Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀO VIỆC CẢI TẠO PHẠM NHÂN TẠI TRẠI GIAM CHÂU BÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 85 trang )

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT VÀO VIỆC CẢI TẠO PHẠM NHÂN
TẠI TRẠI GIAM CHÂU BÌNH HIỆN NAY



MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU...................................................................................................
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................7
2. Tình hình nghiên cứu đề tài...................................................................................8
3. Mục đích nghiên cứu đề tài.................................................................................11
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.....................................................................11
4.1. Khách thể nghiên cứu...................................................................................11
4.2. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................11
5. Giả thuyết khoa học.............................................................................................11
6. Nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................................11
7. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................12
8. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................12
9. Cấu trúc luận văn.................................................................................................12
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn...................................12
10.1. Những luận điểm cơ bản.............................................................................12
10.2. Đóng góp mới của tác giả...........................................................................13

NỘI DUNG..............................................................................................
Chương 1..................................................................................................
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT VÀO CÔNG TÁC CẢI TẠO PHẠM
NHÂN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.........
1.1. Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật..........................................14


1.1.1.Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện – nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
............................................................................................................................ 14
1.1.2.Các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện.............................................17
1.2.Khái lược về công tác cải tạo phạm nhân..........................................................20


1.2.1. Một số khái niệm cơ bản: Phạm nhân, cải tạo phạm nhân.........................20
1.2.2. Công tác cải tạo phạm nhân ở trại giam Châu Bình hiện nay....................23
1.2.3 Sự cần thiết vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật
vào công tác cải tạo phạm nhân...........................................................................27

Tiểu kết chương 1....................................................................................
Chương 2..................................................................................................
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN CỦA PHÉP BIỆN
CHỨNG DUY VẬT vào CẢI TẠO PHẠM NHÂN TẠI
TRẠI GIAM CHÂU BÌNH HIỆN NAY – THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP............................................................................
2.1. Thực trạng việc vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép duy vật biện chứng
vào công tác cải tạo phạm nhân tại trại giam Châu Bình hiện nay..........................31
2.1.1.Vận dụng trong mối quan hệ giữa phạm nhân và cán bộ trại giam.............31
2.1.2.Vận dụng trong mối quan hệ giữa phạm nhân và thân nhân.......................39
2.1.3 Vận dụng trong mối quan hệ giữa phạm nhân và phạm nhân.....................45
2.1.4. Hạn chế, thành tựu và nguyên nhân...........................................................50
2.2. Giải pháp nhằm vận dụng tích cực nguyên tắc toàn diện trong cải tạo phạm
nhân tại trại giam Châu Bình hiện nay....................................................................66
2.2.1.Nhóm giải pháp về các qui định của pháp luật...........................................67
2.2.2.Nhóm giải pháp về quan hệ giữa phạm nhân và cán bộ trại giam...............68
2.2.3. Nhóm giải pháp về quan hệ giữa phạm nhân và thân nhân phạm nhân.....70
2.2.4. Nhóm giải pháp về đặc điểm nhân thân của phạm nhân............................71


Tiểu kết chương 2....................................................................................
KẾT LUẬN..............................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................


DANH MỤC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Trang
Bảng 2.1 So sánh việc cán bộ trại giam Châu Bình tổ chức cho
phạm nhân học tập nội qui, tiêu chuẩn thi đua chấp hành án
(Theo báo cáo công tác giáo dục của đơn vị Trại giam Châu
Bình qua các năm).........................................................................
Bảng 2.2 so sánh việc cán bộ trại giam tổ chức cho phạm nhân học
tập pháp luật (Theo báo cáo công tác giáo dục của đơn vị
Trại giam Châu Bình qua các năm)...............................................
Bảng 2.3 Số liệu phạm nhân xếp loại cải tạo kém và được giáo dục
tiến bộ (Theo báo cáo công tác giáo dục của đơn vị Trại giam
Châu Bình qua các năm)...............................................................
Bảng 2.4 So sánh số liệu phạm nhân được cán bộ trại giam giáo dục
riêng qua các năm gần đây (Theo báo cáo công tác giáo dục
của đơn vị Trại giam Châu Bình qua các năm).............................
Bảng 2.5 So sánh phân bổ lao động học nghề của phạm nhân qua
các năm (Theo báo cáo công tác giáo dục của đơn vị Trại
giam Châu Bình qua các năm)......................................................
Bảng 2.6 Thống kê số lượt thăm gặp thân nhân những năm gần đây
ở trại giam Châu Bình (Theo báo cáo công tác giáo dục của
đơn vị Trại giam Châu Bình qua các năm)...................................
Bảng 2.7 Thống kê số lượt gửi và nhận thư của phạm nhân tại trại
giam Châu Bình (Theo báo cáo công tác giáo dục của đơn vị
Trại giam Châu Bình qua các năm)...............................................
Bảng 2.8 Thống kê việc tổ chức cho phạm nhân liên lạc với thân

nhân bằng điện thoại tại trại giam Châu Bình (Theo báo cáo
công tác giáo dục của đơn vị Trại giam Châu Bình qua các
năm)..............................................................................................


Bảng 2.9 Thống kê hoạt động của quỹ tấm lòng vàng tại trại giam
Châu Bình qua các năm (Theo báo cáo của công tác giáo dục
đơn vị trại giam Châu Bình qua các năm).....................................
Bảng 2.10 So sánh kết quả xếp loại thi đua chấp hành án phạt tù của
phạm nhân chấp hành án tại trại giam Châu Bình (Theo báo
cáo công tác giáo dục của đơn vị Trại giam Châu Bình qua
các năm)........................................................................................
Bảng 2.11 So sánh số liệu các ngành nghề được áp dụng vào công
tác cải tạo tại trại giam Châu Bình (Theo báo cáo công tác
giáo dục của đơn vị Trại giam Châu Bình qua các năm)..............
Bảng 2.12 Thống kê việc giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho
phạm nhân tại trại giam Châu Bình (Theo báo cáo công tác
giáo dục của đơn vị Trại giam Châu Bình qua các năm)..............
Bảng 2.13 Thống kê số liệu các lần tổ chức hội nghị gia đình phạm
nhân tại trại giam Châu Bình (Theo báo cáo công tác giáo
dục của đơn vị Trại giam Châu Bình qua các năm)......................
Bảng 2.14 Thống kê sách của thư viện phạm nhân tại trại giam
Châu Bình (Theo báo cáo công tác giáo dục của đơn vị Trại
giam Châu Bình qua các năm)......................................................
Bảng 2.15 So sánh các cuộc thi “Viết thư xin lỗi” ở trại giam Châu
Bình (Theo báo cáo công tác giáo dục của đơn vị Trại giam
Châu Bình qua các năm)...............................................................


