Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm lâm SÀNG và cận lâm SÀNG PHỤ nữ MANG THAI có LƯỢNG HUYẾT sắc tố dưới 100 GL ở BỆNH VIỆN PHỤ sản TRUNG ƯƠNG năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.46 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

DƯƠNG VĂN VŨ

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM
SÀNG PHỤ NỮ MANG THAI CÓ LƯỢNG HUYẾT
SẮC TỐ DƯỚI 100 G/L Ở BỆNH VIỆN PHỤ SẢN
TRUNG ƯƠNG NĂM 2020

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

`


Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

DƯƠNG VĂN VŨ

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM
SÀNG PHỤ NỮ MANG THAI CÓ LƯỢNG HUYẾT
SẮC TỐ DƯỚI 100 G/L Ở BỆNH VIỆN PHỤ SẢN
TRUNG ƯƠNG NĂM 2020


Chuyên ngành: Sản Phụ khoa
Mã số: 60720131

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS PHẠM THỊ THANH HIỀN


Hà Nội - 2019
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BN

: Bệnh nhân

HC

: Hồng cầu

Hct

: Hematocrit

HST

: Huyết sắt tố

MCHC


: Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu

MCV

: Thể tích trung bình hồng cầu

PNCT

: Phụ nữ có thai

PSTW

: Phụ sản trung ương

RDW

: Khoảng phân bố kích thước hồng cầu


WHO

: Tổ chức y tế thế giới

DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ



6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới trong năm 2011 trên thế giới có
38% tương ứng 32,4 triệu phụ nữ mang thai ở độ tuổi sinh đẻ bị thiếu máu
trong đó các nước công nghiệp phát triển chiếm khoảng 18%, các nước đang
phát triển chiếm tỷ lệ từ 35-75% .[3]Thiếu máu ở phụ nữ mang thai là vấn đề
lớn về sức khỏe cộng đồng tại nhiều quốc gia. Điều tra của Viện Dinh dưỡng
Quốc gia cho thấy 36,8% phụ nữ mang thai tại Việt Nam thiếu máu .[4]
Trong thời kỳ mang thai, sự hình thành và phát triển của thai nhi phụ thuộc
rất nhiều vào sức khỏe của mẹ. Thai nhi được nuôi dưỡng bởi sự cung cấp
máu từ tuần hoàn của người mẹ tới bánh rau và thai. Tuần hoàn của máu mẹ
quyết định sự phát triển khỏe mạnh của thai nhi. Nếu tuần hoàn máu mẹ đầy
đủ sẽ cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho thai, ngược lại nếu người mẹ bị
thiếu máu trong giai đoạn mang thai sẽ có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
của thai. [5]
Thiếu máu khi có thai làm ảnh hưởng đến sức khỏe người mẹ, làm cho
người mẹ dễ bị tai biến trong quá trình mang thai và trong khi đẻ như sảy thai,
thai lưu, đẻ non, băng huyết. Thiếu máu trong quá trình mang thai cũng làm
tăng các tỉ lệ đẻ khó, mổ đẻ, tử vong của mẹ. Thiếu máu làm tăng tai biến
chảy máu trong và sau đẻ, nhiễm khuẩn hậu sản, sót rau, choáng trong cuộc
đẻ, chậm phục hồi sức khỏe của sản phụ sau đẻ.[6]
Với thai nhi, thiếu máu của mẹ trong thời kỳ có thai có thể làm tăng nguy
cơ mắc bệnh và tử vong ở trẻ, thai nhi kém phát triển, giảm cân nặng sơ sinh,
làm ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực và trí tuệ của thai nhi sau này.[6-8]
Trong các nguyên nhân thiếu máu ở phụ nữ mang thai thì thiếu máu thiếu
sắt chiếm đại đa số. Thiếu máu do thiếu sắt chiếm khoảng 80% các trường
hợp thiếu máu khi có thai, 10-20% các PNMT có chế độ ăn đầy đủ bị thiếu



7

máu do thiếu sắt.[9]. Vì vậy bổ sung viên sắt/acid folic trước và trong qua
trình mang thai được xem là một trong những giải pháp quan trọng để giải
quyết tình trạng thiếu máu do thiếu sắt[10].
Như vậy thiếu máu ở phụ nữ mang thai là một trong những vấn đề sức
khỏe quan tâm toàn cầu đặc biệt ở một nước đang phát triển như nước ta. Sự
hiểu biết các khía cạnh của vấn đề thiếu máu cũng như đánh giá hiệu quả điều
trị thiếu máu sẽ giúp nâng cao kiến thức, thái độ thực hành vàđóng góp vào sự
nghiệp bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em.Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài:“ Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
phụ nữ mang thai có lượng huyết sắc tố dưới 100 g/l ở Bệnh viện Phụ sản
Trung Ương năm 2020” với các mục tiêu sau:
1)

Mô tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng phụ nữ mang thai có
lượng huyết sắc tố dưới 100 g/l ở Bệnh viện Phụ sản Trung Ương năm

2)

2020.
Tìm hiểu một số nguyên nhân hay gặp ở nhóm phụ nữ mang thai có lượng
huyết sắc tố trên.


8

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.1. Thay đổi về máu của phụ nữ mang thai.

