Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luận văn thạc sĩ: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.75 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THẢO VÂN

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THẢO VÂN

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi
trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Đặng Thị Thảo Vân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI ................................ 8
1.1. Khái niệm áp dụng các biện pháp ngăn chặn tố tụng hình sự ................... 8
1.2. Các yêu cầu và ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người phạm tội .......................................................................................... 12
1.3. Các đặc điểm của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
phạm tội ........................................................................................................... 16
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................................. 26
2.1. Tổng quan về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng........................................................................................................... 26
2.2. Những vi phạm, sai lầm trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người phạm tội tại thành phố Đà Nẵng và nguyên nhân .................... 53

CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI .................... 62
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn đối với
người phạm tội ................................................................................................ 62
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn đối với
người phạm tội ................................................................................................ 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

LHQ

Liên hiệp quốc


TA

Tòa án

TTHS

Tố tụng hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng

VKS

Viện kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Số đối tượng phạm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (2017 –
2018)................................................................................................................ 27
Bảng 2.2. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ người tại địa
bàn thành phố Đà Nẵng (2017 – 2018) ........................................................... 29
Bảng 2.3. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người tại địa
bàn thành phố Đà Nẵng (2017-2018) .............................................................. 33
Bảng 2.4. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ tại địa bàn

thành phố Đà Nẵng (2017-2018) .................................................................... 38
Bảng 2.5. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại địa
bàn thành phố Đà Nẵng (2017-2018) .............................................................. 41
Bảng 2.6. Số đối tượng bị áp dụng biện ngăn chặn pháp bảo lĩnh tại địa
bàn thành phố Đà Nẵng (2017-2018) .............................................................. 43
Bảng 2.7. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư
trú tại địa bàn thành phố Đà Nẵng (2017-2018) ............................................. 50
Bảng 2.8. Số đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm hoãn xuất
cảnh tại địa bàn thành phố Đà Nẵng (2017 - 2018) ........................................ 52


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biện pháp ngăn chặn là một chế định pháp luật quan trọng của Bộ luật
tố tụng hình sự, là một thành phần của nhóm biện pháp cưỡng chế. Các biện
pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế, cưỡng ép nghiêm khắc để kịp thời ngăn
chặn các hành vi phạm tội, nhằm ngăn ngừa bị can, người phạm tội, bị cáo
hoặc tiếp tục phạm tội, né tránh pháp luật hoặc có cử chỉ hành vi gây phức tạp
cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và cuối cùng nhằm bảo đảm việc thi
hành án hình sự. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn có vai trò và ý nghĩa rất
quan trọng trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Bên cạnh đó, việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn phải bắt buộc gắn chặt với những hạn chế về quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân đã được thừa nhận cũng như bảo đảm trong
Hiến pháp của nước ta.
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn ở nước ta nói
chung và ở thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây cho thấy, các biện
pháp này, đặc biệt là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được áp dụng khá
phổ biến trong các vụ án hình sự. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong
nhiều tình huống đã kịp thời ngăn chặn diễn biến của việc phạm tội, chặn
ngay lại hành vi trốn tránh pháp luật của bị cáo, bị can và người phạm tội

cũng như chắc chắn cho việc thi hành án hình sự đạt kết quả. Bên cạnh những
kết quả đã đạt được, vẫn còn tình trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn trái
pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, gây dư luận xấu
trong nhân dân.
Nguồn gốc của tình hình trên có nhiêu tuy vậy chủ đạo là các chế định
của pháp luật tố tụng hình sự vẫn thiếu sót, chưa chặt chẽ, chồng lấn làm cho
khó khăn để thống nhất áp dụng pháp luật; nhiều trường hợp trình độ điều tra
1


