VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM KHẮC TƯỜNG
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM KHẮC TƯỜNG
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số
:
838.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Những kết quả khoa học
nghiên cứu trong luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình
nào. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả luận văn
Phạm Khắc Tường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT
TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ MIỄN TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ........................................................................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của trách nhiệm hình sự. ........................ 9
1.2. Phân loại miễn trách nhiệm hình sự ......................................................... 16
1.3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt và loại trừ
trách nhiệm hình sự ......................................................................................... 19
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định của pháp
luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự ....................................................... 23
CHƯƠNG 2. MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG ............................................................................................................. 27
2.1. Miễn trách nhiệm hình sự trong phần chung Bộ luật Hình sự hiện
hành. ................................................................................................................ 27
2.2. Miễn trách nhiệm hình sự trong phần các tội phạm Bộ luật Hình sự
hiện hành ......................................................................................................... 42
2.3. Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về miễn trách nhiệm hình
sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................................. 48
CHƯƠNG 3. CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MIỄN
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ......................................................................... 60
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về
miễn trách nhiệm hình sự. ............................................................................... 60
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về miễn
trách nhiệm hình sự ......................................................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê tổng số người bị khởi tố, truy tố, xét xử trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 49
Bảng 2.2. Thống kê tỷ lệ tổng số người được miễn trách nhiệm hình sự
trên tổng số người bị khởi tố trên địa thành phố Đà Nẵng ............................. 50
Bảng 2.3. Thống kê số liệu người dưới 18 tuổi được miễn trách nhiệm hình
sự của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng........................................................................................................... 51
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phòng chống tội phạm luôn là nhiệm vụ quan trong của bất
kỳ nhà nước nào. Để công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt được
hiểu quả cao thì việc phân loại, phân hóa tội phạm một cách khoa học, chính
xác có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về định nghĩa tội phạm thì tính phải bị xử lý hình sự là nội hàm của định
nghĩa tội phạm, tuy nhiên trên thực tế, không phải tất cả những người phạm
tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự như là một phần của quá trình xử lý
hình sự. Trong một số trường hợp, khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những
điều kiện nhất định, thì một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà luật hình sự quy định có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, lịch sử đã minh chứng dân
tộc ta là dân tộc có bản chất khoan dung, nhân đạo. Bản chất nhân đạo của
dân tộc ta được thể hiện qua từng gia đoạn lịch sử khác nhau nhưng rõ nét
nhất, tiêu biểu nhất ở thời đại Hồ Chí Minh. Tính khoan hồng, nhân đạo được
thể hiện trong chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam và pháp luật của nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà đặc biệt là chính sách hình sự.
So với các thời đại trước, thời đại Hồ Chí Minh ghi nhận pháp luật hình sự
phát triển rực rỡ. Những chế định pháp luật hình sự thể hiện sự khoan hồng,
nhận đạo của Đảng và Nhà nước ngày càng rộng về phạm vi và hoàn thiện về
quy phạm. Tiêu biểu có thể nói đến là chế định miễn trách nhiệm hình sự.
Trước năm 1985, dù chưa được quy định thành một chế định độc lập,
tuy nhiên trong thực tiễn một số văn bản mang tính pháp lý đã quy định về
miễn trách nhiệm hình sự với các tên gọi khác nhau như "miễn nghị ", "miễn
tố", "xá miễn”, "tha bổng”, "miễn hết các tội ", “tha miễn trách nhiệm hình
1
sự"… Điều này thể hiện tại các văn bản thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985 nhưng rõ nét và tiêu biểu là: Sắc lệnh số 52/SL ngày
20/10/1945 xá miễn cho một số tội phạm trước ngày 19/08/1945; Pháp lệnh
trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967; Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị tội
đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 10/7/1982…;
Nếu Bộ luật Hình sự năm 1985 là lần pháp điển hóa luật hình sự lần thứ
nhất, thì với việc Quốc hội thông qua Bộ luật Hình sự năm 1999 là lần pháp
điển hóa thứ hai luật hình sự Việt Nam. Tại Bộ luật Hình sự năm 1999, các
quy định về miễn trách nhiệm hình sự được sửa đổi hoàn thiện hơn. Dù đã
được nghiên cứu sâu, tuy nhiên qua thực tiễn áp dụng, chế định miễn trách
nhiệm hình sự quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn có những tồn tại
nhất định như chưa có định nghĩa pháp lý về miễn trách nhiệm hình sự cũng
như hậu quả pháp lý của việc miễn trách nhiệm hình sự.
Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 của
Quốc hội có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018, được sửa đổi, bổ sung
bởi Luật số 12/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 2018 đã có những quy định về miễn trách nhiệm hình
sự theo hướng nhân đạo hơn về mặt chính sách và hoàn thiện, tiến bộ hơn về
mặt quy phạm. Tuy nhiên qua nghiên cứu và thực tiễn áp dụng chế định miễn
trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 vẫn bộc lộ một
số điểm chưa đạt về mặt kỹ thuật lập pháp cũng như chưa chính xác về mặt
khoa học. Do đó công tác nghiên cứu theo hướng vừa sâu vừa rộng để có
được nhận thức đúng đắn khi áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
về miễn trách nhiệm hình sự trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm
tại địa phương cũng như có những đóng góp mang tích khoa học pháp lý
2
nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của chế định này. Việc nghiên cứu các
quy định về "Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng" vừa có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý
quan trọng. Vì sự cấp thiết đó nên chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài này
làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cũng như chế định trách nhiệm hình sự, chế định miễn trách nhiệm
hình sự là một chế định quan trọng trong tổng thể các chế định hợp thành Bộ
luật hình sự. Do đó nó là một phần không thể thiếu trong Bộ luật Hình sự của
các quốc gia trên thế giới.
Pháp luật hình sự của các nước trong hệ thống luật Anh – Mỹ hay hệ
thống luật châu Âu lục địa đều có chế định miễn trách nhiệm hình sự. Các
công trình nghiên cứu về chế định này trên thế giới cũng tương đối nhiều với
các chiều cạnh nghiên cứu khác nhau. Ở Liên Xô trước đây cũng đã có công
trình nghiên cứu về chế định này như: "Những vấn đề lý luận của việc tha
miễn trách nhiệm hình sự", Nxb Khoa học, Maxcơva, 1974 của GS Kelina
X.G.; "Miễn trách nhiệm hình sự" trong tuyển tập "Kevin’s English law
glossary: Exemption from criminal liability" của Kevin’s; hoặc "Exemption
from criminal liability - General Defences" của tác giả Suzanne Wennberg,
trong sách "Swedish Law in the New Millennium" do Michael Bogdan
chủ biên, Elanders Gotab, Stockholm, 2000...
Ở nước ta, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này,
đáng chú ý là các công trình sau đây của TSKH. Lê Cảm, TS. Uông Chu Lưu
Vấn đề miễn trách nhiệm hình sự còn được đề cập ở các mức độ khác
nhau trong các công trình của một số tác giả khác như: 1) Về chế định miễn
trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 3/1988) và, Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình
3
sự năm 1999 (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 12/2001) của PGS.TS Phạm
Hồng Hải; 2) Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Luật
học, số 5/1997) của TS. Lê Thị Sơn; 3) Một số ý kiến về miễn trách nhiệm
hình sự (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/1993) và, Hoàn thiện các quy định
của luật tố tụng hình sự về đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án (Tạp chí Kiểm
sát, số 5/2002) của tác giả Phạm Mạnh Hùng; 4) Những trường hợp được
miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 48 Bộ luật hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số
chuyên đề về Bộ luật hình sự, số 4/1999) của tác giả Thái Quế Dung; 5) Miễn
trách nhiệm hình sự trong trường hợp "Do sự chuyển biến của tình hình mà
người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa" theo quy định của Điều
25 Bộ luật hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số 1/2002) của tác giả Nguyễn Hiển
Khanh; 6) Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt (Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 2/2004) của TSKH Lê Cảm và Trịnh Tiến Việt; 7) Hoàn
thiện các quy định về miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số
5/2004); Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 (Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 1/2004)...
Tiếp đến, chế định miễn trách nhiệm hình sự còn được đề cập, phân tích trong
một số Giáo trình và sách tham khảo như: 1) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; 2) Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do PGS.TS Võ Khánh Vinh
chủ biên, Đại học Huế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000; 3) Bình luận khoa học
Bộ luật hình sự 1999 - Phần chung (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000) của
ThS. Đinh Văn Quế...
