Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

LO âu của BỆNH NHÂN UNG THƯ điều TRỊ tại TRUNG tâm y học hạt NHÂN và UNG bướu BỆNH VIỆN BẠCH MAI và một số yếu tố LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.82 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

TRỊNH PHƯƠNG THẢO

LO ÂU CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐIỀU TRỊ TẠI
TRUNG TÂM Y HỌC HẠT NHÂN VÀ UNG BƯỚU –
BỆNH VIỆN BẠCH MAI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC


HÀ NỘI – 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

TRỊNH PHƯƠNG THẢO

LO ÂU CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐIỀU TRỊ TẠI
TRUNG TÂM Y HỌC HẠT NHÂN VÀ UNG BƯỚU –
BỆNH VIỆN BẠCH MAI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN


Chuyên ngành: Quản lý bệnh viện
Mã số:

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS. TRƯƠNG VIỆT DŨNG


HÀ NỘI – 2015
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BN

Bệnh nhân

BHYT

Bảo hiểm y tế

CI
DALYs

Khoảng tin cậy
Số năm sống điều chỉnh theo bệnh tật

GBD
HADS
ICD – 10
Min
Max


Tổ chức đánh giá gánh nặng bệnh tật toàn cầu
Thang đánh giá lo âu và trầm cảm tại bệnh viện
Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10
Giá trị nhỏ nhất
Giá trị lớn nhất

NC
OR

Nghiên cứu
Tỷ suất chênh

SAS
SD

Thang tự đánh giá lo âu của Zung
Độ lệch chuẩn

UICC
WHO

Hiệp hội phòng chống ung thư quốc tế
Tổ chức Y tế Thế giới


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG



5

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, bệnh ung thư đang là một trong những nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu trên toàn thế giới với một tốc độ gia tăng đáng báo động [1]. Theo như lời
kêu gọi Hành động toàn cầu chống ung thư của Tổ chức y tế thế giới (WHO) và
Hiệp hội phòng chống ung thư quốc tế (UICC), năm 2000 đã có 22,4 triệu người
đang sống với ung thư trong đó có 10,1 triệu ca mới mắc. Căn bệnh này cũng đã lấy
đi mạng sống của 6,2 triệu người chiếm 12,6% nguyên nhân của tất cả các trường
hợp tử vong và con số này thậm chí còn nhiều hơn so với tỷ lệ tử vong gây ra bởi
HIV/AIDS, lao và sốt rét cộng lại [2]. Đến năm 2002, số người chết vì ung thư đã
tăng lên là 6,7 triệu người và sau hai năm số bệnh nhân tử vong do ung thư đã là 7,4
triệu chiếm hơn 13% nguyên nhân gây ra tất cả các trường hợp tử vong [3], [4]. Mới
đây, theo nghiên cứu về gánh nặng ung thư toàn thế giới của Tổ chức đánh giá gánh
nặng bệnh tật toàn cầu (GBD), năm 2013 có 14,9 triệu ca mới mắc, 8,2 triệu người
chết vì ung thư chiếm 15% nguyên nhân trong tất cả các trường hợp tử vong [5].
Trên đà gia tăng ngày càng nhanh, người ta dự đoán rằng sau 2 thập kỉ nữa, sẽ có
khoảng 20 triệu người mới mắc ung thư và hơn 10 triệu người chết vì căn bệnh này
mỗi năm [6].
Tại Việt Nam, theo báo cáo chung tổng quan ngành Y tế 2014 của Bộ Y tế và
nhóm đối tác, mỗi năm ước tính có 125.000 trường hợp mới mắc và hơn 80.000
người chết vì ung thư. Cũng theo báo cáo trên, tại Việt Nam, tỉ lệ mắc bệnh ung thư
tăng nhanh cùng với việc hơn 70% số bệnh nhân đến khám và chữa trị đều đã ở giai
đoạn III hoặc IV dẫn đến những tổn thất rất nặng nề đối với toàn xã hội [7].
Ngày nay, nền y học và khoa học kĩ thuật phát triển hiện đại với những
phương pháp điều trị tiên tiến, hiệu quả đã mang thêm niềm hi vọng cho bệnh nhân
ung thư nhưng những gánh nặng mà họ phải chịu đựng vẫn là rất lớn [8]. Bên cạnh
việc đối mặt với các vấn đề về kinh tế như trang trải viện phí hay đau đớn về thể
xác, suy giảm sức khỏe thì những tổn thương về tinh thần, lo lắng, căng thẳng cũng

là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư.


6

Theo như nghiên cứu của tiến sĩ Bottomley A (1998) thì những triệu chứng lo âu rất
phổ biến trên bệnh nhân ung thư nhưng lại thường ít được chẩn đoán và điều trị dẫn
đến nhiều trường hợp người bệnh không tuân theo sự chăm sóc y tế tốt nhất để có
thể phát huy tối đa hiệu quả phục hồi [9]. Một nghiên cứu khác của A Malekian và
cộng sự (2008) cho thấy lo âu, trầm cảm có thể mang đến những tác động tiêu cực
sâu sắc với người bệnh ung thư về cả tình trạng chức năng, chất lượng cuộc sống,
thời gian nằm viện và hiệu quả điều trị do đó việc đánh giá đúng mức và điều trị
những rối loạn này là rất quan trọng [10].
Như vậy có thể thấy bên cạnh việc điều trị về thể chất thì người bệnh ung thư
rất cần được quan tâm chăm sóc về mặt tinh thần. Những cảm xúc tiêu cực, lo âu,
buồn phiền mà bệnh nhân ung thư đang trải qua hàng ngày cần phải được chú ý
phát hiện, tìm hiểu và có những giải pháp chăm sóc phù hợp nhằm mang đến hiệu
quả điều trị tốt nhất và nâng cao chất lượng cuộc sống. Tuy vậy việc nghiên cứu các
vấn đề này tại Việt Nam vẫn còn hạn chế. Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu –
Bệnh viện Bạch Mai được thành lập từ tháng 12 năm 2008 và đã có những thành
tựu to lớn trong chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư với những kỹ thuật tiên tiến,
hiện đại ngang tầm các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay, chưa có nghiên
cứu nào về vấn đề lo âu của bệnh nhân ung thư được điều trị tại đây, do đó chúng
tôi thực hiện đề tài “Lo âu của bệnh nhân ung thư điều trị tại Trung tâm Y học
hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai và một số yếu tố liên quan” với
hai mục tiêu sau:

1. Mô tả tình trạng lo âu của bệnh nhân ung thư điều trị tại Trung tâm Y học
hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu của bệnh nhân ung thư

điều trị tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh viện Bạch Mai.


