuyển vì mục đích giải trí, tiêu
khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. Người đi du lịch là

11


người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80km trong
khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích giải trí, tiêu khiển”.[45, tr18]
Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội và kinh tế hành hóa,
Du lịch với tư cách là ngành kinh tế xuất hiện từ giữa thế kỷ XIX. Đặc biệt từ
những năm 1950 trở về đây, ngành du lịch phát triển mạnh mẽ và trở thành
ngành kinh tế hết sức quan trọng của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Từ khi
du lịch xuất hiện đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch được đưa ra
tùy theo góc độ nghiên cứu. Theo Luật Du lịch Việt Nam thì: “Du lịch là các
hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường
xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [36, tr.12]. Quan niệm này
dường như nhấn mạnh đến hoạt động từ phía người đi du lịch, khi chỉ ra nội
dung cốt lõi trong hoạt động đáp ứng nhu cầu chuyến đi của du khách; nói
cách khác là bao gồm những hoạt động từ phía cung du lịch.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, du lịch được hiểu trên hai khía cạnh:
“Trước hết, đó là một dạng nghỉ dưỡng, tham quan tích cực của con người

ngoài nơi cư trú với mục đích: Nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật”. Theo nghĩa này, du lịch được
xem xét ở góc độ cầu, góc độ người đi du lịch [42, tr284]. Mặt khác, du lịch
được xem là “ngành kinh doanh tổng hợp, có hiệu quả cao về mọi mặt: nâng
cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó
làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình hữu nghị
với dân tộc mình. Về mặt kinh tế, du lịch là ngành kinh doanh mang lại hiệu
quả to lớn; có thể coi là góp phần xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ tại chỗ”. Theo
nghĩa này, du lịch được xem xét ở phía cung, với tư cách là một ngành kinh tế
[ 42, tr284]
Từ quan niệm trên, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về du lịch sau:
Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên.
Chuyến du lịch ở nơi đến mang tính tạm thời, trong một thời gian ngắn.

12


Mục đích của chuyến du lịch là thoả mãn nhu cầu tham quan, nghỉ
dưỡng hoặc kết hợp đi du lịch với giải quyết những công việc của cơ quan và
nghiên cứu thị trường, nhưng không vì mục đích định cư hoặc tìm kiếm việc
làm để nhận thu nhập nơi đến viếng thăm.
Dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả cho rằng: Du lịch tổng thể những
hiện tượng và những mối quan hệ kinh tế phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa khách du lịch, nhà kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng
đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch .
Như vậy, du lịch là một hoạt động có sự thống nhất biện chứng giữa người
cung cấp và người tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ du lịch.
Cùng với sự phát triển kinh tế, điều kiện vật chất kỹ thuật, nhu cầu
của con người thì du lịch cũng có sự phát triển mạnh mẽ về hình thức, loại
hình du lịch. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường và trên cơ sở của tài nguyên

du lịch có khả năng khai thác và các điều kiện phát triển du lịch, người ta
thường kết hợp các yếu tố này với nhau để xác định các loại hình du lịch.
Mục đích của việc xác định các loại hình du lịch nhằm vào việc xây dựng
chiến lược phát triển du lịch của quốc gia, của địa phương và định hướng
chiến lược kinh doanh cho các doanh nghiệp du lịch. Mỗi một loại hình du
lịch có một thị trường khác nhau và có những đòi hỏi về quy trình, cách thức
tổ chức, con người phục vụ, trang thiết bị và chất lượng phục vụ khác nhau.
Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động du lịch có sự đan xen giữa các loại hình du
lịch trong quá trình phục vụ khách du lịch. Việc phân loại các loại hình du lịch
căn cứ vào những tiêu thức cơ bản sau:
1. Phân theo địa lý, lãnh thổ: Cùng với sự phát triển kinh tế và quan hệ
ngoại giao giữa các nước, nhu cầu đi du lịch của khách không chỉ trong phạm
vi quốc gia mà phát triển vượt ra ngoài biên giới của quốc gia. Căn cứ vào
phạm vi địa lý lãnh thổ, có thể chia ra làm hai loại hình du lịch sau:
Du lịch nội địa: là khách du lịch thực hiện chuyến đi du lịch trong phạm
vi quốc gia của mình