Khi mang thai, thể tích huyết tương tăng 40-50% và thể tích hồng cầu
chỉ tăng 20 - 30% [11]. Những thay đổi này xảy ra chủ yếu trong 3 tháng giữa
và trước khi mang thai 32 tuần [12]. Bình thường người phụ nữ ngoài thời kỳ
thai nghén có khoảng 4l máu thì khi có thai có thể tăng lên tới 6l. Khối lượng
máu bắt đầu tăng trong 3 tháng đầu, tăng nhanh trong 3 tháng giữa và cao
nhất ở tháng thứ 7 của thai nghén. Sau đó khối lượng máu hằng định ở trong
những tuần lễ cuối của thai nghén. Sau đẻ khối lượng máu giảm nhanh và trở
lại bình thường.[13]
Hiện tăng thể tích máu ở cơ thể người mẹ mang thai được phát hiện từ
năm 1915 nhờ kỹ thuật pha loãng máu. Các kỹ thuật ngày nay đo lường thể
tích hồng cầu có độ chính xác cao hơn nhiều và giúp đưa ra các thông tin
chính xác vể thể tích máu mẹ, hầu như tất cả các nghiên cứu trong những
năm gần đây đều có sự tăng đáng kể thể tích máu mẹ, các nghiên cứu đều
chỉ ra rằng tổng thể tích máu mẹ tăng lên 40-50%. Thể tích máu tăng đạt tối
đa ở cuối quý 3 của thời kỳ mang thai và giữ nguyên ở mức đó trong vài
tuần trước sinh.
Quá trình tăng thể tích máu bắt đầu ngay từ quý đầu của quá trình mang
thai, nhưng lúc đầu chỉ tăng rất ít trong khoảng 20 tuần đầu. Quá trình này
diễn ra nhanh hơn ở quý 2 của thai kỳ và tiếp tục tăng dần cho tới tận vài tuần
trước sinh và từ đó tổng lượng thể tích máu thường được duy trì ổn định trong
khoảng 6-8 tuần trước khi sinh.
Tăng thể tích máu trước tiên là do tăng thể tích huyết tương nhưng có cả
sự tăng đáng kể số lượng hồng cầu. Trình tự của quá trình đó như sau: đầu
tiên là do tăng thể tích huyết tương do tăng cường hệ tuần hoàn tử cung rau,


9

hiện tượng này diễn ra rất từ từ cho tới khoảng tuần thứ 12 sau đó tốc độ tăng
cao lên đáng kể từ tuần thứ 23 cho tới tuần thứ 36.

Thể tích hồng cầu trong máu lưu hành cũng tăng nhưng chậm và ít hơn,
khoảng 300ml trong thời kỳ mang thai. Khi thể tích máu hữu ích đã tăng và dừng
ở mức đỉnh cao thì hồng cầu tiếp tục tăng ở tốc độ hơn để bổ sung vào tuần hoàn.
Sự tăng thể tích huyết tương và thể tích hồng cầu làm cho thể tích máu
lưu hành tăng khoảng 1300ml, nhưng do thể tích huyết tương tăng sớm và
nhiều hơn còn thể tích hồng cầu tăng muộn và ít hơn dẫn tới hiện tượng là
giảm độ nhớt máu tạo nên tình trạng thiếu máu do pha loãng máu ở thời kỳ
thai nghén. Tỷ lệ này làm cho tỷ lệ huyết sắc tố giảm xuống còn khoảng 12g/100ml máu được thấy ở những phụ nữ có thai bình thường có dinh dưỡng
đầy đủ và được bổ sung sắt và acid folic đầy đủ. Vì vậy một số tác giả coi đó
là tình trạng thiếu máu sinh lý ở phụ nữ có thai.
Sự thay đổi đáng kể trong huyết tương và thể tích hồng cầu đòi hỏi sự
tăng đồng thời trong cơ chế tạo máu. Trong một thời gian tương đối ngắn, tủy
xương hoạt động phải tăng được khoảng 30% khối lượng hồng cầu lưu hành
và một mức đáng kể thể tích bạch cầu và tiểu cầu trong tuần hoàn, sau đó duy
trì được mức tăng được khối lượng các tế bào máu ngoại vi đó cho tới vài
tuần trước sinh. Quá trình tăng như vậy có kết hợp với sự tăng sản lan tỏa của
hệ thống máu. Xét nghiệm tủy xương trên những phụ nữ có thai bình thường
cho thấy có sự tăng đồng nhất và lan tỏa của các nguyên bào tạo hồng cầu
trong tủy xương cũng như tăng hoạt động cuả các thành phần tủy xương tạo tế
bào máu ngoại vi. Kết quả quan trọng của những thay đổi đó là đảm bảo cho
nồng độ Hb bình thường 12 -13 g/dl máu.[13]
•Thay đổi về thành phần của các tê bào máu ngoại vi
•Thay đổi hồng cầu và các chỉ số
Nguyên nhân làm tăng khối lượng máu ở cơ thể người phụ nữ có thai, đó là vì


10

cơ thể người phụ nữ tăng giữ nước, làm khối lượng huyết tương tăng lên, khối
lượng máu tăng lên. Cũng chính vì thế, do khối lượng huyết tương tăng nhiều

hơn hồng cầu làm cho tỷ lệ huyết sắc tố hơi giảm, hematocrit cũng giảm (từ
39,5% khi chưa có thai xuống 35,8% khi có thai). Độ nhớt máu cũng giảm,
máu có xu hướng loãng làm cho thiếu máu nhược sắc và giảm áp lực thẩm
thấu.[13]
1.2. Tổng quan về thiếu máu
1.2.1. Khái niệm thiếu máu
Huyết sắc tố ở trong hồng cầu thực hiện nhiệm vụ vận chuyển oxy từ
phổi đến tổ chức và vận chuyển khí cacbonic từ tổ chức đưa về phổi để đào
thải ra ngoài. Lượng HST trong máu phải đạt một mức độ cần thiết dưới mức
đó là thiếu máu.
Người ta thấy có một số yếu tố liên quan đến nồng độ HST trong máu:
- Phụ nữ có nồng độ HST thấp hơn nam giới. PNMT có nồng độ HST thấp hơn
phụ nữ bình thường.
- Người sống ở vùng núi cao, nồng độ oxy trong khí thở thấp, nồng độ HST
cao hơn người sống vùng đồng bằng.
Do vậy nói thiếu máu phải xem xét người đó có lượng HST là bao nhiêu
và trong hoàn cảnh nào. Tổ chức y tế thế giới định nghĩa “ Thiếu máu là tình
trạng giảm lượng HST trong máu so với người cùng tuổi, cùng giới, cùng
trạng thái và cùng môi trường sống”.[14]
1.2.2. Phân loại thiếu máu
Thiếu máu là bệnh khá phổ biến đặc biệt ở các nước các vùng có đời
sống thấp. Tuy nhiên nhiều khi thiếu máu là triệu chứng của bệnh khác. Có
nhiều lý do gây thiếu máu, nhiều mức độ và đặc điểm khác nhau của thiếu
máu. Có thể tóm tắt các căn cứ phân loại thiếu máu dựa trên quá trình sinh
máu, đặc điểm và mức độ thiếu máu như sau:[15]
1.2.2.1. Phân loại thiếu máu dựa theo nguyên nhân sinh bệnh
Như chúng ta biết thiếu máu tức là thiếu huyết sắc tố. Quá trình tổng hợp