Tuy nhiên, những nghiên cứu trên của các tác giả là những nghiên cứu
ở dạng các bài viết đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục
trong các giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khảo hay sách bình luận mà
chưa gắn liền việc nghiên cứu với thực tiễn áp dụng chế định miễn trách
4
nhiệm hình sự trên địa bàn một địa phương nhất định. Từ đó rút ra những
điểm tích cực mà quy định về miễn trách nhiệm hình sự tác động tích cực trở
lại đời sống xã hội cũng như những hạn chế, vướng mắc cần tháo gỡ để trên
cơ sở đó góp phần vào việc ban hành các văn bản hướng dẫn hay sửa đổi, bổ
sung Bộ luật Hình sự theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Từ khi Bộ luật
Hình sự năm 2015 có hiệu lực, cho đến nay trong khoa học luật hình sự của
Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào ở cấp độ luận văn thạc sĩ đề cập
đến chế định miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn một địa phương mà cụ thể
thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc các quy định của pháp luật hiện
hành về miễn trách nhiệm hình sự. Từ những nghiên cứu mang tính lý luận
đó, trên cơ sở thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về miễn trách
nhiệm hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn đề xuất hướng hoàn
thiện của quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật
hình sự hiện hành.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã đề cập ở trên, luận văn phải
giải quyết được những nhiệm vụ như sau:
Nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc các quy định của pháp luật hiện
hành về miễn trách nhiệm hình sự. Từ đó tìm ra những điểm mới, so sánh
những điểm khác và những điểm kế thừa các quy định của pháp luật hình sự
trước đó về miễn trách nhiệm hình sự.
Từ những nghiên cứu mang tính lý luận đó, trên cơ sở thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, đặc biệt là thực tiễn các vụ án mà các cơ quan tiến hành
5
tố tụng thành phố Đà Nẵng, luận văn phân tích để làm sáng tỏ tính đúng đắn
khi các cơ quan tiền hành tố tụng trong vụ án đó áp dụng hoặc không áp dụng
quy định về miễn trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở các phân tích đó, luận văn
phải đề xuất hướng hoàn thiện của quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo
quy định của Bộ luật hình sự hiện hành cũng như các giải pháp để các các cơ
quan tiến hành tố tụng thành phố Đà Nẵng áp dụng chính xác các quy định về
miễn trách nhiệm hình sự.
4. Đối tượng và p hạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ mục đích, nhiệm vụ, đối tượng mà luận văn nghiên
cứu là các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình
sự như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của miễn miễn trách nhiệm hình sự. Từ
những hiểu biết về lý luận, thông qua các số liệu thống kê từ thực tiễn áp
dụng các quy định về miễn trách nhiệm hình sự tại thành phố Đà Nẵng để đưa
ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định cũng như
hướng hoàn thiện chế định này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ, tác giả nghiên cứu định miễn trách nhiệm
hình sự theo luật hình sự Việt Nam năm 2015 và nghiên cứu thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2014 đến năm 2017 cũng như từ
khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật cho đến nay.
5. Cơ sở luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, các thành
tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lý luận về pháp luật, xã hội
6
học pháp luật, lịch sử pháp luật, tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự
cung như triết học cũng là cơ sở lý luận của luận.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp đánh giá, so sánh, tổng hợp, hệ thống, lịch sử, lôgic,
phân tích …là các phương pháp nghiên cứu trong luận văn. Các phương pháp
này được thực hiện trên nền tảng cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Xây dựng định nghĩa khoa học của khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của
miễn trách nhiệm hình sự. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình
phạt và loại trừ trách nhiệm hình sự.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định của pháp
luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu việc áp dụng các quy phạm pháp luật của chế định miễn
trách nhiệm hình sự trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự tại thành phố
Đà Nẵng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những số liệu thống kê trên thực tế,
từ đó rút ra những thiếu sót, hiểu biết nhầm lẫn, những khuyết điểm và những
vướng mắc trong việc áp dụng quy phạm pháp luật của chế định miễn miễn
trách nhiệm hình sự, từ đó tác giả đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp
phần tạo sự nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất cũng như bổ
sung một số trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cần phải được nhà làm luật
ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử phát triển các quy định
7
pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành và thực
tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy
định của pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự.