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Vận dụng các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật vào công tác thực
tiễn từ rất lâu đã mang ý nghĩa sâu sắc và nhân văn, mang tầm quan trọng to
lớn, quyết định sự thành bại của công việc. Trong công tác thi hành án phạt tù,
đặc biệt là công tác cải tạo phạm nhân, thì việc vận dụng nguyên tắc toàn diện
của phép biện chứng duy vật lại càng có ý nghĩa thiết thực.
Trong hệ thống các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật, nguyên tắc
toàn diện là một nguyên tắc giữ vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng rất sâu sắc đến
quá trình hoạt động thực tiễn. Phạm nhân là những người đã có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, đang chấp hành án tại trại giam hoặc có quyết định, bản án có
hiệu lực pháp luật và đang bị tạm giam, tạm giữ tại trại tạm giam, nhà tạm giữ.
Phạm nhân bị tước bỏ một số quyền cơ bản khi chấp hành án và chịu sự giáo
dục, quản lý của cơ quan thi hành án. Là những đối tượng nguy hiểm, với bản
tính hung hãn, không chấp hành pháp luật và đang bị tước bỏ một số quyền cơ
bản, nên việc giáo dục, cải tạo họ đặt ra cho lực lượng thi hành án hình sự một
nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Việc giáo dục, cải tạo người phạm tội được thực
hiện thông qua nhiều hình thức: thực hiện chế độ chính sách của Đảng và nhà
nước, tuyên truyền pháp luật, lao động dạy nghề, tái hòa nhập… Tuy nhiên việc
thực hiện công tác quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân cần phải có sự phối hợp
giữa nhiều cơ quan, ban ngành, đoàn thể và thực hiện với thời gian dài mới giúp
cho phạm nhân có những chuyển biến tích cực về tư tưởng, từ đó thay đổi bản
thân, phấn đấu thành người có ích cho xã hội. Vận dụng nguyên tắc toàn diện
của phép biện chứng duy vật áp dụng vào công tác cải tạo phạm nhân là điều rất
cần thiết. Trong thực tế công tác, những yếu tố tác động đến tư tưởng phạm
nhân nếu được xử lý tốt sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao, hình thành nên tư
tưởng mới cho những người lầm lỗi, tích cực khắc phục hậu quả do hành vi
phạm tội của mình gây ra, phấn đấu lao động, học tập, cải tạo để hưởng được sự
khoan hồng của Đảng và Nhà nước, sớm trở về với gia đình, xã hội. Lực lượng



cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp đã góp phần không nhỏ vào công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và cải tạo phạm nhân nói riêng
mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Với ý nghĩa nhân văn sâu sắc đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Vận dụng
nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật vào việc cải tạo phạm
nhân tại trại giam Châu Bình hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của
mình, góp phần vào việc xây dựng mô hình giáo dục, cải tạo phạm nhân phù
hợp trong tình hình hiện nay trong Tổng cục VIII nói chung và đơn vị trại giam
Châu Bình nói riêng, nâng cao chất lượng giáo dục người phạm tội, chuẩn bị
hành trang tư tưởng vững chắc cho họ tái hòa nhập với cộng đồng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhận thức được vai trò của việc vận dụng nguyên tắc toàn diện vào hoạt
động thực tiễn, trong những năm qua, có nhiều tác giả đã nghiên cứu nhiều đề
tài khoa học, cụ thể như sau:
- Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về vận dụng nguyên tắc toàn
diện của phép biện chứng duy vật vào công tác thực tiễn.
“Vận dụng quan điểm toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể trong quá
trình học tập của sinh viên” của nhóm tác giả Lê Vĩnh Phúc, Huỳnh Tấn Hiếu,
Nguyễn Đức Duy, Nguyễn Ngọc Nghĩa, Phạm Minh Đăng (2012). Các tác giả
đã nêu bật lên được vai trò, vị trí và ý nghĩa của việc vận dụng quan điểm của
phép biện chứng duy vật vào trong quá trình học tập của sinh viên.
Tác giả Bùi Văn Nghĩa có nghiên cứu: “Vận dụng nguyên lý của phép
biện chứng duy vật vào công tác đánh giá cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh”
(2014). Tác giả nêu lên được hình thức vận dụng, cách thức nhận xét, đánh giá
chất lượng cán bộ thông qua việc vận dụng nguyên lý của phép biện chứng duy
vật mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã áp dụng vào thực tiễn công tác. “Vận dụng
nguyên lý của phép biện chứng duy vật vào quản lý doanh nghiệp” của nhiều
tác giả năm 2014 đã nêu lên được việc áp dụng nguyên lý của phép biện chứng
duy vật vào quản lý kinh doanh nhằm mang lại hiệu quả trong kinh doanh.