11


HST gắn liền và song song với quá trình trưởng thành của nguyên hồng cầu.
Các hồng cầu được sinh ra ở tủy máu rồi vào mạch máu, theo tuần hoàn thực
hiện chức năng vận chuyển oxy. Sau một thời gian, hồng cầu sẽ bị hủy ở lách
và hệ liên võng. Cơ thể luôn luôn phải sản sinh hồng cầu thay thế.
Các lý do làm chậm sinh hồng cầu hay làm hồng cầu bị ra khỏi tuần
hoàn sớm ( mất máu) đều dẫn đến thiếu máu.
1.2.2.1.1. Do sinh máu
Máu được sinh ra ở tủy sinh máu. Nhiều nguyên nhân khác nhau làm ảnh
hưởng tới sinh máu đó là có thể do tủy xương( suy tủy xương, giảm sinh tủy,
rối loạn sinh tủy, tủy bị ức chế do u ác tính) hay do thiếu các yếu tố tạo máu:
sắt, vitamin B12, acid folic, protein. Bên cạnh đó các bệnh khác làm rối loạn
điều hòa tạo máu cũng gây thiếu máu.
1.2.2.1.2. Do mất máu
- Chảy máu: có thể cấp tính như xuất huyết tiêu hóa nặng, tai biến sản phụ khoa
hay mất máu do vết thương. Có thể mạn tính như: trĩ, bệnh ký sinh trùng
đường ruột, xuất huyết tiêu hóa nhẹ, đái máu...
- Tạo máu: Bình thường hồng cầu sau khi được sinh ra sẽ mất vào máu và tồn
tại khoảng 120 ngày, sau đó bị hủy ở lách, tổ chức liên võng. Tan máu là tình
trạng hồng cầu bị hủy sớm hơn bình thường. Có nhiều nguyên nhân gây tan
máu, có thể phân chia nguyên nhân tan máu là do tại hồng cầu hay ngoài hồng
cầu.
+ Tan máu do nguyên nhân tại hồng cầu: Hồng cầu bị vỡ sớm có thể do
màng hồng cầu, do thiếu enzym hay huyết sắc tố:
Bệnh màng hồng cầu: bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh như bệnh
Minkowski- Chauffard, hay bị bệnh mắc phải nhu bệnh tan máu kịch phát ban
đêm. Các glycoprotein cấu tạo màng bị biến đổi vì vậy hồng cầu dễ bị vỡ.
Cũng có thể do thiếu một đoạn enzym: bệnh tan máu do thiếu enzym
chuyển hóa trong hồng cầu thường gặp như thiếu hụt glucose 6
phosphatdehydrogenase (G6PD), thiếu pruvatkinase. Thiếu các enzym này, hồng



12

cầu không sử dụng được hiệu quả năng lượng vì vậy không tồn tại được lâu.
Do huyết sắc tố : Do không tổng hợp hay giảm tổng hợp chuỗi globin đó
là bệnh thalassemia, hay đột biến gen globin tạo ra huyết sắc tố bất thường.
+ Tan máu do nguyên nhân ngoài hồng cầu: nhiều nguyên nhân từ bên
ngoài hồng cầu gây tan máu:
Thiếu máu tan máu miễn dịch : Cơ thể sinh kháng thể chống lại hồng cầu
của mình ( bệnh tan máu tự miễn), tan máu do bất thường miễn dịch sau
truyền máu ( bất đồng ngoại hệ ABO), hay bất đồng hệ miễn dịch mẹ con.
Tan máu do nhiễm ký sinh trùng, nhất là ký sinh trùng sốt rét.
Tan máu do nhiễm độc : Độc tố một sô vi khuẩn hay một số thuốc có thể
gây nhiễm độc
Tan máu do bệnh hệ thống : bệnh lupus ban đỏ cũng là bệnh tự miễn, có
thể có tan máu và giảm tiểu cầu.
Thiếu máu do cường lách: lách hoạt động quá mức bình thường gây phá
hủy hồng cầu.
1.2.2.2. Phân loại thiếu máu dựa trên đặc điểm hồng cầu
Chúng ta biết các thông số hồng cầu phản ánh kích thước hồng cầu và
nồng độ huyết sắc tố trong hồng cầu là: thể tích trung bình hồng cầu (MCV)
và nồng độ HST trung bình hồng cầu (MCHC). Căn cứ các thông số này để
đánh giá hồng cầu to hay bình thường hoặc nhỏ, thiếu máu là bình sắc hay
nhược sắc:
1.2.2.2.1. Thiếu máu bình sắc hồng cầu to: MCV trên 100fl MCHC từ 300360g/l.
1.2.2.2.2. Thiếu máu bình sắc hồng cầu bình thường: MCV bình thường (80100fl), MCHC bình thường ( 300 -360g/l).
1.2.2.2.3. Thiếu máu nhược sắc hồng cầu nhỏ: MCV nhỏ hơn 80fl, MCHC
nhỏ hơn 300g/l.
1.2.2.3. Phân loại thiếu máu dựa theo mức độ thiếu máu:



13

Các triệu chứng lâm sàng nhiều khi không phản ánh mức độ thiếu huyết
sắc tố. Người thiếu máu mãn tính có lượng HST 60-70g/l vẫn cảm thấy bình
thường, trong khi cũng lượng HST đó ở một người bị mất máu cấp (tan máu
hay chảy máu nặng) thì biểu hiện nặng. Các trường hợp thiếu máu mãn tính
thì có thể phân loại dựa vào lượng HST như sau:
Ở cả nam và nữ bình thường HST trong máu trên 125g/l. Coi dưới 120g/l
là thiếu máu, có thể chia ra:
-

Thiếu máu nhẹ: HST từ 90 tới dưới 120g/l
Thiếu máu vừa: HST từ 60 tới dưới 90g/l
Thiếu máu nặng: HST từ 30 tới dưới 60g/l
Thiếu máu rất nặng: HST dưới 30g/l
1.2.3. Biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm của thiếu máu
1.2.3.1. Lâm sàng
1.2.3.1.1. Triệu chứng cơ năng