viên, kiểm sát viên, thẩm phán còn yếu kém, chưa đáp lại được đòi hỏi, nhiệm
vụ với tình hình hiện nay. Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng đã
đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự phải tiếp
tục nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như: khái niệm biện
pháp ngăn chặn, khái niệm biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, tạm hoãn xuất cảnh. Trong
khi đó xung quanh những vấn đề lý luận này, cũng còn có nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Bắt nguồn từ các lý do đã nêu trên, tôi xin lựa chọn đề tài: “Áp dụng
các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng” để hoàn thành luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giai đoạn khoảng 10 năm gần đây, biện pháp ngăn chặn là chủ đề
được nghiên cứu dưới nhiều góc nhìn khác với phạm vi nghiên cứu khái quát
từ hẹp đến rộng, có thể khái quát thành 3 nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất, bao gồm luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ và đề tài
nghiên cứu khoa học như: Nguyễn Ngọc Thương (2006) “Thủ tục tố tụng
hình sự đối với những vụ án do người chưa thành niên thực hiện. Lý luận và
thực tiễn”; Lê Trọng Nghĩa (2003) “Các biện pháp ngăn chặn không giam giữ
(Cấm đi khỏi nơi cư trú, Bảo lĩnh, Đặt tiền hoặc tài sản bảo đảm) trong Luật

tố tụng hình sự Việt Nam”;; Lê Đông Phong (2004) “Các biện pháp ngăn
chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”; Phạm Văn
Nhung (2008) “Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam”; Trần Thanh Bình
(2009) “Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình
sự”; Võ Thị Thanh Thúy (2011) “Bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa
thành niên phạm tội trong Tố tụng hình sự Việt Nam; Lê Ngọc Tiến

2


(2003)“Các biện pháp ngăn chặn và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp ngăn chặn tại Thành phố Hồ Chí Minh”…
Nhóm thứ hai, bao gồm sách và giáo trình như: Nhà xuất bản Công an
nhân dân, Tp Hồ Chí Minh; Nguyễn Mai Bộ (2004), Biện pháp ngăn chặn,
khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự, Nhà xuất bản tư
pháp, Hà Nội; Nguyễn Mai Bộ (1997); Nguyễn Ngọc Anh (2009), Bình luận
khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nguyễn Duy Thuân (2004), Các
biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Những biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội , Giáo trình
Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Nhà
xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; Đại học Luật Hà Nội (2005) …
Nhóm thứ ba, bao gồm các bài viết được công bố trên các tạp chí như:
Tạp chí Tòa án nhân dân; Đoàn Tấn Minh (2009), “Áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên theo quy định của
BLTTHS”, Tạp chí Tòa án nhân dân; Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng (2004), “Tư
pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình
sự, Tố tụng hình sự, Tội phạm học và so sánh luật học”, Tạp chí Tòa án nhân
dân; Nguyễn Mai Bộ (2006), “Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ,
tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân;
Nguyễn Mai Bộ, Hoàng Ngọc Thành (2003) “Về các biện pháp ngăn chặn

trong Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi”, Tạp chí Tòa án nhân dân,
Trịnh Tiến Việt (2005), “Về biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa
thành niên phạm tội trong BLTTHS 2003”, Tạp chí Tòa án nhân dân; Đỗ Thị
Phượng (2006), “Bắt, tạm giữ, tạm giam và giám sát bị can, bị cáo chưa thành
niên”…
Các đề tài nghiên cứu vừa liệt kê ỏ trên đã làm sáng tỏ phân tích và
được các vấn đề quan hệ đến biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người
3


phạm tội ớ các góc nhìn nghiên cứu khác nhưng các chủ đề bao quát nhất hay
như một trong các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người phạm tội. Đến
thời điểm hiện tai có thể chắc chắn là chưa có đề tài nào phân tích trực tiếp về
các thành tích đã đạt cũng như các thắc mắc trong việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn tại địa bàn thành phố Đà Nẵng để qua đó đề ra phương pháp hoàn
chỉnh pháp luật tố tụng hình sự đồng thời phát huy hiệu quả của việc áp dụng
biện pháp này.
Vì vậy, tôi cam đoan khẳng định đề tài luận văn thạc sĩ của mình không
sao chép và trùng lặp với mọi đề tài nghiên cứu đã được công bố từ trước đến
giờ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên những nguyên tác cũng như phân tích và nghiên cứu đã làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận cũng như quy định của quy định pháp luật về tố tụng
hình sự về các biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng đồng thời bao quát thực tiễn áp dụng các biện pháp trong quá
giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử, luận văn cũng đã khái quát lại các giải
pháp nhằm đẩy mạnh công tác áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong việc áp
dụng Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Những mục tiêu nghiên cứu đã trình bày, luận văn đã đề đạt cũng như
làm rõ các nhiệm vụ sau::
- Hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người phạm tội.
- Xem xét cụ thể đồng thời phân tích, làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người phạm
tội.
4