13


Du lịch quốc tế: Đó là việc đón khách du lịch nước ngoài đến tham quan
và du lịch
2. Theo nhu cầu (mục đích chuyến đi)
Căn cứ vào tiêu thức này có thể phân ra một số loại hình du lịch sau:
Du lịch nghỉ dưỡng. Du lịch được coi như một phương tiện nhằm tái hồi
sức lao động của con người. Loại hình du lịch này có từ rất lâu, đặc biệt khi
du lịch chưa trở thành phổ biến với mọi người mà chỉ giành cho tầng lớp giàu
có và giai cấp thống trị. Ngày nay, loại hình du lịch nghỉ dưỡng đã thu hút
đông đảo các tầng lớp dân cư tham gia.
Du lịch công vụ. Đó là loại hình du lịch của những người đi công tác, dự

các cuộc hội nghị, hội thảo, tham dò đầu tư, thương mại và kết hợp với mục
đích du lịch. Loại hình du lịch này có ưu thế, đối tượng khách tham gia có khả
năng thanh toán cao, họ là cán bộ cao cấp của Nhà nước, của các tổ chức và
các tập đoàn lớn. Ngoài việc chi phí cho chuyến đi do các tổ chức này bảo trợ
với mức cao, họ còn có khả năng thanh toán cao do vậy doanh thu từ loại hình
du lịch này rất lớn. Mặt khác, do mối quan hệ họ còn là người xúc tiến đầu tư,
thương mại và du lịch cho đất nước đến tham quan và du lịch.
Du lịch chữa bệnh. Là một trong những loại hình du lịch phát triển từ xa
xưa, loại hình du lịch này chủ yếu phát triển tại những nơi có nguồn nước
khoáng, vùng núi và vùng ven biển với mục tiêu khai thác các tài nguyên
thiên nhiên ( đất, nước, không khí, cỏ cây thiên nhiên,..v.v) phục vụ việc điều
dưỡng và chữa bệnh cho con người.
3. Phân loại theo môi trường tài nguyên: (Du lịch sinh thái; Du lịch
văn hóa- lịch sử)
Du lịch sinh thái. Là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản
sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền
vững. Khách du lịch lựa chọn loại hình du lịch này nhằm thưởng thức phong
cảnh thiên nhiên đẹp đẽ và trở về với đời sống tự nhiên hoang giã.

14


Du lịch tham quan văn hoá-lịch sử. Đây là một loại hình du lịch mang tính
phổ biến nhất và là cốt lõi của các chương trình du lịch. Con người khi đi du lịch
với những mục đích khác nhau, nhưng cái cốt lõi vẫn là tìm hiểu truyền thống
văn hoá, phong tục tập quán, nếp sống của cộng đồng dân cư nơi họ đến du lịch.
Vì thế, việc khai thác tài nguyên du lịch nhân văn và xã hội ở đây để phục vụ
khách du lịch (trong đó cả khách du lịch nội địa lẫn khách du lịch quốc tế) đóng
một vai trò quyết định.
4. Phân loại theo đặc điểm địa lý của điểm du lịch: (du lịch miền biển, du