- Cảm giác mệt mỏi, chán ăn, hay bị hoa mắt, chóng mặt nhất là khi thay đổi tư
thế như đang ngồi đứng dậy nhanh.
- Cảm thấy khó thở: Biểu hiện nhẹ là chỉ xảy ra khi gắng sức, đi lại nhiều, biểu
hiện nặng là khó thở thường xuyên.
- Cảm giác đánh trống ngực nhất là khi làm việc nặng.
1.2.3.1.2. Triệu chứng thực thể
Da xanh, niêm mạc nhợt, gan bàn tay trắng, móng tay khum, tóc khô dễ
gãy, ở phụ nữ có thể rối loạn hay mất kinh nguyệt.
Tùy theo nguyên nhân thiếu máu mà có thể biểu hiện

- Sốt, rét run từng con hay sốt liên tục trong tan máu, sốt rét, lơ xê mi.
- Bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng, nhiễm trùng nặng, có thể kèm loét họng
-

trong trường hợp thiếu máu do lơ xê mi hay suy tủy.
Có thể vàng da và niêm mạc, nước tiểu vàng sậm trong tan máu.
Có thể dị dạng mặt, sọ, lách to trong thiếu máu tan máu bẩm sinh.
Có thể xuất huyết trong những trường hợp thiếu máu có kèm giảm tiểu cầu.
Có thể phù: thường gặp trong thiếu máu dinh dưỡng và thiếu máu suy thận


14

1.2.3.2. Biểu hiện xét nghiệm
1.2.3.2.1. Huyết học
- Xét nghiệm huyết đồ: Số lượng hồng cầu giảm, lượng huyết sắc tố, hematocrit
giảm. Chú ý số lượng hồng cầu không phải luôn luôn phản ánh tình trạng và
mức độ thiếu máu. Nhiều trường hợp số lượng hồng cầu bình thường, thậm
chí cao hơn bình thường nhưng vẫn thiếu máu, đó là các trường hợp bệnh
huyết sắc tố, ở bệnh này hồng cầu bệnh nhân rất nhỏ.
Một số thông số hồng cầu: MCV, MCH, MCHC có thể tăng giảm hay
bình thường phụ thuộc nguyên nhân thiếu máu. RDW nói lên mức độ phân bố
của các hồng cầu có kích thước khác nhau. Phân bố rộng là tăng cao RDW
trong một số thiếu máu tan máu đặc biệt là thiếu máu do bệnh huyết sắc tố và
thiếu máu thiếu sắt.
Mối liên quan giữa MCV và RDW cũng có vai trò định hướng nguyên
nhân thiếu máu: Nếu bệnh nhân có hồng cầu lưới >2%, MCV thấp thì
RDWcao gợi ý thiếu máu do thiếu sắt, RDW bình thường thì hay gặp thiếu
máu do các bệnh mãn tính.
- Xét nghiệm tủy đồ: Tùy theo nguyên nhân thiếu máu mà có các hình ảnh tủy

đồ khác nhau.
Hồng cầu lưới ở máu và tủy có thể tăng, bình thường hay giảm tùy
nguyên nhân thiếu máu.
1.2.3.2.2. Xét nghiệm hóa sinh
Một số xét nghiệm hóa sinh có giá trị trong định hướng nguyên nhân
thiếu máu đó là: bilirubin giáp tiếp, sắt huyết thanh, ferritin, haptoglibin.
1.3. Thiếu máu ở phụ nữ mang thai
1.3.1. Định nghĩa thiếu máu ở phụ nữ mang thai
Định nghĩa chính xác thiếu máu ở phụ nữ mang thai rất phức tạp bởi
một số yếu tố như giá trị bình thường của Hb khác nhau giữa nam và nữ, giữa
phụ nữ mang thai và không có thai. Các yếu tố về mức sống, tuổi, tình trạng


15

sinh lý, việc dùng thuốc, hoạt động chủa bệnh nhân trước khi xét nghiệm ...
đều ảnh hưởng đáng kể đến kết quả xét nghiệm.
Ở PNMT có thể có thiếu máu sinh lý do sự tăng không đồng đều giữa thể
tích huyết tương và khối lượng hồng cầu làm cho Hb giảm 1-2g/dl chủ yếu ở
3 tháng giữa thai kỳ. Tình trạng này không gây bệnh lý nhưng có thể làm
nặng thêm tình trạng thiếu máu sẵn có của bệnh nhân
Có nhiều định nghĩa khác nhau của nhiều tác giả về thiếu máu ở PNMT:
- Theo Brideau thiếu máu khi Hb<10g/l , HC<3,5 triệu/mm , Hct<30%
- Theo J.Bernard thiếu máu khi Hb <10,5g/dl, HC<3,5 triệu/mm , Hct<30%
- Trung tâm giám sát bệnh tật ở Mỹ đưa ra định nghĩa về thiếu máu ở PNMT
khi Hb <10,5 g/dl ở 3 tháng giữa thai kỳ, Hb<11g/dl ở 3 tháng đầu và 3 tháng
cuối thi kỳ[16]
Theo WHO định nghĩa về thiếu máu ở PNMT khi Hb < 110g/l [14].
1.3.2. Phân loại thiếu máu ở PNMT của tổ chức y tế thế giới năm 2011[14].
- Thiếu máu nhẹ: Hb 100- 109g/l

- Thiếu máu trung bình: Hb 70 – 99g/l
- Thiếu máu nặng: Hb<70g/l
1.3.3. Chẩn đoán thiếu máu ở phụ nữ mang thai
1.3.3.1. Thiếu máu nặng
Thiếu máu cấp tính :
Khối lượng tuần hoàn giảm cấp tính dẫn đến giảm oxy máu, ảnh hưởng
đến các mô tế bào trong cơ thể.
- Biểu hiện lâm sàng như sau:
+ Da xanh, niêm mạc nhợt
+ Lòng bàn tay trắng bệch
+ Tim nhịp tim nhanh, có thể có tiếng thổi tâm thu thiếu máu.
+ Huyết áp động mạch giảm
+ Nếu mất máu trên 1l máu thì huyết áp động mạch giảm dưới mức
bình thường
+ Nếu mất máu từ trên 1,5 l máu sẽ xảy ra trụy tim mạch, huyết áp
động mạch không đo được.