- Làm sáng tỏ thực tế việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người phạm tội trên địa bàn thành phố Đà nẵng, qua đó sẽ làm rõ những hạn
chế cũng như nguyên nhân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người phạm tội tại thành phố.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đề cao nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp luật Bộ luật tố
tụng hình sự đồng thời đưa ra thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật
Việt Nam về các biện pháp ngăn chặn đối với phạm tội trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn mà không phân
tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ngoài.
- Về địa bàn khảo sát: Luận văn nêu lên thực trạng áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với người phạm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chứ
không thống kê, khảo sát, phân tích các số liệu ở các tỉnh thành khác.
- Về thời gian khảo sát: Luận văn phân tích và nghiên cứu trên cơ sở
các dữ liệu thống kê có được về các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối
với người phạm tội từ giai đoạn 2017 - 2018 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu từ cơ sở phương pháp luận tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước & pháp luật và chủ nghĩa Mác - Lênin , quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩam, về
chính sách nhân đạo nhưng mang tính nhân văn đối với người phạm tội, các về
vấn đề cải cách tư pháp của Bộ chính trị, về công tác đấu tranh phòng chống tội
5


phạm hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Học viên áp dụng phương pháp phổ biến hiện nay về việc nghiên cứu
khoa học như: tổng hợp, phân tích, thống kê, học hỏi các ý kiến của chuyên gia
từ đó vận dụng được cách thức tiếp cận đề tài. Các biện pháp đề tài nghiên cứu
chỉ rõ các quan hệ biện chứng được hỗ trợ nhau trong quy trình của Bộ luật tố
tụng hình sự thực hiện nhiệm vụ để làm rõ mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài tạo một phần nhận thức sâu sắc về các biện pháp ngăn chặn được
áp dụng đối với người phạm tội. Làm sáng tỏ được các vấn đề bất cập và hạn
chế khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn so với quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003. Đóng góp các kiến nghị để hướng tới việc hoàn chỉnh
hệ thống pháp luật của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội. Từ các vấn đề nêu trên đã đẩy
mạnh hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của công dân Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu này giả sử được áp dụng vào thực tế sẽ giảm bớt thời
gian trong việc quy định của pháp luật cũng như việc áp dụng các biện pháp

ngăn chặn đối với người phạm tội; đây sẽ là cẩm nang tài liệu nghiên cứu cho
các người tham gia tố tụng hình sự đang công tác tại các Cơ quan điều tra
như Điều tra viên, Viện kiểm sát như Kiểm sát Viên và Tòa án chính là Thẩm
phán và Thư ký Tòa án trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người phạm tội được chính xác, khách quan và không bị vi phạm tố tụng.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn mà học viên nghiên cứu gồm 3 chương:
6


Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người phạm tội.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng đối với người phạm tội.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người phạm tội.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm áp dụng các biện pháp ngăn chặn tố tụng hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp
dụng nhiều biện pháp trong đó có các biện pháp ngăn chặn. Các biện pháp
ngăn chặn là một trong những chế định pháp lý quan trọng được quy định tại
Mục I, Chương VII BLTTHS năm 2015, đồng thời việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn cũng được quy định rõ tại Điều 419 BLTTHS năm 2015. Quá
trình lĩnh hội được các quy định cũng như áp dụng đúng và chính xác được