lịch miền núi, du lịch đô thị, du lịch nông thôn)
Như vậy đây là một ngành đặc biệt gồm nhiều mối quan hệ liên quan đến
chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên, nhằm đáp ứng nhu cầu
thăm quan, giải trí, nghỉ dưỡng...của du khách. Hoạt động của ngành du lịch vừa
mang đặc điểm của một ngành kinh tế, vừa mang đặc điểm của một ngành văn
hoá - xã hội. Việc phân loại các loại hình du lịch chỉ là tương đối, trên thực tế các
loại hình du lịch được cung cấp đan xen không có một loại hình riêng lẻ.
Du lịch là một ngành kinh tế - xã hội - dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ nhu
cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa
bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các dạng nhu cầu khác. Phương thức đi
du lịch cũng đang trở nên rất đa dạng, nhiều loại hình du lịch mới đang trở nên
được yêu thích. Ví dụ: hiện nay du lịch ở các khu vực tự nhiên đang rất được ưa
chuộng như: du lịch leo núi, du lịch thăm quan nghỉ dưỡng, du lịch đi bộ dã
ngoại, thăm các hang động... trong đó du lịch sinh thái đã và đang phát triển
mạnh hơn bất kỳ một hình thức nào khác, đang đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và
thực tiễn, cần có những phân tích đánh giá để có những giải pháp phù hợp nhằm
phát triển du lịch sinh thái một cách hiệu quả, bền vững.
1.1.2. Quan niệm về du lịch sinh thái
“Du lịch sinh thái” (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và đã
mau chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều người từ những lĩnh vực khác
nhau. Đây là một khái niệm rộng được hiểu khác nhau từ những góc độ khác

15


nhau. Đối với một số người “Du lịch sinh thái” đơn giản được hiểu là sự kết
hợp ý nghĩa của 2 từ ghép “Du lịch” và “Sinh thái” vốn đã quen thuộc với
nhiều người. Song ở góc rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm
“Du lịch sinh thái” là du lịch thiên nhiên mà trong thực tế đã xuất hiện từ đầu
những năm 1800 (Ashton, 1993). Với khái niệm này mọi hoạt động du lịch có

liên quan đến thiên nhiên như tắm biển, leo núi... đều được hiểu là “Du lịch
sinh thái”.
Có thể nói cho đến nay khái niệm về “Du lịch sinh thái” vẫn còn được
hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Tuy nhiên,
mặc dù những tranh luận vẫn còn tiếp tục nhằm đưa ra một quan niệm chung
được chấp nhận về “Du lịch sinh thái”, đa số ý kiến tại các diễn đàn quốc tế
chính thức về “Du lịch sinh thái” đều cho rằng “Du lịch sinh thái” là loại hình
du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được quản lý
bền vững về mặt sinh thái. Du khách sẽ được hướng dẫn tham quan với những
diễn giải cần thiết về môi trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được những
giá trị thiên nhiên và văn hoá mà không gây ra những tác động xấu các hệ
sinh thái và văn hoá bản địa.
- Một trong những định nghĩa được coi là sớm về du lịch sinh thái mà
đến nay vẫn được nhiều người quan tâm là định nghĩa của Hội Du lịch Sinh
thái Quốc tế đưa ra năm 1991: “Du lịch Sinh thái là loại hình du lịch có trách
nhiệm đối với các vùng tự nhiên, bảo vệ môi trường và duy trì cuộc sống yên
bình của người dân địa phương” [1 , tr.11].
Tuy nhiên định nghĩa này mới chỉ đề cao trách nhiệm của du khách đối
với khu vực mà họ đến thăm đó là trách nhiệm giữ gìn, tôn tạo, tránh sự ảnh
hưởng tiêu cực đến môi trường tự nhiên, hệ sinh thái, và cả cuộc sống của cư
dân địa phương, chưa đề cập tới các hoạt động cung cấp các sản phẩm du lịch
- Theo quỹ bảo tồn động vật hoang dã (WWF - World Wild Fund): "Du
lịch sinh thái đề cập tới các hoạt động du lịch đi tới các khu vực thiên nhiên

16


hoang dã, gây tác động tối thiểu tới môi trường tự nhiên và cuộc sống của các
loài động thực vật hoang dã trong khi mang lại một số lợi ích kinh tế cho cộng
đồng địa phương và những người bản địa phục vụ tại đó" [25, tr.11].