Bên cạnh đó, luận văn còn có phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của trách nhiệm hình sự.
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trong khoa học luật hình sự, khi nêu vấn đề liên quan đến khái niệm
miễn trách nhiệm hình sự, chúng ta ngay lập tức gắn nó với khái niệm trách
nhiệm hình sự. Hay nói cách khác, khái niệm miễn trách nhiệm hình sự xuất
phát từ khái niệm trách nhiệm hình sự. Tùy từng giai đoạn phát triển của khoa
học luật hình sự cũng như quan điểm pháp lý của các nhà khoa học luật hình
sự mà khái niệm trách nhiệm hình sự có nội hàm khác nhau. Chẳng hạn:
Theo quan điểm của GS.TSKH Đào Trí Úc thì "trách nhiệm hình sự là
hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải
chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà nước" [65, tr.41];
Tuy nhiên theo TSKH Lê Cảm thì "trách nhiệm hình sự là hậu quả
pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối
với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do
luật hình sự quy định" [8, tr.122];
Bên cạnh quan điểm của GS.TSKH Đào Trí Úc và TSKH Lê Cảm thì
một nhà khoa học khác là GS.TS Đỗ Ngọc Quang thì định nghĩa: "Trách
nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình
sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện" [49, tr.14];
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự, Bộ luật Hình sự năm 2015
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 quy định chủ thể của tội phạm là
9
pháp nhân thương mại bên cạnh con người là chủ thể như trước đây. Như vậy,
do có sự thay đổi trong khái niệm tội phạm mà khái niệm trách nhiệm hình sự
cũng có thay đổi căn bản.
Trên cơ sở tổng kết, kế thừa các định nghĩa về trách nhiệm hình sự của
các nhà khoa học đi trước cũng như quan điểm về khái niệm trách nhiệm hình
sự theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành thì chúng tôi mạnh dạn đưa ra
khái niệm trách nhiệm hình sự dưới góc độ khoa học luật hình sự như sau:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được
thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
của Nhà nước do luật hình sự quy định đối với người, pháp nhân thương mại
phạm tội.
Thông qua khái niệm về trách nhiệm hình sự, chúng ta dễ dang nhận ra
được cơ sở và những điều kiện của của trách nhiệm hình sự. Hay nói cách
khác, trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra khi có người, pháp nhân thương
mại phạm một tôi đã được Bộ luật Hình sự quy định.
1.1.2. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Trên cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự như đã phân
tích ở trên, chúng ta có thể hiểu rằng, khi một chủ thể thỏa mãn các cơ sở,
điều kiện pháp lý ấy thì chủ thể đó phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên,
trong thực tiễn, không phải lúc nào cũng vậy. Chính các chủ thể ấy, trong
những điều kiện nhất định dựa trên những căn cứ luật định có thể không phải
chịu trách nhiệm hình sự hoặc được miễn trách nhiệm hình sự. Khi nghiên
cứu khái niệm miễn trách nhiệm hình sự, chúng ta dễ dàng nhận thấy mối liên
hệ chặt chẽ giữa cơ sở và điều kiện của trách nhiệm hình sự với cơ sở và điều
kiện của miễn trách nhiệm hình sự. Hay nói cách khác, khái niệm miễn trách
nhiệm hình sự đi ra từ và có liên hệ mật thiết với khái niệm trách nhiệm hình
sự.