các biện pháp ngăn chặn là để đảm bảo cần thiết cho việc áp dụng tốt các
nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự để phát hiện nhanh chóng, chính xác, xử
lý kịp thời và công bằng đối với mọi hành vi phạm tội, từ đó đảm bảo việc
không bỏ lọt tội phạm, không gây oan sai.
BLTTHS hiện hành quy định những biện pháp ngăn chặn trong Mục I,
Chương VII bao gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm
tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can bị cáo để tạm giam, tạm giữ,
tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn
xuất cảnh.
Các biện pháp ngăn chặn mang tính ép buộc nghiêm khắc cũng như có
tính cưỡng chế là để nhanh chóng chặn đứng các hành vị phạm tội, ngăn chặn
bị can, bị cáo nói riêng cũng như người phạm tội nói chung có khả năng tiếp
tục phạm tội hay trốn tránh pháp luật cũng như có hành vi gây khó khăn cho
quá trình điều tra, truy tố, xét xử và cuối cùng là đảm bảo việc thi hành án
hình sự. Các biện pháp ngăn chặn là nền tảng pháp lý có ý nghĩa vô cùng lớn
và góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình phòng ngừa cũng như đấu
8


tranh chống tội phạm, bên cạnh đó, đây cũng là biện pháp hạn chế một phần
quyền tự do cá nhân vì thế vấn đề này phải được chú trọng không những từ
phía các nhà lập pháp mà còn bao gồm những nhà nghiên cứu khoa học của
pháp luật tố tụng hình sự.
“Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự áp dụng khi có đủ căn cứ
đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ,
ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây
cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [9]. Đây là định
nghĩa của Từ điển Luật học giải thích biện pháp ngăn chặn từ đó cho thấy
trong khoa học luật TTHS Việt Nam thì cũng các khái niệm khác nhau về

biện pháp ngăn chặn. Từ đó cho thấy định nghĩa cũng đã xác định đúng đối
tượng cũng như mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhưng không chỉ
ra chủ thể có quyền áp dụng chúng. Các chuyên gia vè luật học đã đưa ra các
định nghĩa khác nhau về khái niệm các biện pháp ngăn chặn và gần nhất là
định nghĩa của T.S Nguyễn Duy Thuân: “Biện pháp ngăn chặn là những biện
pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự bao gồm bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo do người có thẩm
quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị bắt, bị tạm giữ nhằm ngăn
chặn họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc cản trở việc điều tra,
truy tố, xét xử” [32]. Định nghĩa nêu trên vừa làm rõ bản chất của biện pháp
ngăn chặn, thẩm quyền và mục đích cũng như đối tượng của việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn mà chưa làm rõ được chi tiết việc đối tượng bị bắt trong
trường hợp cụ thể . Ngoài ra giáo trình dành cho sinh viên học Luật tố tụng
hình sự của trường ĐH Luật TP. Hà Nội thì định nghĩa: “biện pháp ngăn
chặn là một trong những nhóm biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự
được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những
9


người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang)
nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [35]. Khái niệm vừa nêu khác
hẳn so với khái niệm trước đó bởi vì cụ thể hơn nhưng lại không làm rõ được
thẩm quyền áp dụng.
Bên cạnh đó, vẫn tồn tại một số khái niệm chưa giống nhau về biện
pháp ngăn chặn mà các nhà khoa học nghiên cứu pháp luật cũng cán bộ tiến
hành tố tụng làm công tác thực tiễn phòng chống tội phạm được công bố ở
các giáo trình luật học của bộ môn Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, sách
tham khảo luật học. Những định nghĩa đã nêu cùng dựa vào nền tảng phân

tích nội dung cơ bản của những định nghĩa về quy phạm pháp luật được quy
định rõ tại Điều 109 BLTTHS 2015.
Các định nghĩa vừa trình bày nói rõ được các mặt tồn tại mà biện pháp
ngăn chặn cũng như việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ở thực tế, khá nhất
quán để đề cập tới định nghĩa pháp lý chính là sự cưỡng chế nhà nước. Mặc
dù, hiện nay còn đang hạn chế, chưa hoàn thiện. Cho đến nay, trong BLTTHS
2015 vẫn chưa có quy phạm nào định nghĩa về biện pháp ngăn chặn cũng như
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bởi vậy vẫn còn những ý kiến khác
nhau về vấn đề này.
Cho dù các biện pháp ngăn chặn hạn chế nhất thời quyền tự do áp dụng
với người phạm tội cũng như người bị áp dụng nhưng mà xét về mặt pháp lý,
biện pháp này chưa đúng hoàn toàn. Nó chỉ là phương pháp để áp dụng việc
thi hành trách nhiệm hình sự, bởi lẽ người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn
tại thời điểm này là khi chưa biết họ có tội hay không có tội, do chưa có bản
án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc này chỉ là những phương
tiện trợ giúp cho quá trình thực hiện trách nhiệm hình sự. Ngoài ra cơ sở pháp
10


