Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đảng thực hiện chuyển giai đoạn cách mạng chặng đầu thời kỳ quá độ lên CNXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.23 KB, 17 trang )

Đảng thực hiện chuyển giai đoạn cách mạng -Chặng đầu thời kỳ quá
độ lên CNXH
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta đã xác định cách mạng nước ta phải trải
qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Nhất quán theo phương hướng chiến lược trên, Đảng ta luôn khẳng định sau
khi hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ sẽ
dần dần chuyển lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn lịch sử gần 40 nǎm thực hiện từng bước chuyển sang giai đoạn
cách mạng mới, bước đầu rút ra những kinh nghiệm thành công và chưa
thành công trong chặng đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
I- THỰC HIỆN CHUYỂN GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG TRÊN MIỀN
BẮC (1954-1975)
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Hội nghị Ban Chấp hành trung
ương Đảng lần thứ 8 (khoá II) (tháng 8-1955) đã xác định: "Đường lối xây
dựng miền Bắc là củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần
từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội".
1- Ba nǎm khôi phục kinh tế (1954-1957)
Ba nǎm khôi phục kinh tế (1954-1957) đã hoàn thành cơ bản những nhiệm
vụ còn lại của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và tạo những tiền đề ban
đầu từng bước chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là:
Hoàn thành cải cách ruộng đất, xoá bỏ triệt để sự chiếm hữu ruộng đất của
giai cấp địa chủ, đưa lại ruộng đất cho nông dân, sửa chữa, khắc phục những
hậu quả sai lầm trong tiến hành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.
Những sai lầm, khuyết điểm trên tuy có làm hạn chế sự phấn khởi trong một
bộ phận nông dân, nhưng không thể làm giảm ý nghĩa chiến lược của việc
đưa lại ruộng đất cho nông dân. Nó không chỉ hoàn thành hai nhiệm vụ cơ
bản của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ là: "Dân tộc độc lập" và
"Người cày có ruộng", mà còn có ý nghĩa tạo ra những tiền đề kinh tế - xã
hội để tiến lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp quản các thành thị và vùng nông thôn mới giải phóng, đồng thời đấu


tranh chống địch phản tuyên truyền, dụ dỗ, cưỡng ép nhân dân di cư vào các
tỉnh phía Nam còn dưới sự kiểm soát của Mỹ - Diệm. Đặc biệt là việc tiếp
quản nhanh chóng hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng, bảo vệ được nhiều
tài sản, những xí nghiệp sản xuất hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân, tạo
không khí phấn khởi, giữ vững an ninh, trật tự. Nhanh chóng ổn định và đưa
các mặt hoạt động trở lại bình thường.
Khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh với


yêu cầu phấn đấu sau 3 nǎm đạt mức sản xuất trước chiến tranh (1939). Khôi
phục sản xuất nông nghiệp được đặt là nhiệm vụ hàng đầu, đặc biệt là sản
xuất lương thực, làm cơ sở cho việc khôi phục và phát triển công thương
nghiệp.
Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp được kết hợp với hoàn thành cải cách
ruộng đất và vận động nông dân đổi công, giúp đỡ nhau sản xuất. Sửa chữa
sáu hệ thống thuỷ nông lớn và xây dựng hàng chục công trình thuỷ lợi hạng
vừa.
Kết quả đến hết nǎm 1957, các chỉ tiêu chủ yếu về sản xuất nông nghiệp đều
vượt mức nǎm 1939, là nǎm đạt cao nhất trước chiến tranh.
1939 - 1957
Thóc 2.407.000 tấn 3.948.000 tấn
Trâu 788.000 con 1.238.000 con
Bò 563.000 con 902.000 con
Lợn 2.255.000 con 2.950.000 con
Để khôi phục thủ công nghiệp và công nghiệp trước hết phải khôi phục
những cơ sở sẵn có, những ngành phục vụ đời sống và sản xuất ở thành thị
và nông thôn. Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong sản xuất nông nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp được nâng từ 8,4% (1955) lên 68,8% (nǎm 1957), nhanh
chóng ổn định và góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Giao thông vận tải được xem là điều kiện không thể thiếu trong việc phát

triển sản xuất, khôi phục kinh tế, làm cho việc giao lưu hàng hoá giữa thành
thị và nông thôn được hình thành. Bốn tuyến đường sắt nối liền thủ đô Hà
Nội với các tỉnh phía Bắc đã nhanh chóng được xây dựng lại. Các tuyến
đường bộ, đường thuỷ đều được khôi phục.
Cùng với khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước coi trọng việc khôi phục,
phát triển vǎn hoá, giáo dục. Sau ba nǎm đã có hơn một triệu người thoát
nạn mù chữ. Tổng số học sinh phổ thông lên tới trên 1 triệu. Số học sinh
trung học chuyên nghiệp là 7.783 người. Số sinh viên đại học lên tới 3.664
người, gấp hơn 6 lần số sinh viên thời kỳ trước chiến tranh (nǎm học 19391940 chỉ có 582 sinh viên), gần 2.000 học sinh được gửi đi học ở các nước.
2- Ba nǎm phát triển kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960)
Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá II) (tháng 111958) xác định: "Nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức củng
cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời kiên
quyết đấu tranh chống Mỹ - Diệm nhằm thực hiện thống nhất nước nhà trên
cơ sở độc lập và dân chủ". Nhiệm vụ cụ thể lúc này là tiến hành cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ
công và kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời phát triển thành phần kinh tế
quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân.