“Vận dụng nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn vào việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Mai Phương (2013) đã làm rõ vai trò của nguyên tắc toàn
diện và cách thức vận dụng nguyên tắc vào trong hoạt động chuyển đổi nền
kinh tế thị trường ở nước ta, đề xuất những hướng giải quyết khó khăn, hạn chế.
“Vận dụng quan điểm toàn diện để xem xét tình trạng thất nghiệp của
sinh viên sau khi ra trường ở nước ta hiện nay” của tác giả Phạm Thị Thảo,
Nguyễn Hùng Vương (2010), đã nói lên được thực trạng thất nghiệp của sinh
viên sau khi tốt nghiệp ra trường, từ đó đã nêu lên được nhóm giải pháp nhằm
giải quyết tình trạng sinh viên thất nghiệp. Nhìn chung, nhóm công trình đã nói
lên được tầm quan trọng của việc vận dụng nguyên tắc toàn diện vào thực tiễn
công tác, đề xuất được một số giải pháp phù hợp thực tiễn, nhằm nâng cao chất
lượng công việc.
“Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào hoạt động kiểm toán và điều kiện
để thực hiện tốt nguyên tắc này” của tác giả TS Phạm Tiến Hưng (2011). Nói
lên thực trạng về việc vận dụng nguyên tắc toàn diện vào hoạt động kiểm toán
nhà nước, qua đó đã nêu ra những điều kiện cần có để việc áp dụng nguyên tắc
đạt hiệu quả cao nhất.
“Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiển, sự vận dụng vào
lĩnh vực thẩm định, ra quyết định đầu tư dự án” của tác giả Trần Hữu Ủy
(2008) đã nêu lên được vai trò của việc vận dụng nguyên tắc toàn diện vào trong
nhận thức và thực tiễn của mỗi cá nhân, thông qua đó đề ra nhiều phương pháp
vận dụng hiệu quả vào công tác từ đó quyết định được vấn đề quan trọng trong
lĩnh vực đầu tư dự án.
- Thứ hai, nhóm các nghiên cứu về giải pháp nâng cao chất lượng công
tác quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân.
“Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, cải tạo phạm
nhân” của tác giả Xuân Mai (2015) nêu lên được những hạn chế trong công tác
giáo dục, cải tạo phạm nhân, đề xuất được một số giải pháp hữu hiệu áp dụng

vào thực tiễn. Khi áp dụng đúng những giải pháp được nên trong bài viết sẽ


mang lại hiệu quả cải tạo phạm nhân cao, góp phần thay đổi được tính chất con
người họ, giúp họ hoàn lương và sớm hưởng chính sách khoan hồng của Đảng
và nhà nước để sớm trở về với gia đình xã hội.
“Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục, cảm hóa phạm nhân của
trại giam công an tỉnh Thái Bình” của tác giả Bình Vân (2016), công trình nói
lên được tầm quan trọng của công tác giáo dục, cảm hóa phạm nhân, sử dụng
biện pháp hiệu quả sẽ giúp được phạm nhân chuyển biến tư tưởng, thành người
có ít cho xã hội. Trong đó chất lượng cảm hóa, giáo dục cải tạo phạm nhân được
đặc lên hàng đầu, muốn cảm hóa được phạm nhân thành người có ích cho xã hội
việc giáo dục cải tạo họ phải được giữ vai trò và vị trí quan trọng trong công
tác.
“Thi hành án phạt tù có thời hạn và những giải pháp nâng cao hiệu
quả” của tác giả Nguyễn Văn Nam. “Công tác quản lý, giáo dục người
chấp hành xong án phạt tù tại xã, phường, thị trấn trong giai đoạn hiện
nay” của Vũ Văn Hòa và Nguyễn Văn Tuấn trường Đại học Cảnh sát nhân
dân, tác giả nêu bật lên được thực trạng quản lý giáo dục người chấp hành
xong hình phạt tù, đề xuất phương án giải quyết hiệu quả công tác tái hòa
nhập cộng đồng cho họ.
Nhìn chung, nhóm công trình đã đưa ra luận điểm nhằm nâng cao chất
lượng quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân, trong đó việc liên hệ, kết hợp nhiều
yếu tố là điểm quan trọng cần chú ý để thực hiện tốt được công tác trên. Qua đó
thấy được tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện trong công tác quản lý, giáo
dục, cải tạo phạm nhân.
Nhìn chung các tác giả đã thấy được vai trò của việc áp dụng nguyên tắc
toàn diện vào trong công tác thực tiễn là quan trọng và cần thiết đối với các
ngành nghề và nhiều lĩnh vực khác nhau, thấy được việc kết hợp nhiều yếu tố
trong vận dụng công tác thực tiễn mang lại hiệu quả công việc cao. Trong thực

tiễn công tác cải tạo phạm nhân, việc vận dụng nguyên lí này tạo nên một cơ sở
lý luận vững chắc, phù hợp với đối tượng quản lý, từ đó tạo cơ sở cho cảnh sát
trại giam hoàn thành nhiệm vụ được giao.


3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu việc vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện
chứng duy vật vào quá trình cải tạo phạm nhân giúp chúng ta thấy được thành
tựu, nguyên nhân và hạn chế của công tác này, từ đó đề ra những giải pháp thiết
thực nhằm thực hiện nhiệm vụ được chất lượng hơn.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Sự vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật vào việc
cải tạo phạm nhân.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là sự vận dụng nguyên tắc toàn diện
của phép biện chứng duy vật vào việc cải tạo phạm nhân tại trại giam Châu
Bình, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre hiện nay..
5. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng các nguyên tắc của quan điểm toàn diện của phép biện
chứng duy vật vào thực tiễn công tác cải tạo phạm nhân thì sẽ góp phần nâng
cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, thay đổi hướng suy nghĩ của phạm nhân
trong quá trình chấp hành án, từ đó giúp cho họ an tâm tư tưởng cải tạo, tích cực
học tập, lao động phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lí luận của nguyên tắc toàn diện, đó chính là nguyên lý
mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật.
- Phân tích cơ sở thực tiễn của việc vận dụng nguyên tắc toàn diện tại trại
giam Châu Bình hiện nay.
- Khảo sát thực trạng việc vận dụng nguyên tắc toàn diện vào cải tạo

phạm nhân ở trại giam Châu Bình hiện nay.
- Tìm hiểu nguyên nhân thực trạng việc vận dụng nguyên tắc toàn diện
vào cải tạo phạm nhân ở trại giam Châu Bình.
- Đề xuất giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn nguyên tắc toàn diện vào cải
tạo phạm nhân tại trại giam Châu Bình.