16

+ Hô hấp; khó thở
+ Thần kinh: đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, ngất
+ Cơ và khớp: mỏi các cơ đi lại khó khăn
Thiếu máu mãn tính:
+Da xanh xảy ra từ từ
+Niêm mạc môi, mắt, dưới lưỡi nhợt nhạt, lưỡi trơn hay nứt nẻ
+Móng tay khô mất bóng, có khía dọc và dễ gãy, có thể có móng tay khum
+Tim: Nhịp tim nhanh, có thể có tiếng thổi tâm thu thiếu máu. Nếu
thiếu máu lâu ngày và nặng sẽ dẫn đến suy tim
+Hô hấp: khó thở khi gắng sức, nhịp tim nhanh

+Thần kinh: nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, thoáng ngất và ngất
+Cơ và khớp mệt mỏi khi đi lại làm việc
+Rối loạn tiêu hóa; ăn kém, ỉa lỏng hoặc táo bón, gầy sút cân.
1.3.3.2. Thiếu máu nhẹ và trung bình
Dấu hiệu lâm sàng nghèo nàn chủ yếu dựa vào xét nghiệm
• Cận lâm sàng
- Xét nghiệm huyết học để định lượng Hb, đếm số lượng hồng cầu, Hematocit
- Trên phụ nữ mang thai bị thiếu máu sẽ có biểu hiện Hb<11g/dl, có thể thấy
HC<3,5 triệu/mm , Hct<30%[14]
1.3.4. Nguyên nhân thiếu máu
1.3.4.1. Thiếu máu do thiếu sắt
Sắt trong thức ăn vào ống tiêu hóa nhờ acid chlohdric và vitaminC hấp
thụ qua niêm mạc ruột vào huyết tương. Tại đây sắt được vận chuyển nhờ
chất transferin tới nơi dự trữ ở tổ chức dưới dạng ferritin, hemosideren (gan,
lách) hoặc hem của men (xytocrom, myoglobin, hemoglobin...) Đây là hỗn
hợp sắt thay đổi. Tại tủy xương, sắt kết hợp với protoporphyrin thành hem để
hình thành hemoglobin.
Nhu cầu sắt trong cơ thể phụ thuộc vào tuổi, giới, và những tiêu hao hằng
ngày, tiêu hao bất thường như kinh nguyệt, có thai, cho con bú. Bình thường,
mỗi ngày cơ thể nữ cần khoảng 2,5mg sắt.[17]


17

Bình thường, hàm lượng sắt trong huyết thanh của nữ giới là 7-26 µmol/l
máu. Thiếu máu thiếu sắt khi hàm lượng sắt trong huyết thanh giảm dưới
ngưỡng trên.[15]
Trong số các khoáng chất của cơ thể, sắt là một nguyên tố quan trọng. Cơ
thể người trưởng thành có khoảng 3-4 g sắt. Phần lớn lượng sắt có trong Hb,
còn lại dự trữ ở gan, lách, thận, tủy xương.[18]

Khi không có thai, trong khi có kinh người phụ nữ mất khoảng 25mg sắt,
mất qua da khoảng 15mg, tổng lượng sắt bị mất 40mg/ tháng. Như vậy hấp
thu qua thức ăn phải đủ 40mg/tháng.[19]
Nếu sắt hấp thu không đủ để đáp ứng nhu cầu của cơ thể do lượng sắt
trong khẩu phần ăn giảm, do có thai nhu cầu sắt tăng lên hay do mất máu sẽ
xảy ra tình trạng thiếu sắt kéo dài gây thiếu máu. Tổng lượng sắt cần cho thời
kỳ có thai trung bình là 1000mg, trong đó 300-500 mg để tổng hợp
hemoglobin, 250-300 mg giúp thai phát triển, 30-100 mg cần cho máu thai và
bánh rau.[18]
Chảy máu khi sổ rau bình thường khoảng 300ml cũng gây mất 150 mg
sắt. Như vậy, khi có thai cần khoảng 700mg sắt và cơ thể phải hấp thu được
2,5mg/ngày. Nhu cầu sắt tăng theo tuổi thai, 3 tháng đầu cần 1mg/ngày, 3
tháng cuối cần 0,6mg/ngày.[9]
Với chế độ ăn uống đầy đủ, mỗi ngày cũng chỉ cấp cho cơ thể khoảng
1,5mg sắt, sự thiếu hụt phải lấy ở nơi dự trữ, vì vậy nếu người mẹ ngay từ đầu
chỉ có dữ trữ sắt hoặc không có sẽ xảy ra tình trạng thiếu sắt nghiêm trọng.
Qua nghiên cứu, người ta thấy 30% phụ nữ ở lứa tuổi sinh đẻ không có dự trữ
sắt. Dự trữ sắt thiếu ở 50% PNMT lần đầu.[20]
Thiếu máu thiếu sắt thường gặp ở thai phụ lớn tuổi và trẻ tuổi, đẻ nhiều
lần, một số bệnh mãn tính: bị sốt rét gây tan máu, trĩ, ung thư dạ dày, ung thư