10
Với tư cách chế định tiêu biểu thể hiện sự cụ thể hóa bản chất khoan
hồng, nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, miễn trách
nhiệm hình sự là chế định được đặc ra từ rất sớm, khi Đảng lãnh đạo nhân dân
giành được độc lập. Trước năm 1985, miễn trách nhiệm hình sự chưa được
quy định thành một chế định trong Bộ luật Hình sự, tuy nhiên nội dung miễn
trách nhiệm hình sự đã tồn tại trong các khái niệm như "miễn nghị ", "miễn
tố", "xá miễn”, "tha bổng”, "miễn hết cảc tội ", “ tha miễn trách nhiệm hình
sự" nằm rãi rác trong các văn bản mang tính quy phạm pháp luật của chính
quyền lúc bấy giờ. Sau năm 1985 ( lần đâu tiên Nhà nước ta pháp điển hóa
luật hình sự bằng Bộ luật Hình sự 1985). Pháp luật hình sự nước ta mà cụ thể
là Bộ luật Hình sự đã tập hợp các quy phạm quy định về cơ sở và điều kiện
miễn trách nhiệm hình sự thành một chế định luật pháp hoàn thiện. Trãi qua
thời gian, khái niệm miễn trách nhiệm hình sự được các nhà khoa học luật
hình sự dần hoàn thiện nhưng vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, cụ
thể là:
Theo GS-TSKH Đào Trí Úc thì Miễn trách nhiệm hình sự có nghĩa là
miễn những hậu quả pháp lý đối với một tội phạm do pháp luật quy định" [65,
tr. 269];
Trong tác phẩm của mình, TSKH Lê Cảm thể hiện quan điểm của mình
khi nêu khái niệm Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của
luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý của
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người
bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó" [11, tr.7];
Chi tiết hơn, tác giả Lê Thị Sơn, trong tác phẩm "Trách nhiệm hình sự
và miễn trách nhiệm hình sự", tác giả nêu khái niệm: Miễn trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội có nghĩa là miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và
đương nhiên kéo theo cả miễn phải chịu các hậu quả tiếp theo do việc thực
11
hiện trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước đem lại như: miễn bị kết tội, miễn
phải chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị mang án
tích. Trong trường hợp này, miễn trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm miễn chịu
biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn mang án tích" [55, tr.
19-20]...
Các khái niệm trên dù dài ngắn khác nhau, tuy nhiên nội hàm của nó
chứa đựng đầy đủ các nội dung, các dấu hiệu nhận biết. Hơn thế nữa các khái
niệm đó đều thống nhất khẳng định khái niệm miễn trách nhiệm hình sự phải
trả lời được các câu hỏi sau đây:
Bản chất pháp lý của nó là gì;
Hình thức thể hiện của nó như thế nào;
Cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền nào áp dụng;
Đối tượng được áp dụng là ai;
Phải đáp ứng căn cứ pháp lý và những điều kiện cụ thể nào.
Đối chiếu các khái niệm trên đây với quy định của pháp luật hình sự
hiện hành, chúng ta dễ dàng thấy các khái niệm trên không còn đáp ứng được
yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện
nay. Cụ thể là các khái niệm trên chưa nêu ra được ngoài con người với tư
cách là chủ thể được miễn trách nhiệm hình sự thì pháp nhân thương mại
cũng là chủ thể.
Bổ sung đặc điểm về chủ thể là pháp nhân thương mại, dưới góc độ
khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm miễn trách nhiệm hình sự có
thể được định nghĩa như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định thể
hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam mà nội dung thể hiện sự
hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi, pháp nhân thương mại trong
việc thực hiện hành vi đó, do các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm
12
quyền áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện luật định.
1.1.3. Các đặc điểm của miễn trách nhiệm hình sự
Sau khi đưa ra được khái niệm, chúng tôi có thể chỉ ra một số đặc điểm
cơ bản của miễn trách nhiệm hình sự như sau:
Thứ nhất, miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định minh
chứng cho bản chất nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta thông
qua chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Nó phản ánh
mục đích của quá trình xử lý hình sự theo quan điểm của Đảng và Nhà nước
là nhằm giáo dục người phạm tội trở thành người tốt. có ích cho xã hội. Phản
ánh chủ trương đúng đắn rằng việc nghiêm trị phải kết hợp với khoan hồng",
trừng trị phải kết hợp với giáo dục, cải tạo.
Thứ hai, khi được miễn trách nhiệm hình thì chủ thể được miễn không
phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi phạm tội đã đã thực hiện. Hay
nói cách khác, trong những giai đoạn tố tụng nhất định, cơ quan tiến hành tố
tụng có thẩm quyền thấy rằng việc áp dụng các chế tài hình sự đối với chủ thể
là không còn thiết mà vẫn đảm đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội
phạm. Tất nhiên việc đánh giá như thế nào là không còn cần thiết áp dụng
chế tài hình sự phải dựa trên căn cứ pháp lý và những điều kiện nghiêm ngặt
do luật định.