7. Phạm vi nghiên cứu
Công tác cải tạo phạm nhân chấp hành án tại trại giam Châu Bình, huyện
Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre trực thuộc Tổng cục VIII – Bộ Công An.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu.
Ngoài ra, luận văn còn phối hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như: phân tích- tổng hợp, lôgíc- lịch sử, quan sát, điều tra, chuyên gia tham
vấn…
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm có 2 chương 4 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
Một là, vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật vào
công tác cải tạo phạm nhân chấp hành án tại trại giam có vai trò hết sức quan
trọng, mang tính chất thống nhất và tạo ra mô hình giáo dục phù hợp đúng qui
định của pháp luật.
Hai là, nhận rõ được hạn chế, thiếu sót trong quá trình vận dụng nguyên
tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật vào công tác cải tạo phạm giúp cho
các bộ phận tham mưu đề xuất ra những giải pháp phù hợp, xử lí triệt để thiếu
sót, nâng cao chất lượng công tác.
Ba là, việc đề xuất các giải pháp mang tính hệ thống, liên kết, khách

quan, khoa học sẽ góp phần khắc phục những hạn chế trong quá trình vận dụng
nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật vào công tác cải tạo phạm
nhân chấp hành án tại trại giam, liên tục nghiên cứu tìm ra nhiều giải pháp phù
hợp với từng loại đối tượng, phù hợp với tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác
của từng đơn vị trong từng thời điểm nhất định, nhằm đạt hiệu quả cao nhất
trong thực hiện cải tạo phạm nhân.


10.2. Đóng góp mới của tác giả
Về mặt lý luận: Nghiên cứu dưới góc độ triết học việc vận dụng nguyên
tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật vào cải tạo phạm nhân tại trại giam
Châu Bình, làm rõ nhược điểm chưa phù hợp, các yếu tố ảnh hưởng và tác động
vào công tác cải tạo phạm nhân.
Về mặt thực tiễn: qua nghiên cứu về sự vận dụng nguyên tắc toàn diện
của phép biện chứng duy vật vào công tác cải tạo phạm nhân, đề xuất những
giải pháp thiết thực phục vụ nhiệm vụ cải tạo phạm nhân tại đây.


NỘI DUNG
Chương 1
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
DUY VẬT VÀO CÔNG TÁC CẢI TẠO PHẠM NHÂN – MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật
1.1.1.Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện – nguyên lí về mối liên hệ
phổ biến
Phép biện chứng duy vật là bộ phận của lý luận cơ bản hợp thành thế giới
quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin, là “khoa học về
mối liên hệ phổ biến” và cũng là “khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.

Theo quan niệm của Mác, cũng như của Hêghen thì phép biện chứng bao gồm
cái mà ngày nay người ta gọi là lý luận nhận thức hay nhận thức lý luận”.
Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những
mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động phát triển theo quy luật của các
sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy. V.I.Lênin cho
rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất
cả các mặt, tất cả mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Thế giới có muôn vàn các sự vật, hiện tượng, quá trình. Giữa chúng có sự
liên kết hay không? Và nếu có, thì yếu tố nào là quyết định, là nguyên nhân cơ
bản?
Để trả lời những câu hỏi này, trong lịch sử triết học có rất nhiều những
quan điểm khác nhau. Quan điểm siêu hình khẳng định các sự vật, hiện tượng
tồn tại một cách biệt lập, tách rời, không liên quan tới nhau. Chúng không cần
có sự ràng buộc nào với nhau, không cần quy định lẫn nhau. Cũng có người
thừa nhận các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới có sự liên hệ nào đó,
nhưng sự liên hệ này chỉ đến từ bên ngoài, không quy định bản chất sự vật, và
chúng không có khả năng chuyển hóa được cho nhau. Các cá thể tạo nên một


tập hợp nào đó từ tổng số đơn giản, ví dụ như, nhiều cây tạo nên rừng, các cá
thể tạo nên loài, nhiều con người đơn lẻ tạo nên xã hội. Như vậy, ngay cả việc
có thừa nhận sự tồn tại của các mối liên hệ cũng vẫn là những người siêu hình.
Cũng thừa nhận sự tồn tại của các mối liên hệ và chuyển hóa giữa chúng,
những người duy tâm khách quan tìm nguyên nhân từ một lực lượng siêu nhiên
bên ngoài con người (Thần thánh, Chúa Trời, Thượng đế…); còn những người
duy tâm chủ quan thì tìm nguyên nhân từ ý muốn chủ quan của con người.
Ngược lại, theo quan điểm biện chứng, các sự vật, hiện tượng, quá
trình…tuy khác nhau, song luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, chúng vừa
tồn tại một cách độc lập, vừa tương tác với nhau, chúng vừa có cuộc sống riêng,
có lịch sử hình thành, phát triển và diệt vong của mình, nhưng cũng có sự ảnh

hưởng từ những sự vật, hiện tượng, quá trình…khác, và bản thân chúng cũng
ảnh hưởng đến những sự vật, hiện tượng, quá trình…đó.
Nguyên nhân của mối liên hệ phổ biến này chính là tính thống nhất vật
chất của thế giới. Triết học duy vật biện chứng đã khẳng định, từ thành tựu của
nhiều ngành khoa học, nguồn gốc và bản chất của thế giới này là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Nội dung về tính thống nhất vật chất của thế giới
đã được chủ nghĩa duy vật biện chứng phân tích cơ bản và hết sức rõ ràng:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Thế giới này
tồn tại một cách khách quan, có trước và hoàn toàn độc lập với ý thức của con
người. Con người cũng chỉ là một bộ phận của thế giới khách quan đó.
Thứ hai, tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới ấy đều có mối liên hệ
thống nhất với nhau, đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cũng chịu sự chi phối
của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới khách quan.
Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận, không tự sinh
ra, cũng không tự mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình
vật chất đang biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, là nguyên nhân, kết quả của nhau.
Khoa học tự nhiên đã có nhiều thành tựu chứng minh tính đúng đắn của
luận thuyết trên.


Từ những căn cứ thực tiễn và cơ sở lý luận đó, phép biện chứng duy vật
khẳng định: Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt
của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ mang nhiều đặc điểm đa dạng, nổi bật là ba tính chất căn
bản sau.
Tính khách quan của mối liên hệ. Các mối liên hệ là vốn có của thế giới,
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ ai, bất cứ lực lượng nào. Kết
luận này đối lập hoàn toàn với quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, khi cố gắng