18

trực tràng, u xơ tử cung gây chảy máu, mất máu rỉ rả, giun móc không những
hút máu mà còn gây viêm tá tràng không hấp thu được sắt,tá tràng là nới hấp
thu nhiều sắt nhất, các bệnh có rối loạn tiêu hóa như viêm ruột, viêm dạ dày
thì khả năng hấp thu sắt kém.Thiếu máu thiếu sắt, hình ảnh hồng cầu thay đổi,
hồng cầu nhỏ, không đều, nhược sắc.
Thiếu máu thiếu sắt chiếm đại đa số các trường hợp thiếu máu trong quá

trình mang thai. Theo Đào Văn Chính, thiếu máu do thiếu sắt chiếm khoảng
80% các trường hợp thiếu máu khi có thai, 10-20% các PNMT có chế độ ăn
đầy đủ bị thiếu máu do thiếu sắt, tỷ lệ này càng cao hơn nhiều ở những người
đẻ nhiều, đẻ dày và cho con bú kéo dài.[9]
Nghiên cứu trên 300 phụ nữ mang thai tại Plastin phân tích nồng độ
ferritin huyết thanh cho thấy 156 phụ nữ mang thai (52%) có nồng độ ferritin
huyết thanh dưới 15 ng / mL.[21]
Nghiên cứu trên 33 phụ nữ có thai bình thường ở 3 tháng cuối thai kỳ
đến khám thai tại khoa Sản bệnh viện Thanh Nhàn – Hà Nội năm 1994, Hà
Huy Khôi và các cộng sự cho thấy: dự trữ sắt bình thường ở thai phụ không
thiếu máu, khi lượng Hb 6-8g/l dự trữ sắt cạn kiệt, từ đó nhận định rằng thiếu
sắt là quan trọng dẫn đến thiếu máu ở các đỗi tượng nghiên cứu.[22]
Sukrat B và Sirichitiyakul S nghiên cứu năm 2006 trên 648 phụ nữ có
thai ở bệnh viện Maharaj Chiang Mai, Thái Lan, kết quả cho thấy: tỷ lệ thiếu
máu là 20,1 %: phân chia thiếu máu theo từng thai kỳ là 17,3%, 23,8% và
50% tương ứng với quý 1,2 và 3. PNMT bị bệnh thalassemia và các bệnh
khác là 56 trong tổng số 102 PNMT bị thiếu máu (54,9%). Trong 58 thai phụ
thiếu máu, có 25 trường hợp thiếu máu do thiếu sắt. Các nguyên nhân khác
gây thiếu máu là nhiễm ký sinh trùng (8,7%), thiếu máu do các bệnh mãn tính
(2,7%), 37 trường hợp (33%) không xác định được các nguyên nhân thiếu máu.
1.3.4.2. Thiếu máu do thiếu acid folic


19

Các dẫn xuất acid folic tham gia vào cơ chế chuyển hóa một số acid
amin cần thiết cho sự tổng hợp protein của cơ thể. Thiếu acid folic, quá trình
phân chia tế bào bị giảm sút vì acid folic tham gia tổng hợp bazo purin và
pyrimidin của aid nucleic.
Aicd folic không được dữ trữ trong cơ thể. Trong khi có thai, cơ thể phát

triển mạnh, phân bào mạnh đòi hỏi nhiều acid folic. Nếu không thỏa mãn
được, thiếu acid folic sẽ là nguyên nhân gây thiếu máu ở người mẹ.
Nghiên cứu của Daniel tại Mỹ cho thấy, PNMT cần ít nhất 500mg acid
folic mỗi ngày. Wiloughby và Jewell thấy rằng 350 mg acid folic mỗi ngày sẽ
đảm bảo duy trì nồng độ acid folic trong huyết tương ở mức độ bình thường
của PNMT.
Nguyên nhân chính của thiếu máu hồng cầu to ở PNMT là do nhu cầu
acid folic tăng lên một cách đáng kể. Tình trạng thiếu acid trong khẩu phần ăn
không phải là nguyên nhân chủ yếu gây ra thiếu máu HC to, ngoài ra còn có
các nguyên nhân khác như nôn nghén kéo dài, viêm dạ dày ruột kéo dài, kém
hấp thu, chế độ ăn kiêng..
Ở châu Âu, tỷ lệ bệnh là khoảng 2% ở PNMT. Ở những nước kinh tế
đang phát triển, tỷ lệ mắc cao hơn, thường phối hợp nhiều nguyên nhân: thiếu
chất, kém hấp thu do các bệnh đường ruột.
1.3.4.3. Thiếu máu do bệnh huyết sắc tố
Người mang gen thalassemia đặc trưng bởi sự giảm tổng hợp của một
trong hai chuỗi polypeptide (α hoặc β) cấu tạo nên phân tử hemoglobin người
lớn bình thường (HbA, α2 β2 ), gây hậu quả giảm hemoglobin trong hồng cầu
và thiếu máu.
1.3.4.3.1. β thalassemia là bệnh huyết sắc tố do giảm hoặc mất khả năng tổng
hợp chuỗi β.
Bình thường gen globin nằm trên nhiễm sắc thể số 11 chịu trách nhiệm
tổng hợp chuỗi β. Nhiều đột biến làm giảm hoặc mất khả năng tổng hợp chuỗi


20

β đã được phát hiện. Đột biến ở một nhiễm sắc thể gọi là dị hợp tử, ở hai
nhiễm sắc thể gọi là đồng hợp tử.
Khi bị bệnh, do thiếu chuỗi β gây thừa tương đối chuỗi α, những chuỗi α

thừa là nguyên nhân của tan máu, đồng thời cơ thể sẽ tổng hợp khác chuỗi
khác bù trừ, tổng hợp chuỗi δ tạo huyết sắc tố A2.
• Thể nặng ( bệnh Cooley): nguyên nhân do đột biến cả 2 gen globin
β. Biểu hiện lâm sàng rất nặng: Thiếu máu, vàng da nước tiểu sẫm
màu, lách to từ bé. Mức độ thiếu máu nặng phải truyền máu. Xét
nghiệm thấy hồng cầu, huyết sắc tố giảm, hồng cầu nhỏ, đa dạng
kích thước không đều, nhiều mảnh vỡ hồng cầu, hồng cầu lưới tăng
có nhiều hồng cầu non trong máu, sức bền hồng cầu tăng. Xét
nghiệm điện di huyết sắc tố hầu như không có huyết sắc tố A, tăng
huyết sắc tố F, A2. Xét nghiệm sinh hóa máu thấy tăng cao sắt,
ferritin huyết thanh và bilirubin gián tiếp. Bệnh diễn biến ngày càng
nặng. Cá biến chứng do ứ sắt như suy gan, tụy .. cũng có thể là
nguyên nhân tử vong.[23]
• β thể trung gian: biểu hiện lâm sàng ở tuổi lớn hơn và nhẹ hơn, bệnh
nhân cũng có thiếu máu, vàng da, lách to, nhiều trường hợp không
phải truyền máu. Xét nghiệm thấy huyết sắc tố giảm mức độ vừa
• β thể nhẹ: biểu hiện lâm sàng là thiếu máu nhẹ, nhiều khi không có
triệu chứng, phát hiện qua xét nghiệm máu định kỳ. Biểu hiện xét
nghiệm là hồng cầu tăng số lượng, giảm kích thước, nhược sắc nhẹ,
hồng cầu lưới có thể tăng. Hình ảnh điện di huyết sắc tố là tăng tỷ lệ
huyết sắc tố F nhưng dưới 30%, có thể tăng A2.
1.3.4.3.2. α thalassemia là bệnh do giảm hoặc mất khả năng tổng hợp chuỗi
globin α