Thứ ba, chỉ những người, pháp nhân thương mại mà hành vi của họ đã
thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm mới là đối tượng được xem xét miễn
trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi không cấu thành tội phạm thì phải được
xem là không phạm tội chứ không được miễn trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ
tình trạng pháp lý của chủ thể thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự và
không phạm tội là hoàn toàn khác biệt. Đặc điểm này của khái niệm miễn
trách nhiệm hình sự cũng là đặc điểm tiêu biểu để phân biệt giữa miễn trách
nhiệm hình sự và hành vi không cấu thành tội phạm.
13
Thứ tư, khi thỏa mãn các căn cứ pháp lý và những điều kiện luật định,
việc miễn trách nhiệm hình sự phải được cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có
thẩm quyền quyết định và thể hiện bằng hình thức văn bản. Cụ thể chỉ có Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong từng giai đoạn tố tụng gắn liền với
các cơ quan đó mới có thẩm quyền quyết định rằng người, pháp nhân thương
mại được miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ năm, người, pháp nhân thương mại được miễn trách nhiệm hình sự
không có nghĩa là họ không phải chịu những hậu quả pháp lý phi hình sự
khác. Cụ thể, những hậu quả pháp lý phi hình sự như bồi thường thiệt hại,
khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Thậm chí người được miễn
trách nhiệm hình sự còn có khả năng trước đó họ đã bị áp dụng các biện pháp
ngăn chặn mang tính tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do đi lại trong quá trình
tiến hành tố tụng.
1.1.4. Ý nghĩa của miễn trách nhiệm hình sự
Trừng phạt người, pháp nhân thương mại phạm tội chưa bao giờ là mục
đích cuối cùng của việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này không chỉ
đúng ở quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước mà nó còn
phù hợp với tôn chỉ, mục đích trong chính sách hình sự của hầu hết các quốc
gia khác trên thế giới. Có thể nói mục đích cuối cùng quá trình truy cứu trách
nhiệm hình sự một chủ thể nào đó là giúp họ trở thành con người, pháp nhân
thương mại tốt, có ích cho xã hội, gia đình và chính bản thân họ. Từ khi Đảng
lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, sự nhân đạo, khoan hồng trong đường
lối của Đảng đã thể hiện cụ thể qua nhiều chính sách khác nhau, đặc biệt là
chính sách hình sự. Nghiên cứu chế định miễn trách nhiệm hình sự ta có thể
nhìn thấy ý nghĩa của nó dưới nhiều góc độ khác nhau. Tựu trung lại, có thể
thấy miễn trách nhiệm hình sự có các ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, dưới góc độ nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong lĩnh
14
vực tư pháp hình sự. Là chế định phản ánh rõ nét tính nhân đạo, khoan hồng
trong chính sách hình sự, miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp hữu hiệu
của Nhà nước để thực hiện chính sách phân hóa và thể hiện phương châm ấy.
Thứ hai, dưới góc độ chính trị-xã hội, việc quy định những trường hợp
miễn trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự giúp cho các cơ quan tiến
hành tố tụng xác định đúng đắn sự không còn tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội do người, pháp nhân thương mại thực hiện. Từ đó đưa ra các
giải pháp mang tính chuyển hưởng xử lý mà vẫn đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, việc quy định cơ sở và
các trường hợp miễn trách nhiệm một cách cụ thể, rõ ràng, đầy đủ cũng làm
giảm đến mức thấp nhất tình trạng tuy tiện trong các quyết định miễn trách
nhiệm hình sự của cơ quan, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Bên cạnh
ý nghĩa trực tiếp mang tính chính trị pháp lý đó thì ở một nghĩa nào đó, các
quy định miễn trách nhiệm hình sự còn là một sự xã hội quá quá trình cải tạo
chủ thể phạm tội. Tức là cá nhân người phạm tội, gia đình và tổ chức nơi họ
làm việc được tạo điều kiện cùng tham gia vào quá trình cải tạo, giáo dục
người phạm tội, giúp đỡ đưa họ trở lại con đường lương thiện, lao động chân
chính và có ích cho xã hội.