7

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh ung thư
1.1.1. Những khái niệm cơ bản về bệnh ung thư
Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào, khi bị kích thích của các tác nhân sinh
ung thư, tế bào tăng sinh một cách vô hạn độ, vô tổ chức không tuân theo các cơ chế
kiểm soát về phát triển của cơ thể [11].
Đa số bệnh ung thư hình thành các khối u. Khác với khối u lành tính chỉ phát
triển tại chỗ, thường rất chậm, có vỏ bọc xung quanh, khối u ác tính giống như hình
“con cua” với các càng cua bám vào các tổ chức lành trong cơ thể hoặc giống như
rễ cây lan trong đất. Các tế bào của khối u ác tính có khả năng di căn tới các hạch
bạch huyết hoặc các tạng ở xa hình thành các khối u mới và cuối cùng dẫn tới tử
vong. Cùng với di căn xa, tính chất của bệnh ung thư hay tái phát đã làm cho điều
trị bệnh khó khăn và ảnh hưởng xấu đến tiên lượng bệnh [11].
Bảng 1.1 Phân biệt u lành và u ác theo đặc tính sinh học [12]
U lành tính

Tế bào biệt hóa cao
Hiếm có phân bào
Phát triển chậm
Không xâm lấn
Không có hoại tử
Có vỏ bọc
Rất ít tái phát
Không di căn

Ít ảnh hưởng tới cơ thể

U ác tính

Ít biệt hóa
Luôn có gián phân
Phát triển nhanh
Xâm lấn lan rộng
Hay có hoại tử trung tâm
Không có vỏ hoặc ranh giới
Luôn tái phát
Di căn
Ảnh hưởng nặng tới cơ thể

Hiện nay, người ta biết có đến hơn 200 loại ung thư trên cơ thể người, những
loại ung thư này có đặc điểm giống nhau về bản chất nhưng có nhiều điểm khác
nhau về nguyên nhân gây bệnh, tiến triển của bệnh, về phương pháp điều trị và về
tiên lượng bệnh [11].
1.1.2. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh ung thư [11]
1.

Triệu chứng báo hiệu ung thư


8

Là những dấu hiệu lâm sàng xuất hiện tương đối sớm có thể giúp chẩn đoán
sớm được một số bệnh ung thư. Các dấu hiệu này thường nghèo nàn, ít đặc hiệu, ít
ảnh hưởng tới người bệnh nên dễ bị bỏ qua. Một số triệu chứng sớm cần chú ý như:
ho kéo dài, xuất huyết tiết dịch bất thường, thay đổi thói quen đại tiểu tiện, rối loạn

tiêu hóa kéo dài, đau đầu, ù tai một bên, nói khó, nuốt khó, nổi u, hạch, cục cứng
bất thường và xuất hiện các vết loét dai dẳng, khó liền .v..v
1.1.2.1.

Triệu chứng rõ rệt

- Sụt cân: bệnh ung thư ở giai đoạn rõ rệt và muộn thường gầy sụt nhanh chóng cơ
thể, sụt 5 – 10 kg trong vài tháng.

- Đau: do tổ chức ung thư xâm lấn, phá hủy các tổ chức xung quanh, các dây thần
kinh, người bệnh có thể chết vì đau, suy kiệt.

- Hội chứng bít tắc: do khối u thuộc các tạng rỗng phát triển gây bít tắc: ung thư đại
tràng gây tắc ruột; khối u hang vị dạ dày gây hẹp môn vị; ung thư tiền liệt tuyến gây
bí đái…

- Triệu chứng xâm lấn và chèn ép: do tổ chức ung thư xâm lấn, chèn ép vào cơ quan
lân cận, ung thư phế quản chèn ép vào tĩnh mạch chủ trên gây phù áo khoác. Khối u
vòm mũi họng chèn ép vào các dây thần kinh sọ gây liệt dây thần kinh sọ. Ung thư
cổ tử cung chèn ép niệu quản gây phù, vô niệu, ure huyết cao…

- Triệu chứng di căn: theo đường bạch mạch di căn hạch, theo đường máu gây di căn
các tạng gan phổi, di căn phúc mạc gây cổ trướng, di căn xương gây gãy xương
bệnh lý…
1.1.2.2.

Hội chứng cận ung thư
Là một nhóm các triệu chứng lâm sàng và sinh học do hoạt động mang
tính chất nội tiết của một số ung thư.Một số hội chứng cận ung thư thường
gặp như : hội chứng Cushing (là hội chứng thường gặp nhất), hội chứng

Schwartz – Bartter, hội chứng cường calci huyết, hội chứng cường giáp
trạng, các biểu hiện thần kinh cơ, biểu hiện xương khớp, biểu hiện bệnh lý
da ..v…v

1.1.3. Các nguyên tắc và phương pháp điều trị ung thư [11]


9

Ung thư là bệnh rất đa dạng về chủng loại, khác nhau về nguyên nhân, sự
phát triển, vị trí tổn thương, giai đoạn và tiên lượng bệnh, do đó để điều trị
đạt hiệu quả cần áp dụng nhiều phương pháp điều trị khác nhau và chỉ định
trên từng trường hợp cụ thể theo các nguyên tắc:
-

Nguyên tắc phối hợp

-

Xác định rõ mục đích điều trị

-

Lập kế hoạch điều trị

-

Bổ sung kế hoạch điều trị

-


Theo dõi sau điều trị
Một số phương pháp điều trị ung thư thường áp dụng :

- Phẫu thuật: là phương pháp điều trị cơ bản, nó cho phép loại bỏ phần lớn tổ chức
ung thư song nó chỉ thực hiện triệt để được khi bệnh ở giai đoạn sớm, tổ chức
khối u còn khu trú. Với giai đoạn muộn hơn, phẫu thuật không lấy hết được
những tổ chức ung thư đã xâm lấn rộng ra xung quanh (trên vi thể), do vậy việc
tái phát tại chỗ kèm theo di căn xa là không thể tránh khỏi nếu người bệnh chỉ
được điều trị bằng phẫu thuật đơn độc.