lý việc áp dụng hình phạt là việc thực hiện tội phạm, đối với quy định pháp lý
áp dụng biện pháp ngăn chặn thì cần những chứng cứ và tài liệu về việc người
phạm tội có khả năng né tránh gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố và cản
trở việc thi hành án. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất chỉ
do Tòa án quyết định, còn các biện pháp ngăn chặn có thể do CQĐT, VKS,
TA áp dụng tùy theo giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Các biện pháp ngăn
chặn được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân áp dụng phụ
thuộc vào từng giai đoạn tố tụng.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn đã được mở rộng bằng khái
niệm “người bị buộc tội” bao gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo
(điểm đ khoản 1 điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Việc tiến hành áp

dụng các biện pháp ngăn chặn, cơ quan tiến hành tố tụng được áp dụng trong
phạm vi giới hạn cho phép nhưng phải luôn luôn tuân thủ pháp luật quy định
chặt chẽ tại Bộ luật tố tụng hình sự. Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn
chặn là người tiến hành tố tụng có thẩm quyền thuộc cơ quan tiến hành tố
tụng cũng như nhưng người có chức vụ trong các cơ quan này được Nhà nước
giao nhiệm vụ tiến hành một số biện pháp quy định bắt buộc như điều tra,
truy tố, xét xử cũng như khích lệ người dân tham gia vào việc bắt người phạm
tội khi bị phát hiện quả tang. Các hành vi áp dụng biện pháp ngăn chặn nếu
không đúng người đúng tội, sai thẩm quyền, cũng như thiếu căn cứ thì những
thủ tục đó đương nhiên sẽ bị kết luận là vi phạm nhiêm trọng về tố tụng hình
sự do áp dụng pháp luật và phải bị xử lý hình sự.
Qua các nhận định như đã nêu, định nghĩa học viên đưa ra về khái niệm
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là: “ Áp dụng các biện pháp ngăn chặn
là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền được
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự áp dụng đối với người được xem là bị
can, bị cáo hoặc người bị nghi là người phạm tội nhằm kịp thời ngăn chặn
11


những người đó thực hiện tội phạm cũng như khi có căn cứ cho rằng họ sẽ
gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử cũng như sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để đảm bảo thi hành án hình sự”.
1.2. Các yêu cầu và ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người phạm tội
1.2.1. Các yêu cầu của việc áp dụng quy định các biện pháp ngăn
chặn đối người phạm tội
Thống kê cho thấy thời gian gần đây, tội phạm do người phạm tội gây
ra đang gia tăng, năm sau luôn cao hơn năm trước, xuất hiện nhiều về loại tội
phạm, mức độ cũng như tính đặc biệt nghiêm trọng đang tăng mạnh theo thời
gian. Việc pháp chế xã hội chủ nghĩa về bảo vệ quyền, lợi hợp pháp người

phạm tội là các vấn đề đang gây khó khăn cho quá trình xây dựng pháp luật
tố tụng hình sự cho bây giờ cũng như sau này.
BLTTHS 2015 quy định các biện pháp ngăn chặn dành cho người
phạm tội được quy định tại Điều 109 bao gồm các biện pháp ngăn chặn như:
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110), Bắt người phạm tội quả
tang (Điều 111), Bắt người đang bị truy nã (Điều 112), Bắt bị can bị cáo để
tạm giam (Điều 113), Tạm giữ (Điều 117), Tạm giam (Điều 119), Bảo lĩnh
(Điều 121), Đặt tiền để đảm bảo (Điều 122), Cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều
123), và Tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124), Những biện pháp này đang góp
phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích của cộng đồng.
Quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói chung
cũng như việc điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử đối với người phạm tội nói
riêng cũng như việc áp dụng hình phạt đối với họ phải được thực hiện tại tình
huống khi xét thấy thật cần thiết, nhằm răn đe, giúp đõ người phạm tội nhận
thấy những sai lầm, góp phần giúp họ nhận thức được việc thượng tôn pháp
luật, chấp hành những nguyên tắc trong quá trình sinh sống, sống có trách
12