Thứ hai, miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể được đặt ra đối với người,
pháp nhân thương mại nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật
quy định là tội phạm. Hay nói cách khác, chỉ khi nào hành vi đã cấu thành tội
phạm thì khi đó vấn đề các hay không miễn trách nhiệm hình sự mới được
đặc ra. Tuy nhiên miễn trách nhiệm hình sự vừa mang tính tùy nghi, vừa
mang tính bắt buộc tương ứng với từng trường hợp cụ thể khác nhau. Do đó
dù được loại trừ hậu quả pháp lý hình sự thì chủ thể thực hiện hành vi phạm
tội cũng có thể phải chịu những hậu quả pháp lý phi hình sự khác. Có như vậy
mới đảm bảo nguyên tắc công bằng trong xã hội mà pháp luật hình sự Việt
15
Nam tuyên bố và bảo vệ.
1.2. Phân loại miễn trách nhiệm hình sự
Phân loại theo từ điển tiếng Việt được hiểu là chia ra làm nhiều loại.
Phân loại miễn trách nhiệm hình sự là chia các trường hợp miễn trách nhiệm
hình sự thành nhiều nhóm khác nhau, việc chia nhóm đó dựa trên những tiêu
chí, căn cứ khác nhau nhất định để phục vụ việc nghiên cứu, áp dụng vào thực
tiễn và cũng như hoàn thiện pháp luật. Các trường hợp miễn trách nhiệm hình
sự xếp thành một nhóm nhất thiết phải có cùng những tiêu chí, căn cứ.
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, các trường hợp miễn
trách nhiệm hình sự được chia thành các nhóm như sau:
1.2.1. Căn cứ vào vi trí sắp xếp trong Bộ luật hình sự
Dựa vào vị trí sắp các quy định của Bộ luật Hình sự 2015, chúng ta có
thể chia các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại
Phần chung và Phần các tội phạm của riêng Bộ luật Hình sự.
Tám trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định tại điều 16, điều 29
và điều 91 Phần chung Bộ luật Hình sự. Đây là là những trường hợp miễn
trách nhiệm hình sự chung nhất, áp dụng cho tất cả người phạm tội. Phạm vi
điều chỉnh các của quy định miễn trách nhiệm hình sự trong Phần chung Bộ
luật Hình sự bao trùm lên toàn bộ các quy định miễn trách miễn hình sự mang
tính cá biệt khác.
Bốn trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định tại các khoản 4
điều 110 là tội gián điệp, đoạn 2 khoản 7 điều 364 là tội đưa hối lộ, khoản 6
điều 365 là tội môi giới hối lộ và khoản 2 điều 390 là tội không tố giác tội
phạm Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự.
1.2.2. Căn cứ tính chất bắt buộc hay tùy nghi của quy định về miễn
trách nhiệm hình sự
Khi quy định các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự , Bộ luật hình
16
sự 2015 quy định theo hướng nhóm các trường hợp “ được miễn” và nhóm
các trường hợp “có thể được miễn”. Cụ thể:
Bốn trường hợp có tính chất bắt buộc quy định tại các điều 16, khoản 1
điều 29 và khoản 4 điều 110 Bộ luật hình sự. Khi có các căn cứ miễn trách
nhiệm hình sự thuộc trường hợp này, cơ quan tiến hành tốt tụng hình sự mà
cụ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong từng giai đoạn tố tụng
tương ứng với thẩm quyền của mình bắt buộc phải ban hành quyết định đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án và quyết định miễn trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội.
Mười trường hợp có tính chất tùy nghị ( có thể được miễn trách nhiệm
hình sự ) quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 29, khoản 2 điều 91, đoạn 2
khoản 7 điều 364, khoản 6 điều 365 và khoản 2 điều 390. Khi có các căn cứ
quy định tại các điều luật này, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể
miễn hoặc không miễn trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào đánh giá tính chất,
mức đôh nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong gia đoạn đó.
1.2.3. Căn cứ vào nội dung và phạm vi áp dụng
Dựa vào nội dung và phạm vi áp dụng các quy định miễn trách nhiệm
hình sự, chúng ta có thể chia miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ
luật Hình sự 2015 thành các nhóm sau:
Ba trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định tại các khoản 1-3
điều 29 được áp dụng cho tất cả các tội phạm. Đây là trường hợp miễn trách
nhiệm có phạm vi áp dung rộng nhất, không loại trừ, không hạn chế đối với
các loại tội phạm.