- Xạ trị: là phương pháp điều trị được chỉ định khá rộng rãi, nó tiêu diệt được các
tế bào ung thư đã xâm lấn rộng ra các vùng xung quanh khối u nguyên phát, là
nơi phẫu thuật không thể với tới được. Song khi điều trị sẽ gây tổn thương các tổ
chức lành và không điều trị được khi tế bào ung thư đã di căn xa hoặc với những
loại ung thư biểu hiện toàn thân (bệnh bạch cầu, bệnh u lympho ác tính…)

- Hóa trị liệu: là phương pháp điều trị toàn thân bằng cách đưa các loại thuốc hóa
chất vào cơ thể (uống, tiêm, truyền, tĩnh mạch, truyền động mạch…) nhằm mục
đích tiêu diệt tất cả các tế bào ung thư đã và đang lưu hành trong cơ thể người
bệnh. Tuy nhiên hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư cũng gây hủy hoại tế bào lành,
và có nhiều tác dụng phụ ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân, vì vậy liều lượng
hóa chất đưa vào cơ thể bị hạn chế, có nhiều bệnh bản thân hóa chất không điều
trị triệt để được mà phải phối hợp với các phương pháp điều trị khác.


10

- Nội tiết, miễn dịch…là những phương pháp điều trị hỗ trợ các phương pháp
khác, bản thân nó không có tác dụng điều trị triệt để căn bệnh ung thư.

Như vậy có thể thấy mỗi phương pháp chỉ giải quyết được một khâu trong quá
trình điều trị, do đó theo như nguyên tắc phối hợp, các phương pháp này sẽ bổ sung
cho nhau tạo thành một quá trình điều trị hoàn chỉnh mang lại hiệu quả tốt nhất cho
người bệnh. Và việc phối hợp các phương pháp điều trị cũng là chỉ định bắt buộc
đối với nhiều loại ung thư.
1.1.4. Dịch tễ học và gánh nặng của bệnh ung thư
1.1.4.1.Trên thế giới:
Ung thư đang là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử
vong trên toàn thế giới, với khoảng 14 triệu người mới mắc và 8,2 triệu ca tử vong
vào năm 2012 [1] .Số lượng các trường hợp mới mắc dự kiến sẽ tăng khoảng 70%
trong 2 thập kỷ tớivà hiện nay hơn 60% tổng số các trường hợp mới mắc hàng năm
của thế giới xảy ra ở châu Phi, châu Á, Trung và Nam Mỹ. Các vùng này cũng
chiếm đến 70% các ca tử vong do ung thư trên toàn thế giới [1], [13].
Số liệu thống kê năm 2012 cho thấy 5 loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới
là ung thư phổi, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư đại trực tràng, ung thư dạ dày và
ung thư gan. Đối với nữ giới là ung thư vú, ung thư đại trực tràng, ung thư phổi, ung
thư cổ tử cung và ung thư dạ dày [13]
Sử dụng thuốc lá là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với bệnh ung thư,gây
ra khoảng 20% các ca tử vong do ung thư và 70% các ca tử vong vì ung thư phổi
trên toàn cầu [13]. Ung thư do nhiễm virus như HBV / HCV và HPV chiếm tơi 20%
các ca tử vong do ung thư ở các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp [14].
Theo báo cáo về Ung thư toàn cầu năm 2008, gánh nặng ung thư đã tăng gấp
đôi trong ba mươi năm cuối cùng của thế kỷ XX, và người ta ước tính rằng điều này
sẽ tăng gấp đôi một lần nữa từ năm 2000 đến năm 2020 và gần gấp ba vào năm
2030 trên toàn thế giới [8]. Mỗi năm, ước tính nền kinh tế toàn cầu phải chi 1,16
nghìn tỷ đô la Mỹ dành cho phòng chống và điều trị ung thư còn những tổn hại về
kinh tế toàn cầu do ung thư gây ra cho các cá nhân, gia đình và xã hội ước tính


11


khoảng 2,5 nghìn tỷ đô la Mỹ [15]. Bên cạnh những thiệt hại về kinh tế, theo nghiên
cứu của Tổ chức GBD năm 2013 đã có 14,9 triệu ca mắc ung thư, 8,2 triệu ca tử
vong và 196,3 triệu DALYs (số năm sống bị mất đi do bệnh, tàn tật hay chết sớm).
Trong đó, 56% DALYs đến từ các ca mới mắc phải, 62% do tử vong và 70% DALY
thuộc về các nước đang phát triển. Tỉ lệ các ca tử vong do ung thư trong tổng số các
ca tử vong tăng từ 12% (năm 1990) lên 15% (năm 2013) và gánh nặng bệnh tật tăng
nhiều nhất ở các nước đang phát triển [5].
Có thể thấy, trước đây ung thư được coi là một căn bệnh của phương Tây và các
nước phát triển thì ngày nay, phần lớn gánh nặng ung thư được tìm thấy ở các nước
thu nhập trung bình và thấp [8].
1.1.4.2. Tại Việt Nam:
Theo thống kê của Bộ Y tế, có khoảng 125.000 trường hợp mới mắc và hơn
80.000 ca tử vong do ung thư mỗi năm. Dự báo vào năm 2020 sẽ có ít nhất 189 344 ca
ung thư mới mắc [7]. Trong tổng số ca ung thư, nữ chiếm 43% và nam giới 57%. Bốn
loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới là ung thư gan, phổi, dạ dầy và đại trực tràng,
chiếm 66% tổng số ca ung thư mới mắc ở nam giới. Ở nữ giới, bốn loại phổ biến nhất
là ung thư vú, phổi, gan, cổ tử cung, chiếm gần 50% tổng số ca ung thư mới mắc ở nữ
[16]. Tỷ lệ bệnh nhân ung thư đến khám và điều trị sớm còn thấp, năm 2009 một
nghiên cứu tại 5 bệnh viện ung thư cho thấy có 28,6% bệnh nhân đến khám trong giai
đoạn I và II của tất cả các loại ung thư, đối với ung thư vú có 50,5% đến sớm, ung thư
cổ tử cung 46,0% đến sớm và ung thư đại trực tràng 32,2% đến sớm [17].
Thống kê năm 2010, tổng số năm mất đi do tử vong sớm của bệnh nhân ung
thư tại Việt Nam là 2.319.533 YLLs, chiếm 19,2 % tổng số YLLs của tất cả các loại
bệnh. Về gánh nặng bệnh tật tính theo DALY, năm 2010 có 2.357.549 DALYs do
ung thư, chiếm 11% DALYs của tất cả các loại bệnh. Nhìn vào con số trên có thể
thấy ở nước ta, tỉ lệ bệnh nhân tử vong do ung thư cao, bệnh nặng mới đi khám
chữa nên thường tử vong nhanh, số năm sống tàn tật thấp [7].
1.2. Rối loạn lo âu
1.2.1. Một số khái niệm về lo âu