tìm nguyên nhân của mối liên hệ nằm bên ngoài sự vật. Sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập chính là nguyên nhân, nguồn gốc, động lực của sự
vận động và phát triển của chúng, các tác động từ bên ngoài chỉ có thể thúc đẩy
thêm hoặc kìm hãm quá trình ấy mà thôi. Con người có thể nhận thức được,
nhưng cũng có thể chưa nhận thức ra mối liện hệ ấy, tùy thuộc vào trình độ và
các giai đoạn nhận thức của con người.
Tính phổ biến của mối liên hệ: bất kỳ ở sự vật, hiện tượng, quá trình nào;
hoặc ngay trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình ấy, tại bất kỳ không
gian, thời gian nào, chúng ta cũng có thể thấy được sự hiện diện của những mối
liên hệ ấy, của sự vật, hiện tượng, quá trình với nhau, và các thành tố trong cùng
một sự vật, hiện tượng, quá trình. Có lúc con người nhận thức được nó, có lúc
chưa nhận thức được, nhưng chúng vẫn hiện diện.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ. Đây là tính chất khá phức tạp,
biểu hiện rõ nhất tính biện chứng của mối liên hệ. Các sự vật, hiện tượng, quá
trình ở các không gian, thời gian khác nhau sẽ có sự hoạt động và tác động
khác nhau. Muôn vàn sự vật, hiện tượng, sẽ có muôn vàn cách thức thể hiện sự
liên hệ, tương hỗ, tác động, ảnh hưởng…với các mức độ khác biệt. Người ta
có thể chia mối liên hệ thành nhiều loại để nhận biết: mối liên hệ bên trong,
mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ
chính, mối liên hệ phụ, mối liên hệ cơ bản, mối liên hệ không cơ bản, mối liên
hệ tất yếu, mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ trước mắt, mối liên hệ dài lâu,


mối liên hệ trực tiếp, mối liên hệ gián tiếp…Điều quan trọng là, những mối
liên hệ này không phải nhất thành bất biến mà luôn biến đổi, luôn tác động
qua lại, cái này làm tiền đề cho sự ra đời của cái kia hoặc ngược lại, thậm chí
còn chuyển hóa cho nhau, trong hoàn cảnh, trường hợp này có thể là liên hệ
bên trong, tất yếu, cơ bản…nhưng ở trường hợp khác, hoàn cảnh khác lại chỉ
là mối liên hệ bên ngoài, ngẫu nhiên, không cơ bản…Ví dụ như, xét ở môi
trường xã hội, thì mối liên hệ giữa những thành viên trong một gia đình là mối

liên hệ bên trong, nhưng cũng vẫn những con người ấy, những quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ tình cảm ấy, xét trong môi trường gia đình đó, thì lại là
mối liên hệ bên ngoài của từng cá nhân. Việc từng cá nhân sống trong tự nhiên
như thế nào lại không thể chỉ là việc của riêng họ, mà đã là việc của toàn thể
xã hội, xét cả thời hiện tại và tương lai. Soi chiếu vào một môi trường khá đặc
biệt - môi trường của một trại giam, thì mối quan hệ giữa phạm nhân với cán
bộ quản trại, giữa phạm nhân với phạm nhân, giữa cán bộ chiến sỹ với cán bộ
chiến sỹ, có thể coi là mối liên hệ cơ bản, bên trong; nhưng nếu xét đối với
phạm nhân đó, thì mối liên hệ bên trong, cơ bản nhất, thiết nghĩ, lại chính là
mối quan hệ của họ với chính bản thân mình. Vì vậy, dù có biện pháp nào đi
chăng nữa, biện pháp trọng tâm nhất, hữu hiệu nhất cho quá trình cải tạo phạm
nhân, phải dành cho chính phạm nhân.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trang bị cho chúng ta quan điểm toàn
diện. Muốn nhận thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, cần tuân thủ những
yêu cầu của nguyên tắc toàn diện, được xây dựng trên cơ sở của quan điểm này.
1.1.2.Các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện yêu cầu trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn, chúng ta cần tôn trọng quan điểm toàn diện, tránh cách nhìn
phiến diện, một chiều. Muốn nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu từ
nhiều góc độ khác nhau mới thấy được hết bản chất của sự vật, hiện tượng đó.
Với những góc độ khác nhau sẽ cho ta các nhận xét khác nhau về sự vật, hiện


tượng mà ta nghiên cứu, từ đó, tổng hợp lại sẽ cho ta một hình ảnh tổng thể về
sự vật hiện tượng mà ta nghiên cứu.
Bên cạnh việc nhìn nhận sự vật, hiện tượng ở nhiều góc nhìn khác nhau,
chúng ta còn phải đánh giá các mối liên hệ xung quanh, các mối liên hệ gián
tiếp của sự vật hiện tượng đó, vì thực tế khoa học đã chứng minh, không có bất
cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tại độc lập mà không tồn tại bất cứ mối liên hệ
nào với sự vật, hiện tượng khác. Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều tồn tại

dưới muôn vàn mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Chúng tác động qua lại, hỗ trợ,
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của nhau.
Cần tìm ra được nhiều mối liên hệ xung quanh sự tồn tại của khách thể,
kể cả các mối liên hệ đang kìm hãm, tác động tiêu cực đến sự vật, hiện tượng.
Làm rõ các yếu tố, tính chất, vai trò của từng mối liên hệ có tác động ảnh hưởng
đến sự vật, hiện tượng mà ta nghiên cứu. Đặc biệt chú ý những mối liên hệ hoặc
những yếu tố, tính chất mang tính quyết định đến sự vận động hoặc tồn tại của
sự vật hiện tượng đó.
Phân loại để xác định các mối liên hệ, quan hệ (đặc điểm, tính chất, mặt,
yếu tố,…) nào là bên trong, bên ngoài, bền vững, không bền vững, tác động tích
cực, tác động tiêu cực. Căn cứ vào các mối quan hệ, liên hệ đã được phân loại
để lý giải những mối quan hệ, liên hệ còn lại. Thông qua việc lý giải đó hình
thành nên hệ thống hình ảnh về sự vật hiện tượng mà ta nghiên cứu một cách
toàn diện và hoàn chỉnh nhất trên cơ sở thống nhất và phát hiện ra các quy luật
chi phối sự vật, hiện tượng. Như vậy, không phải tất cả các mối liên hệ đều
được chú ý, phân tích và giải quyết như nhau. Cần lựa chọn để tập trung vào
những mối liên hệ căn bản nhất, quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng. Những mối liên hệ không bản chất sẽ được nghiên cứu với mức
độ phù hợp và tìm giải pháp thích đáng nhất.
Thông qua hoạt động thực tiễn, ta lựa chọn và sử dụng đồng bộ phù hợp
một hoặc nhiều biện pháp, phương pháp, công cụ (mà trước hết là các biện
pháp, công cụ, phương pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ (đặc điểm,