Một trường hợp áp dụng cho trường hợp người phạm tội với lỗi cố ý
quy định tại tại điều 16 Bộ luật Hình sự. Đây là trương hợp người phạm tội
nữa chừng chấm dứt tội phạm. Tuy nhiên trường hợp này chỉ được áp dụng
17
khi hành vi đã thực hiện không cấu thành tội phạm khác.
Một trường hợp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi theo quy định tại
khoản 2 điều 91. Tuy nhiên trường hợp này gắn liền với điều kiện loại tội
phạm mà họ đã thực hiện là tội ít nghiệm trọng hoặc nghiêm trọng. Hành vi
có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã khắc phục phần lớn hậu quả.
Bốn trường hợp miễn trách nhiệm hình sự được áp dụng trong phạm vi
hẹp, gắn liền với các tội danh cụ thể. Đó là các tội gián điệp, tội đưa hối lộ,
tội môi giới hối lộ và tội không tố giác tội phạm.
1.2.4. Căn cứ vào chủ thể được miễn trách nhiệm hình sự
Với sự ra đời của Bộ luật Hình sự năm 2015, lần đầu tiên trong lịch sử
lập pháp hình sự Việt Nam, pháp nhân thương mại trở thành chủ thể của tội
phạm. Pháp luật Việt Nam nói chung và Pháp luật hình sự nói riêng luôn
tuyên bố và bảo vệ nguyên tắc mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật.
Trên cơ sở nguyên tắc này, chúng ta có thể hiểu, nếu con người là chủ thể của
tội phạm có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có căn cứ theo quy định
của pháp luật thì pháp nhân thương mại vậy. Tuy nhiên khi xây dựng chế định
miễn trách nhiệm hình sự, tại Phần chung mà cụ thể là tại các điều 16, điều 29
và điều 91 Bộ luật Hình sự, nhà làm luật chỉ quy định chủ thể là con người.
Nhưng không vì vậy mà chúng ta có thể hiểu pháp nhân thương mại không
được miễn trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, theo quy định tại điều 74 Bộ luật Hình
sự thì ngoài việc chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại chương XI, pháp
nhân thương mại còn chịu trách nhiệm hình sự theo quy định khác của Phần
thứ nhất của Bộ luật Hình sự không trái với quy định chương XI trong đó có
quy định về miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy dựa vào chủ thể được sự ta có
thể có người phạm tội và nhóm quy định về miễn trách nhiệm hình đối với
pháp nhân thương mại phạm tội.
18
1.3. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt và loại
trừ trách nhiệm hình sự
1.3.1. Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình phạt
Bên cạnh khái niệm miễn trách nhiệm hình sự, thì pháp luật hình sự
còn có khái niệm miễn hình phạt. Thực tiễn áp dụng pháp luật, đã có sự nhận
thức không chính xác các khái niệm này dẫn đến sai sót trong quá trình xử lý
hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các quy định về miễn hình phạt
được nhắc đến trong các điều 59 và 390 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bên cạnh
nhưng điểm giống nhau, miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt có
những điểm khác nhau rõ rệt. Do đó việc phân biệt chúng là rất cần thiết cho
quá trình nghiên cứu nói chung cũng như hoạt động thực tiễn nói riêng.
Thông qua các quy định về miễn hình phạt trong Bộ luật hình sự hiện
hành, định nghĩa pháp lý của khái niệm miễn hình phạt có thể cô đọng lại
như sau: miễn hình phạt là không buộc người, pháp nhân tương mại phạm tội
phải chịu hình phạt về tội mà họ đã thực hiện. Điều 59 Bộ luật hình sự năm
2015 quy định "Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 54 của Bộ luật nayg mà
đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm
hình sự". Các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 54 là a) Có ít
nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự năm
2015; b) Người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm
nhưng có vai trò không đáng kể. Khi thỏa mãn các điều kiện cần như nêu trên
theo quy định của pháp luật thì điều kiện đủ là Đáng được khoan hồng đặc
biệt nhưng chưa đến mức miễn trách nhiệm hình sự.
Qua phân tích khái niệm miễn hình phạt, chúng ta có thể nhận thấy miễn
trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt có nhưng điểu giống nhau như sau:
Thứ nhất, các quy định này thể hiện rõ tính nhân đạo, khoan hồng trong
19