12

1.2.1.1. Lo âu bình thường
Lo âu là một hiện tượng cảm xúc tất yếu của con người trước những khó khăn,
thử thách của tự nhiên, xã hội. Lo âu cũng là tín hiệu cảnh báo trước những mối đe
dọa đột ngột, trực tiếp do đó giúp con người tồn tại và thích nghi [18].Lo âu bình
thường có chủ đề rõ ràng trong cuộc sống như công việc, học tập… và mang tính
chất nhất thời. Khi những sự kiện trong đời sống ảnh hưởng đến tâm lý chủ thể hết
tác động thì lo âu cũng không còn hoặc còn lại rất ít triệu chứng [19].
1.2.1.2. Lo âu bệnh lý
Khác với lo âu bình thường, lo âu bệnh lý có thể xuất hiện không có liên quan
tới một mối đe dọa rõ ràng nào hoặc các sự kiện tác động đã chấm dứt nhưng vẫn
còn lo âu, mức độ lo âu cũng không tương xứng với bất kì một đe dọa nào để có thể
tồn tại hoặc kéo dài. Khi mức độ lo âu gây trở ngại rõ rệt các hoạt động, lúc đó được
gọi là lo âu bệnh lý [20].
Lo âu bệnh lý thường kéo dài và lặp đi lặp lại với các triệu chứng như: mạch
nhanh, thở gấp, chóng mặt, khô miệng, vã mồ hôi, lạnh chân tay, run rẩy, bất an. Lo
âu bệnh lý cũng là lo âu không phù hợp với hoàn cảnh, không có chủ đề rõ ràng,
mang tính chất mơ hồ, vô lý [21], [22].
Theo Andrew R. Getzfeld (2006), sự phân biệt giữa lo âu bình thường và lo âu
bệnh lý là ở mức độ khó khăn trong kiểm soát hoặc loại bỏ lo âu [23].
Bảng 1.2. Sự khác nhau giữa lo âu bình thường và lo âu bệnh lý [24]
Lo âu bình thường
Lo âu bệnh lý
- Lo âu không làm ảnh hưởng đến công - Lo âu gây mất ổn định các hoạt động,
việc, hoạt động hàng ngày.
ảnh hưởng đến nghề nghiệp, cuộc sống
xã hội.

- Lo âu có thể kiểm soát được.
- Lo âu không thể kiểm soát được.
- Lo âu gây khó chịu đôi chút, không - Lo âu hết sức khó chịu, bồn chồn, căng
nặng nề.
thẳng.
- Lo âu giới hạn trong một số tình huống - Lo âu trong mọi tình huống bất kỳ,
có thật, hoàn cảnh đặc trưng, cụ thể.
luôn có xu hướng chờ đợi những kết
cục xấu.
- Lo âu chỉ tồn tại trong một thời điểm - Lo âu kéo dài ngày này qua ngày khác
nhất định
trong khoảng thời gian ít nhất 6 tháng
1.2.2. Phân loại các rối loạn lo âu [25]
Phân loại theo ICD-10


13

- Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ gồm: lo âu ám ảnh sợ khoảng trống, lo âu ám ảnh
sợ xã hội, lo âu ám ảnh sợ đặc hiệu, các rối loạn lo âu ám ảnh sợ khác, lo âu ám
ảnh sợ không biệt định.

- Các rối loạn lo âu khác gồm : rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn
hỗn hợp lo âu và trầm cảm, các rối loạn lo âu hỗn hợp khác, các rối loạn lo âu
không biệt định khác, rối loạn lo âu không biệt định.
Phân loại theo DSM – IV

- Rối loạn lo âu không biệt định bao gồm rối loạn hỗn hợp lo âu và trầm cảm
- Rối loạn hoảng sợ không bao gồm ám ảnh sợ đám đông
- Rối loạn lo âu lan tỏa

- Rối loạn hoảng sợ bao gồm ám ảnh sợ đám đông
- Ám ảnh sợ đám đông không có tiền sử rối loạn hoảng sợ
- Ám ảnh sợ xã hội
- Ám ảnh sợ đặc hiệu
- Rối loạn ám ảnh nghi thức
- Rối loạn stress cấp
- Rối loạn stress sau sang chấn
1.2.3. Biểu hiện lâm sàng của rối loạn lo âu
Những người bị rối loạn lo âu thường cảm thấy rất sợ hãi, không chắc
chắn cùng với những biểu hiện đa dạng và phức tạp. Họ thường xuyên lo
lắng và không thể kiểm soát sự lo lắng, không thể thư giãn, khó tập trung,
khó ngủ và duy trì giấc ngủ, hay bất chợt giật mình, bồn chồn và cáu gắt.
Ngoài ra các triệu chứng cơ thể thường gặp là: mệt mỏi, nhức đầu, chóng
mặt, căng thẳng, đau nhức cơ bắp, run rẩy, co giật, ra mồ hôi nhiều, hồi
hộp, khó thở, cảm giác như hết hơi, buồn nôn…[26], [27].
1.3. Rối loạn lo âu trên bệnh nhân ung thư


14

1.3.1. Tâm lý của bệnh nhân ung thư.
Mặc dù ngày nay với những tiến bộ không ngừng trong y học đã giúp
phát hiện sớm và kéo dài số năm sống cho bệnh nhân ung thư nhưng khi đối
mặt với căn bệnh này, người bệnh không chỉ lo lắng về sự sống và cái chết
mà còn rất nhiều những vấn đề khác bao gồm sự đau đớn trong cơ thể,
những tác dụng phụ gây ra bởi các phương pháp điều trị, những thương tật
vĩnh viễn hoặc suy giảm chức năng các cơ quan, quan hệ xã hội, khả năng
chi trả… tác động đến tâm lý của họ [28], [29]. Sự cẳng thẳng tâm lý này
diễn ra hàng ngày không chỉ với bệnh nhân ung thư mà còn ảnh hưởng đến
gia đình bệnh nhân và những người chăm sóc khác. Những tổn thương về