Ở Việt Nam, trong luật Du lịch do Quốc Hội thông qua 2005,có định
nghĩa khá ngắn gọn về DLST:
“ Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với
bản sắc văn hóa địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát
triển bền vững” [36, tr.32 ].
Theo Hội thảo Quốc gia về “Xây dựng chiến lược phát triển DLST ở
Việt Nam” đưa ra định nghĩa: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào
thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường có đóng góp cho
nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng
địa phương” [40. tr12]
Nhìn chung các khái niệm về du lịch sinh thái đang sử dụng tại Việt
Nam đều có sự thống nhất trên quan điểm về nội dung đề cập là: thiên nhiên,
bản sắc văn hóa, trách nhiệm và lợi ích của cộng đồng và phát triển bền vững,
tuy nhiên còn đề cập chung chung và chưa toàn diện.
Theo đó, du lịch sinh thái hình thức phát triển du lịch bền vững. Nội
dung hoạt động diễn ra trong môi trường thiên nhiên, không đáp ứng yêu cầu
của mọi khách du lịch mà chỉ dành cho những người thật sự lấy giá trị sinh
thái làm mục tiêu của chuyến đi. Không chỉ đơn giản là "thưởng thức thiên
nhiên" một cách thiếu ý thức, mà đòi hỏi con người phải biết tôn trọng, học
hỏi và gìn giữ thiên nhiên. Qua đó, có những hành động cụ thể để bảo tồn
thiên nhiên và văn hóa của người dân, đem lại lợi ích kinh tế - văn hóa - xã
hội cho cộng đồng địa phương. Khi đó, con người được thưởng thức, thu nhận
được những bài học sâu sắc về thiên nhiên, con người và hệ sinh thái.
Từ những quan niệm về du lịch sinh thái và từ thực tiễn hoạt động của
du lịch sinh thái, tác giả cho rằng: Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có

17


trách nhiệm đối với môi trường ở các khu thiên nhiên còn tương đối hoang sơ

với mục đích thưởng ngoạn thiên nhiên và cá giá trị văn hóa kèm theo của
quá khứ và hiện tại, thúc đẩy công tác bảo tồn, có ít tác động tiêu cực đến
môi trường và tạo các ảnh hưởng tích cực về mặt kinh tế- xã hội cho cộng
đồng địa phương
Cho đến nay, khái niệm DLST vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Mặc dù, những tranh luận vẫn còn
đang diễn tiến nhằm tìm ra một định nghĩa chung nhất về DLST, nhưng đa số
ý kiến của các chuyên gia hàng đầu về DLST đều cho rằng DLST là loại hình
du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi
dưỡng, quản lý theo hướng bền vững về mặt sinh thái. Du khách sẽ được
hướng dẫn tham quan với những diễn giải cần thiết về môi trường để nâng
cao hiểu biết, cảm nhận được giá trị thiên nhiên và văn hóa mà không gây ra
những tác động không thể chấp nhận đối với các hệ sinh thái và văn hóa bản
địa. DLST nói theo một định nghĩa nào chăng nữa thì nó phải hội đủ các yếu
tố cần:
Thứ nhất, Du lịch sinh thái bao gồm tất cả những hình thức du lịch dựa
vào thiên nhiên mà ở đó, mục đích chính của khách du lịch là tham quan, tìm
hiểu về tự nhiên cũng như những giá trị văn hóa truyền thống ở các vùng
thiên nhiên đó.
Thứ hai, có khả năng hỗ trợ tích cực cho công tác bảo tồn các đặc tính tự
nhiên, văn hoá và xã hội.
Thứ ba, có tính giáo dục môi trường cao và có trách nhiệm với môi trường.
Thứ tư, phải mang lại lợi ích cho cư dân địa phương và có sự tham gia
của cộng đồng cư dân địa phương.
1.1.3 Quan niệm về du lịch sinh thái bền vững
Khái niện phát triển bền vững lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo
“tương lai của chúng ta” của Ủy ban môi trường và phát triển thuộc Ngân
hàng thế giới (WB) năm 1987.