tính chất, mặt, yếu tố,…) của bản thân sự vật, hiện tượng. Đặc biệt chú ý những
mối liên hệ bên trong, cơ bản, tất nhiên và quan trọng của nó.
Nắm bắt sự chuyển hóa của các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, kịp
thời áp dụng các biện pháp, phương pháp cùng những công cụ, phương tiện phù
hợp nhằm điều chỉnh sự tác động của các yếu tố bên ngoài để sự vật, hiện tượng
phát triển và vận động theo mong muốn của chúng ta, hoặc hạn chế tác động

tiêu cực phù hợp với lợi ích và mục đích nghiên cứu.Sự chuyển hóa giữa các
mối liên hệ diễn ra linh hoạt, theo diễn trình khác biệt, nên con người cũng cần
có sự linh hoạt trong đánh giá và vận dụng, tùy cơ ứng biến để đối nhân xử thế
sao cho phù hợp nhất.
Áp dụng vào thực tiễn một cách đúng đắn với phương pháp phù hợp,
đồng thời tuân thủ theo những yêu cầu của nguyên tắc sẽ giúp cho chúng ta
khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy
biện,...trong cả lý luận và thực tiễn.
Chủ nghĩa phiến diện chỉ nhìn nhận, nghiên cứu sự vật, hiện tượng ở một
khía cạnh nhất định mà quên đi những mối liên hệ xung quanh, do đó không
thấy được tính chỉnh thể, toàn vẹn của sự vật, hiện tượng, phản ánh sai lệch, dẫn
đến việc đánh giá nhận định sai về chúng, không định hướng được sự phát triển,
vận động của sự vật, hiện tượng, không có biện pháp, phương pháp và công cụ
tác động phù hợp để cho sự vật, hiện tượng vận động theo mong muốn.
Chủ nghĩa chiết trung xem xét sự vật, hiện tượng có chú ý đến nhiều khía
cạnh, nhiều mối liên hệ của khách thể nhưng lại xem giá trị, vai trò của các mối
liên hệ, quan hệ đó như nhau, chưa phân loại và đánh giá được mối quan hệ nào
giữ vai trò quan trọng, chủ đạo, nên khi áp dụng lại không đưa ra được biện
pháp hữu hiệu, từ đó dẫn đến việc áp dụng các biện pháp tác động chưa phù
hợp, mang tính dàn đều, không trọng tâm, trọng điểm, vì vậy mà không đạt
được kết quả và mục đích như ý. Sự kết hợp các mối liên hệ, quan hệ hoàn toàn
rời rạc, vô nguyên tắc, không tạo được tính chỉnh thể thống nhất nên bất lực khi
đưa ra quyết sách để giải quyết vấn đề.


Chủ nghĩa ngụy biện cũng xem xét sự vật, hiện tượng ở nhiều góc độ
nhưng lại đổi ngược vai trò của các yếu tố, cái cơ bản thành không cơ bản, cái
tất yếu thành cái ngẫu nhiên và ngược lại, dẫn đến khi áp dụng phương pháp,
công cụ tác động, gây tác dụng ngược lại mục đích nghiên cứu. Những người
ngụy biện thường có mục đích rõ rệt, khi muốn thay đổi bản chất vấn đề theo

hướng có lợi cho mình.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kì quan trọng.
Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà còn phải liên
hệ nhận thức với thực tiễn cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các
cá nhân hay các giai tầng) khác nhau trong xã hội, biết phân biệt đâu là lợi ích
cơ bản (sống còn) và đâu là lợi ích không cơ bản, phải biết phát huy mọi tiềm
năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội (kinh tế chính
trị, văn hóa), từ các thành phần kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã hội... để có
thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa
bình quân, quan điểm dàn đều, tức là không thấy được trọng tâm, trọng điểm,
điều cốt lõi của vấn đề, nhất là những vấn đề liên quan đến con người, đến việc
đào tạo, giáo dục con người.
1.2.Khái lược về công tác cải tạo phạm nhân
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản: Phạm nhân, cải tạo phạm nhân
Phạm nhân là những người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, họ đang
chấp hành bản án, hoặc quyết định có hiệu lực của tòa án tại các nhà tạm giữ,
trại tạm giam hoặc trại giam do Bộ Công an quản lý.
Phạm nhân bị giam giữ và quản lí theo qui định của “Luật thi hành án
hình sự”, họ bị tước bỏ một số quyền cơ bản, chịu sự quản lí của lực lượng cảnh
sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (cảnh sát trại giam).
Phạm nhân được hưởng đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng về những
nhu cầu thiết yếu như: ăn, mặc, ở, sinh hoạt, lao động học nghề và liên lạc, thăm
gặp thân nhân theo qui định của pháp luật.
Phạm nhân được phân loại theo từng mức độ nguy hiểm dựa trên các cơ
sở về đặc điểm nhân thân, tiền án, tiền sự, tính chất mức độ thực hiện hành vi


phạm tội,... để có biện pháp giam giữ quản lý họ tốt nhất, đảm bảo phạm nhân
phải chấp hành xong hình phạt tù mà Tòa Án đã tuyên phạt. Thông qua việc
phân loại phạm nhân cán bộ trại giam cũng có thể nắm được nhiều thông tin về