cả thể chất và tâm thần này có thể gây ra tình trạng mất khả năng lao động
hoặc thực hiện các vai trò xã hội của người bệnh [30]. Bên cạnh đó, những
rối loạn tâm lý tiến triển hàng ngày mà không được chú ý đến có thể ảnh
hưởng lớn đến việc điều trị ung thư và gây tử vong sớm. Do đó cần có
những can thiệp để cải thiện đời sống tinh thần sẽ có thể mang đến những
hiệu quả điều trị tốt hơn cho người bệnh ung thư [29].
1.3.2. Một số nghiên cứu về lo âu trên bệnh nhân ung thư
Năm 2001, Zabora J, BrintzenhofeSzoc K, Curbow B, Hooker C và
Piantadosi S đã tiến hành một nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ căng thẳng
tâm lý của các bệnh nhân ung thư với cỡ mẫu rất lớn gần 4500 người (n =
4496). Kết quả cho thấy tỷ lệ lo âu, căng thẳng và đau khổ về tâm lý trung
bình là 35,1% và số điểm trung bình cao nhất đối với các triệu chứng lo âu,
trầm cảm thuộc về nhóm bệnh nhân ung thư tuyến tụy [31].
Nhằm đánh giá ảnh hưởng của lo âu, trầm cảm đến chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân ung thư, Smith EM, Gomm SA và Dickens CM (2003) đã sử
dụng công cụ Hospital Anxiety and Depression Scale (HADS) tiến hành
nghiên cứu trên 68 bệnh nhân gồm 33 nam và 35 nữ. Kết quả cho thấy có
25% bệnh nhân lo âu ( điểm số lo âu ≥ 11), 22% bệnh nhân trầm cảm và
những rối loạn này có liên quan đến sự suy giảm chất lượng cuộc sống [32].


15

Cùng cho kết luận rối loạn lo âu làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân ung thư là nghiên cứu của Stark D, Kiely M và Smith A (2002) với cỡ
mẫu n=178 cho kết quả 48% bệnh nhân có triệu chứng lo âu và 18% lo âu
thực sự. Nghiên cứu này sử dụng thang đo HADS và S-TAI (State-Trait
Anxiety Inventory) [33]. Một nghiên cứu của Teunissen SC và cộng sự năm
2007 cũng sử dụng thang đo HADS cho thấy tỉ lệ lo âu trên bệnh nhân ung
thư là 34% (n=79) [34].

Nhằm mục tiêu xác định tỉ lệ lo âu và những mối liên quan trên bệnh nhân ung
thư, Ryan Spencer và cộng sự năm 2010 đã tiến hành nghiên cứu trên 635 người
cho thấy có 7,6% bị rối loạn lo âu, phụ nữ, những bệnh nhân bị suy giảm thể chất
nặng và bệnh nhân trẻ tuổi xuất hiện nhiều dấu hiệu lo âu hơn. Bên cạnh đó, những
bệnh nhân bị rối loạn lo âu có biểu hiện ít tin tưởng vào bác sĩ hơn, họ cảm thấy
không thoải mái khi đặt câu hỏi về sức khỏe của mình và thường ít có khả năng hiểu
được các thông tin lâm sàng mà bác sĩ nói. Họ cũng có nhiều biểu hiện nghi ngờ
những phương pháp điều trị mà bác sĩ đưa ra cũng như nghĩ rằng sự điều trị đó
không thể kiểm soát đầy đủ những triệu chứng của họ [35]. Một nghiên cứu khác
của N. AassS.D. Fosså, A.A. Dahl và T.J. Aloe (1997) tiến hành với 716 bệnh nhân
ung thư đo được tỉ lệ lo âu là 13% theo thang HADS. Những bệnh nhân nội trú có
nguy cơ bị các rối loạn tâm thần cao gấp hai lần những bệnh nhân ở phòng khám
ngoại trú. Nghiên cứu cũng cho thấy các triệu chứng lo âu xuất hiện ở nữ giới nhiều
hơn nam, sự suy giảm chức năng cơ thể, mệt mỏi, đau đớn cùng với việc hạn chế
khả năng lao động có ảnh hưởng đến sự lo âu của người bệnh [36].
Một nghiên cứu khác đã được thực hiện bởi Patricia A, ParkerWalter, F. Baile,
Carl de Moorvà Lorenzo Cohen (2002) với mục tiêu xác định những triệu chứng
rối loạn tâm lý và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư.
Nghiên cứu được tiến hành với 351 bệnh nhân và các kết quả phân tích chỉ ra rằng
những người bệnh lớn tuổi có sự hỗ trợ xã hội tốt hơn sẽ bớt lo âu hơn (p <0,001),
nam giới có ung thư không tái phát và những người không phải điều trị tích cực
cũng cho báo cáo chất lượng cuộc sống tốt hơn về sức khỏe thể chất (p <0,05).


16

Những người bệnh lớn tuổi, có gia đình, có học vấn, có hỗ trợ xã hội tốt cũng có
chất lượng cuộc sống tốt hơn về sức khỏe tâm thần (p <0,05). Những bệnh nhân có
sự hỗ trợ nhiều hơn sẽ bớt lo lắng và có kết quả chất lượng cuộc sống tốt hơn, do đó
việc đánh giá tình trạng hỗ trợ xã hội đối với bệnh nhân ung thư có thể giúp xác

định những nguy cơ rối loạn tâm lý [37].
Như vậy có thể thấy, những biểu hiện rối loạn lo âu là thường gặp trên
bệnh nhân ung thư [38], và để đánh giá tình trạng lo âu ở những bệnh nhân
ung thư giai đoạn cuối, một nghiên cứu của Elissa Kolva và cộng sự (2011)
với 194 bệnh nhân cho kết quả 18,6% có các triệu chứng lo âu và 12,4% lo
âu thực sự [39]. Một nghiên cứu khác của Stark D và cộng sự (2004) lại xem
xét tình trạng lo âu của bệnh nhân ung thư khi đã được điều trị thuyên giảm.
Nghiên cứu này sử dụng bảng câu hỏi đo sự lo lắng với 95 bệnh nhân ung
thư đã được điều trị thuyên giảm và kết quả là hơn 1/3 trường hợp có các
triệu chứng lo âu, sau đó các bác sĩ sử dụng các liệu pháp trấn an tinh thần
nhưng sự lo âu không vì thế mà giảm đi, như vậy lo âu vẫn có thể là một vấn
đề kể cả sau khi bệnh nhân ung thư đã được điều trị [40].
Xạ trị hiện nay đang là một phương pháp điều trị được chỉ định rộng rãi
với nhiều loại ung thư [11], để đánh giá những căng thẳng tâm lý của người
bệnh ung thư đang xạ trị ở Sydney - Australia, Mackenzie và cộng sự (2013)
đã tiến hành nghiên cứu trên 454 bệnh nhân bằng thang đo HADS cho kết quả
15% (HADS-A ≥11) [41]. Một nghiên cứu khác cũng về vấn đề lo âu của
người bệnh ung thư đang xạ trị do E. Frick và cộng sự (2007) dùng thang đo
HADS cho 63 bệnh nhân được kết quả tỉ lệ lo âu là 28,6% [42], [43]. Bên
cạnh đó, trong một nghiên cứu của K.A. Neilson và cộng sự (2010) cho thấy
có một sự thay đổi đáng kể về tỉ lệ lo âu của những bệnh nhân ung thư vùng
đầu và cổ trước và sau xạ trị. Tỉ lệ lo âu trước khi xạ trị là 30% và đã giảm còn
17% sau khi xạ trị, những bệnh nhân là nam giới có các triệu chứng lo âu
nhiều hơn do sự lo lắng về khả năng quan hệ tình dục sau này của họ [44].