18



Trong phát triển bền vững, điều cần chú ý nhất là thỏa mãn các nhu cầu
hiện tại và không làm tổn hại đến sự thỏa mãn các nhu cầu trong tương lai,
đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định tài nguyên thiên nhiên, môi trường
sống. Như vậy phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội một cách bền vững nhờ khoa học, công nghệ tiên tiến mà còn phải đảm
bảo những điều kiện môi trường thiết yếu cho con người đang tồn tại và cho
các thế hệ sẽ tồn tại (những người đang sống và những người sẽ sống). Phát
triển bền vững là một trong những mục tiêu thiên niên kỷ của thế giới và
cũng là mục tiêu hàng đầu cho phát triển của Việt Nam. Ở nước ta, khái
niệm phát triển bền vững mới được tiếp cận từ thật niên 1980, được khẳng
định trong quá trình phát triển KT-XH của đất nước 1991-2000, bằng Chỉ
thị 36 CT/TW ngày 25/06/1998 của Bộ Chính trị về công tác tăng cường
bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Đồng thời cũng
được khẳng định thông qua các chủ trương qua các kỳ đại hội Đảng toàn
quốc lần X, XI, XII, trở thành những định hướng quan trọng cho các ngành
trong đó có ngành du lịch.
Du lịch được coi là ngành công nghiệp không khói lớn nhất trên phạm
vi toàn thế giới, góp phần tích cực vào vào sự nghiệp phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia, bảo tồn các giá trị văn hóa cũng như có tác động đến mọi khía
cạnh về tài nguyên và môi trường. Từ quan niệm về DLST và phát triển bền
vững, tác giả quan niệm DLST bền vững như sau:
“Du lịch sinh thái bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch
nhằm tổ chức, khai thác, sử dụng các giá trị tài nguyên thiên nhiên và văn
hóa bản địa thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và
ngoài nước để thu lợi ích kinh tế góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho con người, trong khi đó vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo
các nguồn tài nguyên và phát triển du lịch trong tương lai”
Du lịch sinh thái bền vững không những đóng góp tích cực cho sự phát

triển bền vững mà còn làm giảm tối thiểu các tác động của khách du lịch đến
văn hóa và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài

19


nguyên do du lịch mang lại và cần chú trọng đến những đóng góp tài chính
cho việc bảo tồn thiên nhiên. Phát triển DLST bền vững cần có sự cân bằng
giũa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường trong khuôn khổ các nguyên
tắc và các giá trị đạo đức.
Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu về DLST, muốn cho
ngành DLST thật sự có thể phát triển bền vững cần phải dựa vào 3 yếu tố:
Thứ nhất là thị trường về những điểm du lịch mới và các sản phẩm du
lịch ngày càng tăng.
Thứ hai là phát triển phải coi trọng việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Thứ ba là du lịch sinh thái trực tiếp mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và
cải thiện phúc lợi cho cộng đồng.
Ba nhân tố trên gắn bó chặt chẽ với nhau, đảm bảo môi trường và cảnh
quan cho mọi điểm du lịch. Chính vì vậy, các chuyên gia du lịch đã khẳng
định cần chú ý sự tập trung vào du lịch bền vững cùng với vai trò của nó
trong sự phát triển cộng đồng và bảo tồn là vô cùng quan trọng. Vì nếu chỉ
riêng phát triển du lịch không thôi thì không phải là sự phát triển bền vững,
vấn đề đặt ra là sự phát triển bền vững ấy như thế nào và để cho ai? Trong bối
cảnh hiện nay những nước biết kết hợp giữa phát triển du lịch, bảo vệ môi
trường tự nhiên và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng địa phương sẽ là những
nước thu được nhiều lợi ích nhất trong hoạt động du lịch. Việt Nam có nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá và nền văn hóa dân tộc hội đủ điều kiện
để phát triển du lịch; song song với quá trình phát triển cần phải luôn luôn
nhấn mạnh đến yếu tố bền vững theo nguyên tắc phù hợp với DLST, tức là
phát triển du lịch theo hướng đẩy mạnh việc giữ gìn môi trường tự nhiên với

đảm bảo lợi ích cộng đồng dân cư trong vùng.
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát
triển du lịch sinh thái bền vững ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về phát triển du lịch sinh thái bền vững ở huyện Ba
Vì, Thành phố Hà Nội