nhiệm với chính mình cũng như đối với gia đình và xã hội, góp phần hình
thành người công dân có ích cho quê hương. Quá trình quy định các biện pháp
ngăn chặn đối với họ cần đảm bảo được những nội dung sau:
Thứ nhất, việc quy định các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người
phạm tội phải dựa trên các tư tưởng pháp lý tiến bộ được thừa nhận chung của
nền văn minh nhân loại.
Lịch sử loài người đã ghi nhận những tư tưởng cấp tiến, được hình
thành tại Công ước quốc tế về quyền con người, Quy tắc Bắc Kinh cũng như
tiêu chuẩn tối thiểu năm 1985 của Liên hợp quốc về công tác phòng chống
tội phạm. Trên nền tảng những văn bản quy phạm pháp luật quốc tế đã trình
bày, hệ thống tư pháp đối với người phạm tội sinh sống tại Việt Nam ngày

càng được chú trọng nghiên cứu cũng như đang trong quá trình cải tiến về
mặt pháp luật. Trong giai đoạn này, ở Bộ Luật hình sự và Bộ Luật tố tụng hình
sự của Việt Nam, xuất hiện những quy định pháp luật thể hiện tính cá biệt để
làm luôn bảo vệ quyền của người phạm tội không bị xâm hại - đó là quy định
về biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội. Các quy định này đưa ra các tư
tưởng, nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Việt Nam
đang theo đuổi đó là mang tính nhân đạo, hướng tới mục tiêu chung là phải
luôn bảo đảm quyền của người phạm tội không được tước bỏ một cách trái quy
định của pháp luật. Những nguyên tắc vừa nêu là nhằm mục đích đưa ra cơ sở
pháp lý bắt buộc đối với người phạm tội, là kim chỉ nam để các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được sự lạm quyền mà vi phạm
pháp luật về tố tụng hình sự đối với các bị can, bị cáo cũng người phạm tội khi
chưa được kết án, bên cạnh đó góp phần xây dựng trong mắt người dân về sự
nghiêm minh của pháp luật hiện nay.
Thứ hai, quá trình quy định các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với
người phạm tội luôn luôn phải dựa trên cơ sở thể chế hóa chủ trương, chính
13


sách của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, chi tiết hóa sứ mệnh mà Hiến
pháp quy định, luật hóa các quy định, các điều ước quốc tế Việt Nam đã tham
gia làm thành viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra các chính sách để cải cách bộ máy tư
pháp bao gồm: Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị, Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002, , Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79KL/TW ngày 28/7/2010; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI của
Đảng. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Nghị quyết 49/NQ-TW xác định tám nhiệm vụ cải cách tư pháp, trong
đó, có các nhiệm vụ liên quan đến xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS về

chế định các biện pháp ngăn chặn. “Cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp
theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận
tiện, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp...”
đây là văn kiện đã được các nghị quyết của Đảng nhấn mạnh góp phần cải
cách toàn diện nền tư pháp nước nhà và khẳng định mục tiêu cải cách tư pháp
là xây dựng nền tư pháp phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam
XHCN, trong sạch, vững mạnh, công lý, dân chủ, nghiêm minh, từng bước
hiện đại; trong đó hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được
tiến hành thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, định hướng xây dựng,
hoàn thiện pháp luật TTHS về chế định các biện pháp ngăn chặn, như sau: a)
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế áp dụng các biện pháp tạm
giam đối với bị can trong một số loại tội; b) thu hẹp đối tượng người có thẩm
quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam; xác định rõ ràng căn
cứ tạm giam; c) tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm
đúng pháp luật; d) những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam, thì
14


kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; e) phát hiện kịp thời
các trường hợp oan trong bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền
phê chuẩn của mình. [6].
Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư
tưởng xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp khẳng định nguyên
tắc: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”
[23].
Thứ ba, quá trình quy định các biện pháp ngăn chặn đối với người
phạm tội phải dựa trên các luận chứng khoa học thể hiện sự kết hợp hài hòa