17

Ung thư vú hiện đang là loại ung thư phổ biến nhất ở nữ giới [13],
trong một nghiên cứu trên 354 bệnh nhân ung thư vú do Maggie Watson và

cộng sự (1991) thực hiện nhằm đánh những phản ứng tâm lý của người bệnh
cho thấy có 16% lo âu và các dấu hiệu kiểm soát sự tức giận cùng thái độ bất
lực có mối liên quan với bệnh tật [45]. Ngoài ra, Diane Bodurka-Beversvà
cộng sự (2000) thực hiện một nghiên cứu cũng về vấn đề căng thẳng tâm lý
nhưng trên các bệnh nhân ung thư buồng trứng có kết quả 29% lo âu (n=246)
[46].
Ung thư đường tiêu hóa đang là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đối
với các bệnh nhân ung thư ở IRAN và cũng là loại ung thư phổ biến trên
toàn thế giới. Một nghiên cứu đã được tiến hành bởi Azadeh Tavoli và cộng
sự (2007) nhằm xem xét những rối loạn lo âu trên nhóm bệnh nhân này và
liệu việc biết về chẩn đoán bệnh có ảnh hưởng đến tâm lý của họ hay
không. Nghiên cứu sử dụng thang đo HADS với 142 bệnh nhân ung thư
đường tiêu hóa ( 29% ung thư thực quản, 30% ung thư dạ dày, 3% ung thư
ruột non, 22% ung thư đại tràng và 16% ung thư trực tràng), tuổi trung bình
của bệnh nhân là 54,1 (SD = 14,8), 56% nam giới, 52% biết về chẩn đoán
ung thư của họ và 48% không biết. Kết quả điểm số lo âu trung bình là 7,6
(SD = 4,5), có tới 47,2% bệnh nhân có các triệu chứng rối loạn lo âu, không
khác biệt đáng kể giữa giới tính, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân với tỉ
lệ lo âu. Về tuổi tác thì nhóm 30-39 tuổi có biểu hiện lo âu hơn hẳn những
nhóm tuổi khác (p=0,005). Bên cạnh đó, điểm số giữa những người biết về
chẩn đoán ung thư của mình là 9,1 (SD = 4,2) lại cao hơn đáng kể giữa so
với những bệnh nhân không biết là 6,3 (SD = 4,4). Ở các nước Trung Đông,
việc nhận được chẩn đoán mắc ung thư đối với họ gần như là cầm chắc cái
chết do đó người nhà thường yêu cầu bác sĩ không nói với bệnh nhân tình
trạng bệnh của họ. Điều này có thể làm cho những người bệnh trong nhóm
không biết chẩn đoán của mình có thêm nhiều hi vọng hơn do đó có thể dẫn


18


đến điểm số về lo âu cũng thấp hơn [47]. Ngoài ra, một nghiên cứu khác
của Nordin K và cộng sự (1996) trên 141 bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa
cho kết quả 15% bị rối loạn lo âu theo thang đo HADS [48], trong năm
1997 Nordin K và cộng sự tiếp tục làm một nghiên cứu khác cũng đo theo
thang HADS trên các bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa (n=139) thì tỉ lệ lo
âu là 17% [49]. Môt nghiên cứu khác tại Trung Quốc năm 2004 trên 108
bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa của Ke-Jun Nan và cộng sự đã sử dụng
thang đo SAS (Zung self-rating anxiety scale) cho kết quả tới 46,3% bệnh
nhân bị lo âu ( tổng điểm >50%) [50].
Như vậy có rất nhiều nghiên cứu cho thấy các triệu chứng lo âu trên
bệnh nhân ung thư là thường gặp, tuy nhiên việc ước tính tỉ lệ lo âu của người
bệnh ung thư lại rất khác nhau, có báo cáo đã cho thấy tỉ lệ này dao động trong
khoảng từ 1,5% đến gần 50% [51]. Tại Việt Nam, những nghiên cứu về lo âu
trên bệnh nhân ung thư là rất hạn chế. Năm 2014, Trương Thị Phương đã
nghiên cứu về tỉ lệ lo âu trầm cảm trên bệnh nhân ung thư tại bệnh viện K
(n=290) sử dụng thang đo HADS cho kết quả 27,2% có triệu chứng lo âu
trong đó tỉ lệ lo âu thực sự là 11,4%. Điểm lo âu trung bình là 5,7± 3,8 (min=0,
max=19), tỉ lệ lo âu nữ (19,7%) cao hơn so với nam (4,4%). Loại ung thư vú
và cổ tử cung cho tỷ lệ lo âu cao nhất 26,3% và 19,6% [43].
1.3.3. Các thang đo đánh giá tình trạng lo âu ở bệnh nhân ung thư
Có nhiều thang điểm trắc nghiệm để đánh giá các mức độ rối loạn tâm lý ở bệnh
nhân, trong đó có thang đo lo âu Zung, thang tự đánh giá mức độ lo âu S-TAI (StateTrait Anxiety Inventory), thang đánh giá lo âu Hamilton (Hamilton anxiety rating scale
– HARS), thang đánh giá lo âu và trầm cảm trên bệnh nhân tại bệnh viện (HADS)…

- Thang tự đánh giá lo âu của Zung (Self - Rating Anxiety Scale):do W.W. Zung
(1971) đề xuất là một phương pháp xác định mức độ lo lắng ở những bệnh nhân có
các triệu chứng lo âu chủ yếu tập trung vào những rối loạn phổ biến nhất, những
vấn đề căng thẳng thường gây ra lo lắng [52]. Test này được Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) thừa nhận là một test đánh giá trạng thái lo âu bao gồm 20 câu hỏi trong đó



19

15 câu hỏi về gia tăng sự lo lắng và 5 câu giảm. Có hai dạng đánh giá là tự đánh giá
và đánh giá lâm sàng. Các câu hỏi được tính điểm theo 4 mức tần suất xuất hiện
triệu chứng:
+ 1 điểm: không có hoặc ít thời gian.
+ 2 điểm: đôi khi.
+ 3 điểm: phần lớn thời gian
+ 4 điểm: hầu hết hoặc tất cả thời gian
Kết quả được đánh giá :
T < 50% : Không có lo âu bệnh lý
T > 50% : Có lo âu bệnh lý [43], [52].