20


Trên cơ sở những nội dung phân tích ở trên, tiếp cận phạm trù phát triển
DLST bền vững nói chung dưới góc độ kinh tế chính trị, tác giả cho rằng:
“Phát triển du lịch sinh thái bền vững là một hoạt động, dựa
trên cơ sở khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch để tạo ra các
sản phẩm du lịch độc đáo, chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của
du khách, góp phần phát huy lợi thế các nguồn lực sản xuất, duy
trì ổn định và lâu dài các chỉ tiêu tăng trưởng, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, thúc đẩy
văn hóa - xã hội địa phương phát triển, có đóng góp tích cực vào
bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn tài nguyên du lịch sinh thái
cho các thế hệ tương lai.
Từ cách hiểu về “Phát triển du lịch sinh thái bền vững”, tác giả quan niệm:
để phát triển DLST bền vững cần có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa
ba mặt của sự phát triển, bền vững về kinh tế, bền vững về tài nguyên môi
trường, bền vững về văn hóa, xã hội.
Trong đó, bền vững về kinh tế cần được hiểu là sự phát triển ổn định
lâu dài, tạo ra nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế
của một quốc gia, của địa phương có tài nguyên du lịch sinh thái. Sự bền
vững về văn hóa, xã hội: Không ngừng nâng cao và cải thiện chất lượng
cuộc sống cho tất cả mọi người trong suốt quá trình phát triển. Quá trình
khai thác đáp ứng nhu cầu phát triển DLST hiện tại không làm tổn hại, suy

thoái các giá trị văn hóa truyền thống đã có và để lại hậu quả xấu cho các thế
hệ tiếp theo. Sự bền vững về môi trường: Phát triển DLST không làm suy
thoái hay hủy diệt môi trường, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Việc sử dụng
các tài nguyên không vượt quá khả năng tự phục hồi của nó, vừa đáp ứng
được nhu cầu phát triển hiện tại song không làm suy yếu khả năng tái tạo
cho tương lai để đáp ứng được nhu cầu cho thế hệ mai sau.
Từ quan niệm và nội dung phát triển DLST bền vững ở trên, tác giả
đưa ra quan niệm về phát triển du lịch sinh thái bền vững ở huyện Ba Vì như
21


sau: “Phát triển du lịch sinh thái bền vững ở huyện Ba Vì là hoạt động dựa
trên cơ sở khai thác có hiệu quả tài nguyên DLST, tạo ra các sản phẩm
DLST, đáp ứng tốt nhu cầu của du khách, góp phần bảo vệ môi trường sinh
thái, thúc đẩy kinh tế, văn hóa - xã hội của huyện Ba Vì phát triển, đảm bảo
cho DLST không chỉ đáp ứng tốt cho nhu cầu hiện tại mà phải có khả năng
đáp ứng cho nhu cầu du lịch sinh thái của tương lai”.
Nội hàm quan niệm trên được hiểu ở những khía cạnh cơ bản sau:
Một là, chủ thể của phát triển DLST bền vững là cấp ủy, chính quyền các
cấp trong huyện Ba Vì và các cơ quan chức năng liên quan. Đây là chủ thể tổ
chức, quản lý phát triển DLST bền vững, có nhiệm vụ xây dựng quy hoạch,
kế hoạch, đề án phát triển, hướng dẫn kiểm tra thực hiện các chính sách quy
định, giúp đỡ tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho các doanh nghiệp du lịch, các
chủ thể là tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch(tổ chức, doanh nghiệp, các hộ
và nhân dân địa phương). Đây là những chủ thể trực tiếp tổ chức, điều hành,
thực hiện phát triển DLST bền vững được các cấp chính quyền cấp phép kinh
doanh và tạo điều kiện thực hiện các nội dung phát triển DLST bền vững.
Hai là, mục đích phát triển: nhằm khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả
các nguồn tài nguyên của huyện, góp phần phần phát triển du lịch bền vững;
tạo việc làm, tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu cho người dân; tăng quy

mô, số lượng, chất lượng và khai thác có hiệu quả tài nguyên sinh thái,
bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa của huyện Ba Vì, tạo ra các sản phẩm,
dịch vụ độc đáo, chất lượng cao đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của du khách,
không chỉ hiện tại mà cả tương lai. Làm cho du lịch thực sự trở thành ngành kinh
tế trọng điểm của Ba Vì, làm động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát
triển. Phấn đấu đưa địa phương trở thành trung tâm du lịch sinh thái của Thành
phố Hà Nội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - văn hóa- xã
hội trên địa bàn huyện Ba Vì.