giữa khoa học pháp lý với các ngành khoa học khác. Muốn bảo vệ quyền lợi
cho người phạm tội thì việc quy định các biện pháp ngăn chặn dành cho họ
cần áp dụng những kết quả khoa học khác bao gồm khoa học tâm sinh lý
người phạm tội, khoa học xã hội học.
1.2.2. Ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người phạm tội
Trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì các biện pháp ngăn
chặn là nhóm biện pháp mang tính cưỡng chế, cưỡng ép của Nhà nước thể chế
hóa tính quyền lực, tính mệnh lệnh của Bộ luật tố tụng hình sự. Từ đó cho
thấy, việc áp dụng đúng đắn các biện pháp đối với người phạm tội là một
trong những ý nghĩa vô cùng cấp thiết và đặc biệt đóng vai trò quan trọng tại
quá trình thực hiện cũng như giải quyết các vụ án hình sự.
- Việc áp dụng đúng đắng biện pháp ngăn chặn là nhằm bảo đảm cho
quá trình hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thực thi quyền
năng và thuận lợi cho công tác tố tụng, góp phần đẩy mạnh và nâng cao hiệu
15


quả trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm ở nước ta. Áp dụng chính
xác biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội là nhằm đảm bảo cho quá
trình thực hiện dân chủ hóa, tôn trọng những quyền cơ bản của con người đã
được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, là mục tiêu quan trọng trong quá trình
bảo vệ quyền con người quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự, ngoài ra việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội còn góp phần đảm bảo trật
tự trị an cho đất nước, bên cạnh đó góp phần át chế thật quyết liệt, mạnh mẽ,
đối với tội phạm. Bộ luật tố tụng hình sự cũng đã thể hiện rõ những căn cứ
khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tại Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự là nhằm
ngăn ngừa kịp thời tội phạm có thể xảy ra, bảo đảm trình tự giải quyết vụ án
hình sự sẽ diễn ra sao cho dễ dàng.
1.3. Các đặc điểm của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối

với người phạm tội
Các biện pháp ngăn chặn có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Đối tượng áp dụng: đã được mở rộng bằng khái niệm “người bị buộc
tội” bao gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điểm đ khoản 1 điều 4
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Mục đích áp dụng: ngăn chặn khả năng gây khó khăn cho hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng từ phía bị can, bị cáo; ngăn chặn tội phạm
đang diễn ra hoặc ngăn chặn khả năng tiếp tục phạm tội; bảo đảm thi hành án;
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng: cơ quan tiến hành tố tụng và người có
thẩm quyền.
Luật quy định tại một thời điểm chỉ được áp dụng một trong những
biện pháp ngăn chặn nói trên đối với một đối tượng cụ thể. Khi thấy cần thiết
thì cơ quan có thẩm quyền có thể thay thế biện pháp ngăn chặn đang áp dụng
bằng biện pháp ngăn chặn khác.

16


Nghiên cứu những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về
các biện pháp ngăn chặn:
Mâu thuẫn về đối tượng áp dụng: Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 áp dụng với các đối tượng là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo
nhưng các Điều 110,111 và 117 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về việc bắt
người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ có thể áp dụng đối với người chưa
bị khởi tố bị can, bắt người phạm tội quả tang.
Mâu thuẫn giữa quy định tại một thời điểm chỉ được áp dụng một
trong những biện pháp ngăn chặn đối với đối tượng cụ thể và thực tiễn hoạt
động tố tụng.
Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người phạm tội bao
gồm: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt

người đang bị truy nã, bắt bị can bị cáo để tạm giam, tạm giữ người phạm tội,
tạm giam người phạm tội, bảo lĩnh người phạm tội, đặt tiền để bảo đảm, cấm
đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh.
Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là Biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp. Biện pháp ngăn chặn này thay thế cho “bắt người
trong trường hợp khẩn cấp” tại Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và
các căn cứ để áp dụng biện pháp này về cơ bản không có sự khác biệt nhiều
so với biện pháp “bắt người trong trường hợp khản cấp” trừ một số quy định
mới sau đây: Ngoài người bị hại, người chứng kiến tội phạm xảy ra thì sự xác
nhận của “người cùng thực hiện tội phạm” (điểm b khoản 1 Điều 110), phát
hiện dấu vết tội phạm tại “nơi làm việc hoặc trên Phương tiện của người bị
nghi thực hiện tội phạm” (điểm c khoản 1 Điều 110) cũng là căn cứ để áp
dụng. Các chỉ huy có chức danh tư pháp đã thể hiện rõ tại điểm b khoản 2
Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mới có chức năng áp dụng biện
pháp ngăn chặn như đã nêu. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định chặt
17