- Thang tự đánh giá mức độ lo âu S-TAI (State-Trait Anxiety Inventory): Để đo
lường sự hiện diện và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng lo âu hiện tại. Có
hai loại phiên bản cho cả người lớn và trẻ em. Công cụ này là 2 bảng tự đánh giá
gồm tổng số 40 câu hỏi, mỗi bảng là 20 câu, người bệnh sẽ tự đánh giá theo các
mức độ và được quy ra điểm: 1 điểm, 2 điểm, 3 điểm và 4 điểm. Ở mỗi bảng, số
điểm nằm trong khoảng 20-80 điểm, điểm càng cao thì càng cho thấy sự lo lắng
nhiều hơn. Với người lớn, thời gian yêu cầu để hoàn thành bảng đo là 10 phút. Đây
là một phương pháp đánh giá nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng và rất phổ biến trên
thế giới, được dịch ra nhiều loại ngôn ngữ khác nhau, tuy nhiên khi muốn tìm sự
thay đổi về tâm lý trong một khoảng thời gian ngắn thì thang đo này vẫn còn hạn
chế do mục đích tìm các dấu hiệu lo âu đã tồn tại trong thời gian dài [53].

- Thang đánh giá lo âu Hamilton (Hamilton anxiety rating scale – HARS) : Đây
là thang đo được sử dụng rất rộng rãi trên lâm sàng đặc biệt là trong các nghiên cứu
hiệu quả điều trị lo âu [54], [55]. Thang đo này bao gồm 14 nhóm câu hỏi cho các
triệu chứng và tương đối chi tiết, thường được sử dụng đánh giá các triệu chứng lo

âu trong rối loạn lo âu lan tỏa [24].

- Thang đánh giá lo âu và trầm cảm trên bệnh nhân tại bệnh viện HADS : Đây là
công cụ có giá trị và đáng tin cậy để sàng lọc, đánh giá các triệu chứng lo âu và
trầm cảm của bệnh nhân tại bệnh viện [56], [57]. Thang đo này rất đơn giản, dễ hiểu


20

và dễ dàng hoàn thành trong khoảng thời gian chưa đến 5 phút, gồm 14 câu hỏi tự
trả lời về những triệu chứng của chính người bệnh trong thời gian tuần kế trước, bao
gồm 7 câu đánh giá lo âu (HADS – A) và 7 câu cho trầm cảm (HADS – D). Mỗi câu
hỏi có 4 lựa chọn theo các mức độ tương ứng với các số điểm từ 0 đến 3. Sau khi
tính tổng điểm cho mỗi phần, từ 11 điểm trở lên là rối loạn lo âu hay trầm cảm thực
sự, từ 8 đến 10 điểm là có thể có triệu chứng của lo âu hay trầm cảm, từ 0 đến 7
điểm là bình thường [53], [58], [59].
Nhìn chung HADS là công cụ đáng tin cậy, ngắn gọn, dễ sử dụng và có độ
nhạy cao với sự thay đổi [52]. Bên cạnh đó, thang đo này rất dễ thực hiện để phát
hiện một tỉ lệ lớn những rối loạn lo âu thường gặp ở bệnh nhân ung thư [60], [61].
Tại Việt Nam, thang đo này đã được mua bản quyền và dịch sang tiếng Việt bởi
Khoa nghiên cứu y học hành vi thuộc Trường Đại học New South Well, Úc [43].


21

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu – Bệnh
viện Bạch Mai từ 01/09/2015 đến 31/03/2016.

2.2. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
2.3.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
Bệnh nhân có đầy đủ các điều kiện dưới đây:

- Bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định bất kỳ loại ung thư nào và không phải
giai đoạn cuối

- Còn khả năng giao tiếp và sẵn sàng trả lời câu hỏi.
- Từ 18 tuổi trở lên.
- Đang điều trị xạ trị tại trung tâm Y học hạt nhân và Ung Bướu – Bệnh viên Bạch
Mai, bệnh nhân điều trị xạ trị từ lần thứ 2 trở lên.
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.3.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân điều trị tại Đơn vị điều trị chống đau và chăm sóc giảm nhẹ
- Được xác định không đủ thể lực và tinh thần để hoàn thành nghiên cứu hoặc
phỏng vấn bởi điều tra viên (mê sảng, mất trí nhớ, đã được chẩn đoán bệnh lý
tâm thần).
2.4. Cỡ mẫu nghiên cứu và kỹ thuật chọn mẫu
2.4.1. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu xác định dựa trên công thức tính cỡ mẫu cho việc ước lượng một tỷ
lệ trong quần thể, với α=0,05; ε = 0,2; p = 0,27 [43]:


22

Trong đó:

- n: cỡ mẫu tối thiểu cần thiết

- α: mức ý nghĩa thống kê (Chọn α = 0,05 ứng với độ tin cậy 95%, thay vào bảng
ta được Z(1 – α/2) = 1,96)

- p: tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng lo âu trong nghiên cứu của Trương Thị Phương
(2014).

- ε: sai số mong muốn giữa mẫu và quần thể (sai số tương đối)
Như vậy cỡ mẫu tối thiểu cần thiết trong nghiên cứu là 260. Xem xét tỷ lệ loại
trừ là 10%, vậy cỡ mẫu cần thiết là 286 bệnh nhân.
2.4.2. Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu bằng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện
2.5. Công cụ và kỹ thuật thu thập thông tin
2.5.1 Công cụ thu thập thông tin
Thông tin thu thập qua bộ câu hỏi có sẵn được thiết kế dựa trên nhóm biến số
chỉ số và thang đo lường về sự lo âu và trầm cảm tại bệnh viện (Hospital Anxiety
and Depression – HADS) và thang tự đánh giá lo âu Zung Self - Rating Anxiety
Scale.
Về thang HADS trong nghiên cứu này chỉ sử dụng 7 câu hỏi nằm trong phần
đo lo âu (HAS). Mỗi câu có 4 mức độ trả lời tương ứng với điểm 0,1,2,3.
Kết quả được phân tích theo tổng điểm các câu hỏi theo các mức độ:

 Từ 0 đến 7 điểm: bình thường
 Từ 8 đến 10 điểm: có thể có triệu chứng của lo âu
 Từ 11 đến 21 điểm: lo âu thực sự
Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng điểm cắt 8.
Với thang đo lo âu của Zung có 20 câu hỏi, mỗi câu có 4 mức độ trả lời tương
ứng điểm số 1,2,3,4. Tổng điểm 80 điểm.
* Không lo âu : ≤ 40 điểm:
* Lo âu mức độ nhẹ : 41 - 50 điểm