22


Ba là, phương thức phát triển: Đây là hoạt động có sự tham gia của
nhiều chủ thể khác nhau, vì vậy phương thức pháp triển DLST bền vững ở
huyện Ba Vì của mỗi chủ thể cũng khác nhau. Cụ thể là:
- Đối với Đảng bộ, chính quyền các cơ quan ban ngành của huyện Ba
Vì, đề ra chủ trương, định hướng, xây dựng quy hoạch, đề án phát triển DLST
bền vững, sử dụng các công cụ, chính sách tác động vào các nội dung của
DLST bền vững và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh doanh du lịch
và đảm bảo sự hài hòa lợi ích tập thể, doanh nghiệp và người dân.
- Đối với các chủ thể kinh doanh du lịch thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau phải nắm vững chủ trương, định hướng của Đảng bộ, chính quyền
địa phương và các cơ quan chức năng tổ chức kinh doanh theo đúng quy định,
coi trọng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, văn hóa của địa phương, tạo ra nhiều
sản phẩm du lịch độc đáo, nâng cao chất lượng các dịch vụ phục vụ kinh
doanh du lịch, đảm bảo hài hòa lợi ịch kinh tế, xã hội và sự bền vững của các
nguồn tài nguyên.
1.2.2. Nội dung phát triển du lịch sinh thái bền vững ở ở huyện Ba
Vì, Thành phố Hà Nội
Căn cứ vào quan niệm phát triển DLST bền vững ở huyện Ba Vì, xác

định nội dung phát triển DLST bền vững hiện nay ở Ba Vì gồm những nội
dung chủ yếu sau:
Một là, phát triển DLST bền vững về kinh tế. Kinh tế là tiêu chí được
đánh giá dựa trên sự phát triển ổn định và lâu dài của sản phẩm du lịch, tạo ra
nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế của xã hội và đem
lại lợi ích cho cộng đồng, đặc biệt là cho người dân địa phương nơi có tiềm năng
du lịch. Trước hết các khu DLST cần có sự mở rộng về quy mô, số lượng, nâng
cao chất lượng sản phẩm DLST: hoạt động kinh doanh DLST phải đạt hiệu
quả kinh tế và được duy trì thường xuyên với mức độ ngày càng cao, đó là sự
phát triển liên tục, không ngừng của hệ thống các khu DLST. Trong đó, các

23


yếu tố phục vụ cho phát triển DLST và hiệu quả sử dụng các yếu tố đó liên
tục tăng, góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu KT-XH của huyện Ba Vì
nói riêng và Thành phố Hà Nội nói chung. Như vậy, bền vững về kinh tế
trước hết DLST phải phát triển cả về số lượng và quy mô: số lượng các khu
DLST tăng lên theo thời gian trên cơ sở phát triển các loại hình DLST. Theo
đó, nội dung cụ thể của phát triển DLST bền vững về kinh tế được thể hiện:
1- Kết quả và hiệu quả kinh doanh DLST là nội dung trực tiếp phản ánh
tính bền vững về mặt kinh tế trong quá trình phát triển DLST. Theo đó hoạt động
SX-KD du lịch sinh thái liên tục phát triển về doanh thu, có đóng góp và GDP
của địa phương hàng năm đều tăng. Nội dung này cũng thể hiện khả năng thích
nghi, ứng phó với những biến động của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh
doanh DLST ngày càng tốt hơn; năng lực cạnh tranh và năng lực liên kết các
khu DLST không ngừng tăng lên.
2- Nội dung quan trọng nhất trong phát triển DLST là tạo ra được thị
trường ổn định và ngày càng thu đông đảo du khách đến với các khu DLST
Ba Vì. Muốn vậy phải tạo ra được nhiều các sản phẩm du lịch độc đáo, chất