chẽ hơn về trình tự, thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp cụ thể là quy
định về nội dung của lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, về hồ sơ kèm theo lệnh bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn, vê nghĩa vụ
của người chỉ huy tàu bay, tàu biển giao người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp cho Cơ quan điều tra tại sân bay, bên cảng đầu tiên của tàu trở về. Trong
thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tram cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm
quyền theo luật định của những cơ quan này phải thực hiện: lấy lời khai của
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; nếu thấy có căn cứ thì ra quyết định
tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chuyển hồ sơ đề

nghị Viện kiểm sát phê chuẩn bao gồm: văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê
chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp; lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; quyết
định tạm giữ; biên bản giữu người trong trường hợp khẩn cấp; biên bản ghi
lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chứng cứ, tài liệu, đồ vật
liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Biện pháp bắt người phạm tội quả tang và biện pháp bắt người đang bị
truy nã được quy định tại Điều 111 và Điều 112 BLTTHS: Bộ luật mới đã
tách trường hợp bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang tuy nã trong
Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thành hai điều luật độc lập. Quá
trình chuyển biến vừa nêu đã làm rõ việc tiến tiến nhiều về sự lĩnh hội cũng
như kỹ năng xây dựng pháp luật cũng bởi vì hai tình huống nêu trên cưỡng
chế cho hai người phạm tội ở hai tình huống khác. Khoản 2 Điều 20 Hiến
pháp 2013 đã được thể hiện rõ chi tiết cụ thể tại (Điều 111) BLTTHS tội “Bắt
người phạm tội quả tang”.
18


Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành bắt khẩn cấp theo Điều
110 và Điều 117 thì cơ quan này phải ra văn bản tố tụng: Lệnh bắt người
trong trường hợp khẩn cấp và Quyết định tạm giữ. Viện kiểm sát phải phê
chuẩn hai văn bản tố tụng này. Nhưng trên thực tế thì hai hoạt động này gắn
liền với nhau, không tách rời nhau tức là đồng thời đã áp dụng hai biện pháp
ngăn chặn đối với người bị tạm giữ. Trường hợp tạm giam cũng vậy, phải có
hai văn bản tố tụng: Lệnh bắt để tạm giam và Lệnh tạm giam và nếu do Cơ
quan điều tra thực hiện thì phải có hai lần phê chuẩn của Viện kiểm sát. Thử
đặt ra câu hỏi: có trường hợp nào Viện kiểm sát phê chuẩn Lệnh bắt để tạm
giam mà sau đó lại không phê chuẩn Lệnh tạm giam hay không? Câu trả lời ở
đây đã có rõ ràng. Trên thực tế hành vi “bắt” không hoàn toàn độc lập với
hành vi “tạm giữ” hoặc hành vi “tạm giam” mà luôn đi cùng với hai hành vi

đó như là tiền đề, là một phần không thể thiếu của hành vi “tạm giữ” hoặc
“tạm giam”. Không thể có bắt mà không nhằm mục đích tạm giữ hoặc tạm
giam. Không thể có tạm giữ hoặc tạm giam mà lại không có bắt ngay trước
đó. Quy định bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn chặn độc lập
với nhau trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã cho thấy những bất cập
trong lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng Điều 157 Bộ luật hình sự 2015
(tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật). Hiện nay, không có nhận thức
thống nhất trong định tội danh đối với trường hợp một người (hay nhiều
người) thực hiện một, hai hoặc cả ba hành vi phạm tội - bắt, giữ hoặc giam
người trái pháp luật.
Điều 114 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung quy định
trường hợp cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người
bị truy nã đã bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt
phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết
định truy nã biết; nếu đã hết thời hạn tạm giữ mà cơ quan ra quyết định truy
19


×