23

* Lo âu mức độ vừa : 51 - 60 điểm
* Lo âu mức độ nặng : 61 - 70 điểm
* Lo âu mức độ rất nặng : 71 - 80 điểm.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá người bệnh bị lo âu với tổng điểm Zung
Self - Rating Anxiety Scale ≥ 40 đồng thời tổng điểm HADS ≥ 8
2.5.2. Kỹ thuật thu thập thông tin
Thu thập thông tin bằng cách phỏng vấn bệnh nhân theo bộ câu hỏi.
2.6. Biến số và chỉ số nghiên cứu
Mục

Nhóm

Biến số

tiêu biến số
Thông
tin

Chỉ số và cách tính
Tỷ lệ % nam và nữ: Số bệnh nhân (BN) nam

Giới

(nữ) trên tổng số BN tham gia nghiên cứu

Tuổi


(NC).
Tỷ lệ %: tỷ lệ BN từng nhóm tuổi trên tổng

chung

số BN tham gia NC.
Tình trạng hôn Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo từng loại tình trạng
nhân
hôn nhân trên tổng số BN tham gia NC.
Số năm học hoàn Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo từng nhóm năm học
thành
Thông
tin cá

Nghề nghiệp

nhân

đã hoàn thành trên tổng số BN tham gia NC.
Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo từng loại nghề nghiệp
trên tổng số BN tham gia NC.
Tỷ lệ %: tỷ lệ BN được hưởng BHYT cho chi

BHYT

trả chăm sóc tại bệnh viện trên tổng số BN

Kinh tế gia đình

tham gia NC.

Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo từng nhóm kinh tế gia
đình trên tổng số BN tham gia nghiên NC.

Chi phí điều trị
người bệnh chi Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo từng nhóm chi phí
trả/tháng
Khả năng chi trả
Thông
tin

về

Loại ung thư

Tỉ lệ %: tỷ lệ BN theo từng nhóm khả năng
chi trả trên tổng số BN tham gia nghiên cứu
+ Tỷ lệ % : tỷ lệ mỗi loại hoặc nhóm bệnh
ung thư trên tổng số BN tham gia NC.


24

+ Tỷ lệ % theo giới: tỷ lệ mỗi loại hoặc nhóm
bệnh ung thư theo giới nam/nữ trên tổng số
BN nam/nữ tham gia NC.
+ Tỷ lệ % theo nhóm tuổi: tỷ lệ mỗi loại hoặc
nhóm bệnh ung thư theo nhóm tuổi của BN
trên tổng số BN ở mỗi nhóm tuổi ấy.
Tỷ lệ %: tỷ lệ BN thuộc các nhóm giai đoạn
Giai đoạn bệnh

tình
trạng

Thời gian được

bệnh

chẩn đoán bệnh

bệnh khác nhau trên tổng số BN tham gia
NC.
Tỷ lệ %: tỷ lệ các nhóm khoảng thời gian
chẩn đoán bệnh của các BN trên tổng số BN

tham gia NC.
phương Tỷ lệ %: tỷ lệ các nhóm phương pháp điều trị

Các

pháp điều trị

ở các BN trên tổng số BN tham gia NC.
Tỷ lệ %: tỷ lệ các kiểu số tuần xạ trị trên tổng

Tuần xạ trị
Tiến triển bệnh
Tác

dụng


phụ

khi điều trị

số BN tham gia NC.
Tỷ lệ %: tỷ lệ BN thuộc các nhóm tiến triển
khác nhau trên tổng số BN tham gia NC
Tỷ lệ %: tỷ lệ các nhóm mức độ tác dụng phụ
khi điều trị ở BN trên tổng số BN tham gia

NC
Ảnh hưởng từ lo Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo các nhóm mức độ ảnh
âu
Thông
tin

về

môi

của

người hưởng từ lo âu của người bệnh khác trên tổng

bệnh khác
Cơ sở vật chất
bệnh viện

số BN tham gia nghiên cứu
Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo các nhóm trả lời về cơ

sở vật chất bệnh viện trên tổng số BN tham

trường

gia nghiên cứu
Thái độ phục vụ Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo các nhóm trả lời về

bệnh

của nhân viên y thái độ phục vụ của nhân viên y tế trên tổng

viện

tế
Niềm

tin

thầy thuốc

vào

số BN tham gia nghiên cứu
Tỷ lệ %: tỷ lệ BN theo các nhóm mức độ tin
tưởng với thầy thuốc trên tổng số BN tham
gia nghiên cứu


25


1.Mô
tả tình
trạng

Tỷ lệ %: tỷ lệ lo âu chung và tỷ lệ lo âu theo từng biến số thuộc thông tin
chung trên tổng số bệnh nhân tham gia nghiên cứu.

lo âu
2.Các
yếu tố
liên
quan

Phân tích từng nhóm yếu tố thông tin cá nhân, thông tin tình trạng bệnh,
thông tin môi trường bệnh viện liên quan đến sự lo âu của bệnh nhân (phân
tích từng yếu tố trong mỗi nhóm với tỷ lệ lo âu, so sánh )

2.7. Khống chế sai số trong nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu được hỏi về các triệu chứng lo âucủa họ trong tuần
kế trước theo thang tự đánh giá HADS, do đó dễ mắc phải sai số nhớ lại.
- Các biện pháp khống chế sai số được áp dụng bao gồm xin ý kiến chuyên
gia, chuẩn hoá bộ câu hỏi thông qua điều tra thử, tập huấn điều tra viên một cách kỹ
lưỡng và giám sát chặt chẽ quá trình điều tra.
- Trong quá trình nhập số liệu, bộ số liệu được nhập lại 10% số phiếu
nhằm kiểm tra thông tin nhập một cách kỹ lưỡng nhất, hạn chế sai số một cách
tối đa.
2.8. Xử lý và phân tích số liệu
- Số liệu sau khi được làm sạch sẽ được nhập vào máy tính và quản lý bằng
phần mềm Epidata 3.1
- Các số liệu được xử lý và phân tích sử dụng phần mềm Stata 10.0

- Trong quá trình xử lý, các số liệu bị thiếu, vô lý, ngoại lai được kiểm tra và
khắc phục.
- Các thông kê mô tả và thống kê suy luận thực hiện thông qua tính toán giá
trị trung bình, trung vị, độ lệch chuẩn cho các biến định lượng và tỷ số, tỷ lệ cho các
biến định tính.
- Phân tích được thực hiện thông qua các test thống kê thích hợp
- Mức ý nghĩa thống kê α = 0,05 được áp dụng.


×