lượng cao. Hiện nay mặc dù Ba Vì có rất nhiều tiềm năng thế mạnh về phát
triển du lịch, song nhìn chung chất lượng các sản phẩm du lịch còn nhiều hạn
chế so với các địa phương khác trong cả nước. Vì vậy, khách du lịch đến với
Ba vì chủ yếu là vào mùa hè, thời gian lưu trú ngắn. Để DLST phát triển bền
vững về kinh tế nhất thiết phải nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch hiện
có và tạo nhiều sản phẩm có chất lượng cao mới và đặc biệt phải quan tâm
đến phát triển thị trường du lịch.
3- Tổ chức kinh doanh các sản phẩm DLST dựa trên điều kiện về thiên
nhiên, lịch sử và văn hóa địa phương (bao gồm thức ăn, nước uống, sản phẩm
thủ công, nghệ thuật biểu diễn và các mặt hàng nông sản) nhằm không ngừng
thu hút, gia tăng số lượng du khách đến tham quan và quay trở lại các điểm du
lịch; chủ động chia sẻ lợi nhuận thu được từ kinh doanh DLST (tài chính, nhân

24


lực hoặc vật chất) để hỗ trợ các hoạt động phục vụ cộng đồng với mục tiêu phát
triển KT-XH của địa phương, qua đó xóa đói giảm nghèo, đảm bảo hài hòa lợi
ích kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh du lịch với địa phương và dân cư của
huyện Ba Vì.
Hai là, phát triển DLST bền vững về xã hội. Phát triển DLST bền vững
xét theo nghĩa rộng là việc thúc đẩy, phát triển và giải quyết tốt các mặt của quan
hệ sản xuất, trực tiếp là quan hệ sở hữu; quan hệ lợi ích giữa chủ doanh nghiệp
kinh doanh du lịch với người lao động; quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước;
quan hệ giữa những người lao động với nhau theo đúng quy định của pháp luật.
1- Trước hết, phát triển DLST phải gắn liền với việc tạo ra ngày càng nhiều
công ăn việc làm cho người lao động cho cả nước mà trực tiếp là cư dân địa phương.
cải thiện đời sống cho nhân dân tạo tính bền vững về xã hội nhất là ở địa bàn các xã
miền núi còn khó khăn của huyện Ba Vì. Theo đó, trong quá trình phát triển
DLST cần ưu tiên sử dụng các dịch vụ và hàng hoá là sản phẩm nội địa hoặc

sản phẩm, nguyên liệu được sản xuất tại địa phương nhưng không làm cạn
kiệt tài nguyên; hỗ trợ các nhà cung ứng của địa phương phát triển, xúc tiến và bán
các sản phẩm du lịch độc đáo, đặc thù của địa phương tại cơ sở lưu trú du lịch;
thực hiện tốt chính sách chống bóc lột thương mại, bóc lột tình dục, đặc biệt
đối với trẻ em chưa đến tuổi thành niên; công bằng trong việc tuyển dụng phụ
nữ, người dân tộc thiểu số ở địa phương, kể cả vị trí quản lý, có chính sách
riêng hỗ trợ nhân viên nữ (chế độ thai sản, đào tạo, tư vấn sức khỏe sinh
sản…); tuân thủ luật pháp quốc tế và quốc gia về bảo vệ nhân công và chi trả
lương đầy đủ.
2- Phát triển DLST bền vững cần chú ý giải quyết hài hòa các mối quan
hệ lợi ích (lợi ích của chủ doanh nghiệp kinh doanh du lịch sinh thái với lợi ích
người lao động làm thuê, lợi ích xã hội v.v…); không làm ảnh hưởng xấu đến
môi trường sống xung quanh, góp phần ổn định an ninh trật tự, an toàn xã hội
trên từng địa phương. Đây là nội dung rất quan trọng, bởi nó là vấn đề phức tạp
trong tổ chức, quản lý hoạt động của bất kỳ loại hình kinh tế nào. Trong đó, cần

25


×