21

Khi giảm hoặc mất khả năng tổng hợp chuỗi globin α, cơ thể sẽ thừa
tương đối chuỗi


( ở bào thai) tạo thành HST Bart’s ( bốn chuỗi ) và thừa

chuỗi β sau khi sinh tạo thành HST H ( gồm 4 chuỗi β). Bình thường gen α
nằm trên NST 16, mỗi nhiễm sắc thể có 2 gen α. Như vậy cơ thể bình thường
có 4 gen α. Tổn thương gây đột biến hay mất gen có thể xảy ra từ 1 đến 4 gen.
Thể nặng nhất là mất cả 4 gen α, thể lấm sàng hay gặp nhất là mất 3 gen α.
Các trường hợp do mất hay tổn thương 1-2 gen α thường nhẹ không biểu hiện
lâm sàng. [23]
• Thể đồng hợp tử α thalassemia ( bệnh HST Bart’s) là trường hợp
tổn thương cả 4 gen α, bệnh nặng ngay từ thời kỳ thai nhi. Thai bị
phù và chết trước hoặc ngay sau khi sinh, bánh rau to và mủn. Xét
nghiệm thấy hồng cầu nhỏ và không đều, nhiều mảnh vỡ. Điện di
huyết sắc tố chỉ thấy huyết sắc tố Bart’s.
• Bệnh HST H là do dị hợp tử, mất hay tổn thương 3 gen α, chỉ còn
1 gen α hoạt động chuỗi α được tổng hợp ít hơn bình thường, ở trẻ
sơ sinh ngoài HST A còn gặp HST Bart’s, ở trẻ em và người lớn
thì HST H. Biểu hiện lâm sàng ở mọi lứa tuổi, nhiều trường hợp
đến tuổi trưởng thành mới phát hiện bệnh, thể hiện thiếu máu, có
thể lách to vừa, vàng da, bệnh có tính mãn tính; thiếu máu vàng da
nặng khi bị nhiễm trùng, thường có sỏi mật
• Bệnh α thalassemia thể nhẹ và thể ẩn: là những trường hợp bệnh lý
do mất 1 hay 2 gen α. Biểu hiện là thiếu máu nhẹ nhiều khi không
có triệu chứng. Xét nghiệm có hồng cầu nhỏ nhược sắc, sức bền
hồng cầu tăng. Xét nghiệm điện di huyết sắc tố lúc sinh phát hiện
HST Bart’s nhưng ở tuổi trưởng thành ít khi phát hiện HST H.
Chẩn đoán dựa vào phân tích AND gen α.
1.3.4.4. Các nguyên nhân hiếm gặp khác


22

• Thiếu máu ác tính do thiếu vitamin B12
Bệnh hiếm gặp, hiếm xảy ra trong thời kỳ có thai. Nguyên nhân có thể do
rối loạn tiêu hóa, do cắt đoạn dạ dày... gây mất yếu tố nội do vùng đáy dạ dày
tiết ra nên không hấp thụ được vitamin B12 là yếu tố ngoại.


Thiếu máu do suy tủy xương
Một vài trường hợp suy tủy xương không rõ nguyên nhân ở PNMT, cơ

chế bệnh sinh chưa rõ. Suy tủy có thể hết đi sau khi đẻ và tái phát ở lần có
thai sau
• Thiếu máu do mất máu cung cấp: gây nên do sảy thai, thai ngoài tử cung, rau
bong non, rau tiền đạo, thai trứng...
1.4. Các nghiên cứu đã có trong và ngoài nước
1.4.1. Các nghiên cứu đã có trong nước
Nước ta nằm trong khu vực Đông Nam Á, có tỷ lệ ở PNCT rất cao.
Nghiên cứu đầu tiên năm 1950 của Ủy ban liên khoa về dinh dưỡng đối với
phòng bệnh quốc gia Việt Nam nghiên cứu này chỉ mới điều tra về nồng độ Hb
của 46 PNCT và được WHO ước tính khoảng 50% PNCT bị thiếu máu[24].
Năm 1993, tại Hà Nội, Nguyễn Công Khanh và Lê Xuân Ngọc nghiên cứu
trên 318 PNCT thấy tỉ lệ thiếu máu là 37,1 %, tỷ lệ này tăng dần theo tuổi thai.
Năm 1996, nghiên cứu tại bệnh viện Châu Đốc – An Giang, thiếu máu ở
PNCT là 35,6%, trong đó 87,5% là thiếu máu thiếu sắt [25].
Năm 2001, Nguyễn Thị Minh Yên nghiên cứu trên 355 PNCT đẻ tại
bệnh viện BVBMTSS thất rằng tỷ lệ thiếu máu là 62%, trong đó chủ yếu là
thiếu máu mức độ nhẹ (94,1%), còn lại là thiếu máu trung bình (5,9%), không
có trường hợp nào thiếu máu nặng[26].
Năm 2001 Nguyễn Viết Trung nghiên cứu trên 416 PNCT và 35 phụ nữ
không có thai tại khoa sản viện Quân y 103, thấy tỉ lệ thiếu máu là 37,02%,