phạm nhân thuận tiện cho việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ được tốt hơn.
Về cơ bản phạm nhân là người có hành vi nguy hiểm cho xã hội nên buộc
phải áp dụng hình phạt tù đối với họ, nhưng suy cho cùng họ vẫn là con người
nên họ vẫn có các nhu cầu về tâm sinh lý nhưng bao nhiêu người khác, chính vì
vậy hình phạt tù đối với họ chỉ tước bỏ một số quyền lợi cơ bản của họ mà vẫn
giữ lại cho họ những quyền con người cơ bản như ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh,
liên lạc với thân nhân và người thân...
Cải tạo phạm nhân là một quá trình tác động trực tiếp của cán bộ trại
giam lên phạm nhân trong suốt quá trình họ chắp hành án tại trại giam, nhằm
biến đổi tư tưởng suy nghĩ lệch lạc trái với chuẩn mực xã hội và hòa nhập với
cộng đồng khi họ chấp hành xong hình phạt tù. Hoạt động cải tạo phạm nhân là
hoạt động thực hiện do cán bộ trại giam với nhiều phương thức tác động trong
đó có nhiều biện pháp vận dụng như pháp luật, tâm lý, giáo dục, hướng nghiệp,
lao động, dạy nghề... và kể cả biện pháp nghiệp vụ của ngành công an. Việc cải
tạo phạm nhân được nhiều cán bộ trại giam với lĩnh vực chuyên trách cùng thực
hiện để mang lại hiệu quả cải tạo cao nhất. Phạm nhân là người nhận sự cải tạo
của cán bộ trại giam với tâm thế bị động và đa dạng về tư tưởng, suy nghĩ nên
khi cải tạo phạm nhân cán bộ trại giam phải có sự chuẩn bị rất kĩ lưỡng về mọi
mặt để có phương thức phù hợp và tuyệt đối an toàn với mọi đối tượng.
Cải tạo phạm nhân là hoạt động thường xuyên, liên tục của lực lượng
cảnh sát trại giam. Họ áp dụng nhiều biện pháp từ nghiệp vụ, giáo dục cảm hóa,
động viên, giúp đỡ những phạm nhân chưa tiến bộ thay đổi tư tưởng, an tâm
chấp hành hình phạt, sớm hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước
đối với phạm nhân. Cải tạo phạm nhân phải được thực hiện một cách thường
xuyên, liên tục, bởi phạm nhân chấp hành án tại trại giam bị hạn chế một số


quyền cơ bản, họ chưa chấp nhận được môi trường cải tạo tù túng, thiếu tự do,
nên luôn có suy nghĩ tiêu cực, chống phá hoặc trốn khỏi nơi giam giữ.
Bản thân phạm nhân đa phần là người không có việc làm, chây lười lao

động, hoặc thích hưởng thụ, quen lối sống xa hoa, lãng phí, vào trại giam họ lại
bị hạn chế nhiều quyền lợi, nên nhiều người không chịu tích cực cải tạo, họ tiếp
thu sự giáo dục hạn chế, vì vậy công tác cải tạo phải được thực hiện một cách
linh hoạt, mềm dẻo nhằm uốn nắn họ tích cực trong việc hoàn thiện bản thân,
thay đổi suy nghĩ, lối sống và chấp hành bản án tốt hơn.Công tác cải tạo phạm
nhân nên được áp dụng nhiều biện pháp khác nhau vì phạm nhân chấp hành án
tại trại giam đa dạng về nhân thân, tuổi tác, nghề nghiệp, thành phần xã hội, dân
tộc, tôn giáo,...Có nhiều đối tượng với nhiều tiền án, tiền sự rất manh động và
dễ bị kích động lôi kéo. Áp dụng các biện pháp cải tạo họ một cách phù hợp sẽ
giúp cho hoạt động cải tạo phạm nhân đạt hiệu quả cao, từ đó bản thân mỗi
phạm nhân thấy được quyền và nghĩa vụ của mình khi chấp hành án tại trại
giam để thực hiện tốt hơn nội qui trại giam.
Trong môi trường trại giam phạm nhân không những chịu tác động giáo
dục cải tạo của cán bộ của trại giam mà bên cạnh đó các mối quan hệ khác như
bạn bè, người thân, các cơ quan tổ chức đoàn thể,..cũng góp phần tương tác đến
phạm nhân để mang họ về từ trong bóng tối của tội lỗi và sự mặc cảm với xã
hội. Thông qua các hoạt động trong trại giam như gọi điện thoại, cho phạm nhân
viết và nhận thư với gia đình, người thân việc cải tạo phạm nhân được lồng
ghép vào bên trong đó để mang lại hiệu quả cải tạo cao hơn.
Giáo dục cải tạo phạm nhân có ý nghĩa nhân văn rất sâu sắc, nó không
chỉ dừng lại ở giới hạn là phạm nhân chỉ thay đổi trong môi trường trại giam
mà khi họ tái hòa nhập với cộng đồng xã hội thì sự thay đổi đó vẫn được tiếp
tục duy trì. Để đạt được mục đích cải tạo to lớn như vậy đòi hỏi từng cán bộ
trại giam làm công tác giáo dục cải tạo phạm nhân phải có kiến thức rộng lớn
với nhiều phương thức tác động hiệu quả mới mang lại được hiệu quả cải tạo
như mong muốn.


Công tác cải tạo phạm nhân gắn liền với các chế độ chính sách của Đảng
và Nhà nước, giúp cho người phạm tội thấy được sự quan tâm của Đảng và nhà

nước với họ, nêu bật lên tính nhân đạo sâu sắc, nhân văn thông qua các chế độ
khen thưởng, khuyến khích, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, đặc xá, tha tù
trước thời hạn, hỗ trợ cho họ kinh phí tái hòa nhập cộng đồng. Thông qua các
chế độ, chính sách giúp cho phạm nhân có mục đích phấn đấu, tích cực cải tạo
để sớm về với gia đình và xã hội.
1.2.2. Công tác cải tạo phạm nhân ở trại giam Châu Bình hiện nay
Trại giam Châu Bình trực thuộc Tổng cục VIII – Bộ Công An đóng quân
trên địa bàn xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Đây là một trong
những xã thuộc vùng sâu, vùng xa với điều kiện khí hậu hết sức khắc nghiệt. Là
một trại giam được hình thành từ năm 1976 (trước đây là trại tập trung cải tạo
của Ty Công an tỉnh Bến Tre) trực thuộc cục V26 – Bộ Công An (Nay là tổng
cục VIII – Bộ Công An), với cơ sở vật chất thấp kém, đồi sống cán bộ chiến sĩ
lẫn phạm nhân chưa được chú trọng, công tác quản lý lõng lẽo do lực lượng làm
công tác quản lý còn ít, trang bị khí tài và công cụ hỗ trợ còn kém. Ban giám thị
cùng cán bộ trại giam cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ chính đó là vừa quản lý
giam giữ phạm nhân, vừa đẩy mạnh công tác khai phá mở rộng qui mô giam
giữ. Công tác cải tạo phạm nhân chưa được chú trọng nhiều, trong thời điểm
này rất ít các văn bản qui phạm pháp luật về giam giữ phạm nhân được ban
hành, công tác cải tạo gặp rất nhiều khó khăn.
Khi vừa thành lập, trại giam Châu Bình đóng quân trên một xã vùng xâu
vùng xa, gần như tách biệt với xã hội bên ngoài, việc tổ chức cho phạm nhân
lao động học nghề cũng ít đa dạng, chủ yếu đó là những ngành nông nghiệp
mang tính chất tự cung, tự cấp. Chính vì vậy hiệu quả công tác cải tạo phạm
nhân không cao, đa phần khi phạm nhân chấp hành xong hình phạt tù trở về với
gia đình và xã hội không hòa hợp, không nuôi sống được bản thân dẫn đến tình
trạng phạm nhân tái phạm tội còn rất cao.