23

hầu hết là thiếu máu nhẹ[27].
Nghiên cứu của Hoàng Thế Nội trên 450 PNCT tại 10 xã của huyện
Khoái Châu – Hưng Yên (2007) cho thấy tỉ lệ thiếu máu của PNMT là 25,1%.
PNMT ở độ tuổi có tỷ lệ cao nhất chiếm 63% [28].
Tỷ lệ PNCT thiếu máu liên quan đến nghề nghiệp, trình độ văn hóa.
Nguyên nhân thiếu máu chủ yếu là do thiếu dinh dưỡng, thiếu sắt, thiếu acid
folic, protein..Thiếu máu còn liên quan đến một số yếu tố miễn dịch có vai trò
trong quá trình tạo máu như GM – CFS, IL – 6 tăng cao ở PNCT bị thiếu
máu. Thiếu máu ở PNCT dễ gây ra các tai biến như sảy thai, đẻ non, băng
huyết, tỷ lệ đẻ khó và mổ lấy thai cao: chiều cao và cân nặng của trẻ sơ sinh ở
thai phụ thiếu máu thấp hơn so với sơ sinh của thai phụ không thiếu máu [27].
1.4.2. Các nghiên cứu nước ngoài
Năm 1990, trong nghiên cứu về tỷ lệ thiếu máu ở PNCT tại Brasil người
ta thấy tỷ lệ thiếu máu là 12,4%, trong đó tỷ lệ thiếu máu quý 1 là 3,3%, quý 2
là 20,9%, quý 3 là 32,1%. PNCT trên 3 lần thì tỷ lệ thiếu máu cao hơn những
PNCT dưới 3 lần. Nhóm thai phụ có thu nhập thấp hơn 25 USD/tháng có tỷ lệ
thiếu máu cao hơn[29].
Trong nghiên cứu về tỷ lệ thiếu máu của 279 PNCT lần đầu đến khám tại
khoa chăm sóc tiền sản của trung tâm y tế Jima – Ethiopia năm 1993, người ta
thấy tỷ lệ thiếu máu chung là 48%, trong đó nông thôn chiếm 56,8%, thành thị
chiếm 43,2 %. Nồng độ Hb trung bình là 10,9 g/dl đối với phụ nữ thiếu máu
là 6,5 g/dl, đa số thiếu máu vừa, tỷ lệ thiếu máu nặng chiếm 2,5 %. Tỷ lệ cao
ở nhóm thất học và nhóm không áp dụng biện pháp tránh thai , trong 3 tháng
cuối thai kỳ và tăng theo số lần mang thai[30].
Năm 1993, Ogbeide O, nghien cứu trên 435 PNCT đến khám tại bệnh viện
Benin (Nigeria) cho thấy tỉ lệ thiếu máu là 20,7%, trong đó có 2,8% là thiếu
máu nặng, thiếu máu ở độ tuổi 30 – 39 là cao hơn so với độ tuổi khác [31].



24

Nghiên cứu của Ishag Adam và cs tại miền đông Sudan (2004) cho tỷ lệ
thiếu máu ở PNCT là 62,6% [32].
Bổ sung sắt trước và trong quá trình mang thai sẽ cải thiện tình trạng
thiếu máu thiếu sắt. Ví dụ, phụ nữ Đan Mạch chế độ dinh dưỡng tốt đã được
dùng giả dược hoặc 66 mg Fe / d dưới dạng sắt fumarate bắt đầu vào tuần thứ
16 của thai kỳ. Trong nhóm giả dược 65% phụ nữ bị thiếu sắt tiềm ẩn và 18%
phụ nữ bị thiếu máu do thiếu sắt. Còn trong nhóm được bổ sung sắt, có 6% phụ
nữ bị thiếu sắt tiềm ẩn và không có phụ nữ nào bị thiếu máu do thiếu sắt [33].
Một nghiên cứu ngẫu nhiên, thực hiện trên 50 bệnh nhân có nồng độ
hemoglobin trong khoảng từ 8 đến 10 g/dL và giá trị ferritin <50 μg/L. Uống
240 mg sắt sulfate mỗi ngày trong 4 tuần. Sau 30 ngày nồng độ hemoglobin
từ9,7 ± 0,5 g/dL lên 11 ± 1,25 g/dL[34].
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Gồm các phụ nữ mang thai đến khám tại khoa khám bệnh Bệnh viện
phụ sản Trung Ương
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm thai phụ
- Phụ nữ mang thai có nơi cư trú thuộc các quận của Thành phố Hà
Nội[14]
- Đồng ý làm xét nghiệm RBC, HCT, MCV, MCH, MCHC, RDW, sắt, ferritin,
điện di hemoglobin.
- Được chẩn đoán Hb < 100g/l.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Thai ngừng phát triển trong tử cung.[35]
2.2. Thời gian và đại điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2020 tại bệnh
viện PSTW


25

2.3. Phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3.1. Cỡ mẫu
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho một tỷ lệ:
Với:
n

: là cỡ mẫu nghiên cứu

Z(1-α/2 ): Giá trị tương ứng của hệ số giới hạn tin cậy đòi hỏi, với độ tin
cậy là 95% thì Z(1-α/2 )= 1.96.
p

: Là tỷ lệ phụ nữ mang thai có lượng huyết sắc tố dưới 100g/l

d

: Là sai số cho phép

Do chưa có tỷ lệ phụ nữ mang thai có lượng huyết sắc tố dưới 100g/l tại
Bệnh viện PSTW nên chúng tôi lấy tỷ lệ ở Khoa sản Bệnh viện Bạch Mai
theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Dung là 3,33% [36]
Với d=0,05. Thay vào công thức ta có
Cỡ mẫu tính ra là 49.
Do chúng tôi muốn tiến hành nghiên cứu cả 3 quý nên cỡ mẫu sẽ là

49x3=147.
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu
Lấy mẫu những PNCT có tuổi thai dưới 13 tuần 06 ngày được chẩn đoán
thiếu máu đến khám tại bệnh viện PSTW đến khi đủ cỡ mẫu.
2.3.3. Các biến số và chỉ số nghiên cứu
-

• Đặc điểm chung về phụ nữ có thai
Tuổi PNCT : <20, 20-34, >35
Nghề nghiệp: Viên chức, công nhân, nông dân, khác
Bổ sung sắt: Có, không
Lần có thai thứ mấy: 1 lần, 2 lần, ≥3 lần
Số lần nạo hút, sảy thai: 0 lần, 1lần, ≥2 lần
Số con đã có: <2 con, ≥2 con
• Các thông số đánh giá tình trạng thiếu máu
Hb (g/l)
Số lượng hồng cầu


×