Hiện nay, trại giam Châu Bình dưới sự quan tâm của lãnh đạo ban giám
thị cùng với sự quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức cơ quan đặc biệt sự quan

tâm của Đảng và Nhà nước đã hỗ trợ kinh phí xây dựng hệ thống cơ sở vật chất
khang trang, tương đối đầy đủ. Nơi ăn ở, sinh hoạt, học tập của phạm nhân cũng
được mở rộng, trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy phạm nhân cũng đảm
bảo đầy đủ hơn. Hệ thống ngành nghề được mở rộng, trại giam chủ động xây
dựng hệ thống nhà xưởng với đa ngành nghề, phù hợp với nhiều loại đối tượng
phạm nhân.
Trong những thập kỉ gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách có lợi cho phạm nhân, giúp họ an tâm hơn trong cải tạo. Thông qua nhiều
lớp tập huấn, cán bộ chiến sĩ học hỏi, đúc kết được nhiều kinh nghiệm áp dụng
vào thực tiễn cải tạo phạm nhân mang lại hiệu quả cao. Đời sống cơ sở vật chất
được trang bị tốt hơn, với khu giam giữ thoáng mát, sạch sẽ, rộng rãi đảm bảo
cho phạm nhân có khu sinh hoạt, nghỉ ngơi theo qui định của pháp luật. Không
khí cải tạo được cải thiện đáng kể, thân nhân phạm nhân cũng an tâm hơn khi để
con em họ chấp hành án tại trại giam, và có những hành động thiết thực nhằm
động viên tư tưởng, giáo dục ý thức cho con em họ chấp hành nghiêm chỉnh nội
qui trại giam, tuân thủ mệnh lệnh cán bộ trong việc cải tạo phạm nhân.
Dưới ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trại giam
Châu Bình từng bước chuyển đổi công tác hướng nghiệp dạy nghề từ lao động
nông nghiệp sang công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Việc chuyển đổi này
làm cho hệ thống nghề đa dạng, gần với thực tế ngành nghề ở các địa phương
cho nên tạo tiền đề cơ bản cho phạm nhân khi chấp hành xong hình phạt tù trở
về sẽ có được công ăn việc làm ổn định, từ đó giảm số lượng phạm nhân tái
phạm tội. Việc đa dạng về ngành nghề tại trại giam giúp cho phạm nhân chọn
lựa được công việc để họ học tập, rèn luyện, nâng cao tay nghề, phục vụ cho
chính bản thân họ khi tái hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân từ đó được chú trọng và nâng cao chất
lượng. Khi phạm nhân mới nhập trại, họ sẽ được học nội qui trại giam, tiêu chuẩn
thi đua chấp hành án phạt tù, điều lệnh đội ngũ để họ tự đưa bản thân vào khuôn



khổ, chuẩn mực, rèn luyện chung mà tự cải tạo bản thân. Phạm nhân được phổ
biến các văn bản pháp luật, được giải thích quyền và nghĩa vụ của họ khi chấp
hành án tại trại giam, được tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, vui chơi thể
dục thể thao. Hàng năm, trại giam mở nhiều lớp học pháp luật, phối hợp với hội
luật gia, tuyên truyền, phổ biến những thay đổi về pháp luật cho phạm nhân biết,
trang bị cho những phạm nhân sắp chấp hành xong hình phạt tù có những kiến
thức cơ bản về pháp luật để khi tái hòa nhập cộng đồng họ chấp hành tốt hơn. Các
hoạt động tự khai, tự phê cũng được trại giam thường xuyên tổ chức để cho cá
nhân phạm nhân tự giác trong việc chấp hành nội qui trại giam, cũng như đấu tranh
chống lại các hành vi vi phạm nội qui của phạm nhân khác hay những hành vi vi
phạm pháp luật ngoài xã hội mà phạm nhân biết, góp phần tích cực vào công cuộc
giữ gìn trật tự trại giam, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cũng được quan tâm và cải thiện
đáng kể. Trại giam có hai trung tâm y tế ở hai phân trại, đảm bảo cấp phát thuốc
chữa bệnh cho phạm nhân kịp thời, đạt hiệu quả phòng và trị bệnh cao. Từ đó
làm cho bản thân mỗi phạm nhân an tâm tư tưởng, tích cực cải tạo thành người
có ích cho xã hội. Hàng năm, trại giam phối hợp với trung tâm y tế dự phòng
của huyện Giồng Trôm và trung tâm y tế dự phòng tỉnh Bến Tre mở nhiều đợt
xét nghiệm, khám chữa bệnh cho phạm nhân, khám sức khỏe định kì, từ đó cho
thấy được sự quan tâm của trại đến mỗi phạm nhân, luôn tạo cho họ những điều
kiện tốt nhất để họ an tâm cải tạo. Trại giam cũng linh động cho thân nhân phạm
nhân phối hợp trong công tác phòng và chữa bệnh thông qua việc cho họ tự
trang bị thuốc đặc trị đối với một số trường hợp mắc bệnh có yêu cầu đặc trị,
cách ly.
Tổ chức cho phạm nhân thăm gặp gia đình, người thân và thông qua công
tác thăm gặp, vận động người thân họ động viên, uốn nắn giúp cho phạm nhân
có nhiều động lực để phấn đấu sửa chữa hơn. Việc tổ chức cho phạm nhân thăm
gặp thân nhân được trại giam đặt trong khuôn khổ qui định của pháp luật thi
hành án hình sự, tuy nhiên cũng có linh động đối với những gia đình hoặc phạm



×