Cải tạo thành phần kinh tế cá thể của nông dân và thợ thủ công bằng hình
thức hợp tác xã theo nguyên tắc "tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ".
Hình thức, bước đi phải từ thấp lên cao, tập dượt cho nông dân và thợ thủ
công quen dần với lối làm ǎn tập thể, từ tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp,
tiến lên hợp tác xã bậc cao. Quy mô cũng phải từ nhỏ lên lớn. Mùa thu nǎm
1958 làm thí điểm ở 134 hợp tác xã, đến cuối nǎm 1960 lên tới 41.401 hợp
tác xã với 86% số hộ nông dân và 76% diện tích canh tác. Phong trào hợp
tác hoá nông nghiệp trong những nǎm đầu (1958-1960) có tác dụng tích cực:
sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển với mức tǎng trưởng bình quân
5,6%, đưa tổng sản lượng lương thực lên mức cao vào nǎm 1959 là 5,15
triệu tấn; đời sống vật chất và vǎn hoá của nông dân và nhân dân nói chung

được ổn định và cải thiện một bước.
Nhưng nhìn chung các hợp tác xã còn nhiều khó khǎn, lúng túng trong việc
tổ chức lao động, sản xuất và quản lý, phân phối. Một số hợp tác xã sản xuất
sút kém, có những biểu hiện tiêu cực như nông dân chặt phá cây lưu niên,
giết trâu bò trước khi vào hợp tác xã, một số cán bộ quản lý hợp tác xã tham
ô, lạm dụng của công v.v..., làm cho xã viên thiếu phấn khởi, thiếu tin tưởng
và đã có hộ xin ra hợp tác xã.
Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh bằng phương pháp hoà bình.
Thực hiện chính sách chuộc lại những tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản,
biến chế độ sở hữu và kinh doanh tư bản chủ nghĩa thành công tư hợp
doanh, cải tạo dần dần người tư sản thành người lao động, nhằm từng bước
hạn chế đi tới xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về chính trị, tiếp
tục coi tư sản dân tộc là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Đến
tháng 11-1960 đã cải tạo 2.097 cơ sở công thương nghiệp tư bản tư doanh
với tổng số vốn 25 triệu đồng, 500 người trong gia đình tư sản được sắp xếp
việc làm, trong đó có 119 người được bố trí vào các ban giám đốc xí nghiệp.
Sau khi đưa vốn, tư liệu sản xuất vào hợp doanh, hàng nǎm, họ được trả lãi
471.277 đồng.
Đi đôi với cải tạo các thành phần kinh tế trên, Nhà nước đã tǎng cường đầu
tư, phát triển kinh tế. Từ nǎm 1958 đến nǎm 1960 đã xây dựng 130 công
trình công nghiệp trên hạn ngạch như gang thép Thái Nguyên, súppe phốt
phát Lâm Thao... với tổng số vốn là 3.481 triệu đồng và đã đưa được 86 nhà
máy, xí nghiệp vào sản xuất. Tổng số công nhân từ 46.340 người (1957) đã
tǎng lên 108.941 người (1960).
3- Nǎm nǎm phát triển kinh tế - vǎn hoá (1961-1965)
Kế hoạch nǎm nǎm phát triển kinh tế - vǎn hoá (1961-1965) nhằm củng cố
quan hệ sản xuất mới và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội.
Cuối nǎm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, kế



hoạch 5 nǎm mới thực hiện được 4 nǎm nhưng đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn:
- Về nông nghiệp: 88,8% số hộ nông dân vào hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp, trong đó có 71,7% số hộ lên hợp tác xã bậc cao. Sản xuất nông
nghiệp có những tiến bộ mới cả về trồng trọt và chǎn nuôi. Phong trào thâm
canh ở những vùng trọng điểm lúa đã có nhiều điển hình tốt. Nǎm 1965 có 9
huyện và 125 xã đạt nǎng suất bình quân cả nǎm từ 5 tấn thóc trở lên trên 1
hécta gieo trồng hai vụ. Nhiều công trình thuỷ lợi lớn đã được xây dựng,
tưới tiêu cho hơn nửa triệu hécta ruộng đất, phân bón các loại và công cụ cải
tiến được đẩy mạnh phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Về công nghiệp: bước đầu xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp chủ
yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, nhiên liệu, vật liệu xây dựng đã
đưa vào sản xuất. Nǎm 1954 chỉ có 45 nhà máy, đến nǎm 1964 đã có 1000
nhà máy (trong đó có 217 nhà máy lớn). Công nghiệp nhẹ và thủ công
nghiệp cũng phát triển mạnh, đã sản xuất được 12.000 mặt hàng, bảo đảm
được một phần quan trọng hàng tiêu dùng của xã hội mà phần lớn trước đây
phải nhập khẩu.
Về vǎn hoá, giáo dục đào tạo và khoa học - kỹ thuật: đã có bước phát triển
mạnh. Hầu hết các xã có trường phổ thông cấp I, cấp II, huyện có trường
phổ thông cấp III. Nǎm 1960 có 9 trường đại học với 8.100 sinh viên, đến
nǎm 1965 đã có 18 trường với 26.100 sinh viên; đã có 21.332 cán bộ tốt
nghiệp đại học và 55.000 cán bộ tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
Về y tế, bảo vệ sức khoẻ, vệ sinh phòng bệnh: được coi trọng. Đến nǎm
1965, 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã miền
núi có trạm y tế. Số bác sĩ, y sĩ, dược sĩ từ nǎm 1960 đến nǎm 1965 tǎng 5
lần (nǎm 1965 có 1.525 bác sĩ và 8.043 y sĩ, trong đó có 3.220 y sĩ phục vụ ở
xã).
Đời sống nhân dân: được nâng lên rõ rệt. Bình quân thu nhập quốc dân nói

chung tǎng lên 6,1% và bình quân theo đầu người tǎng 3,4%.
Tại Hội nghị chính trị đặc biệt (tháng 3-1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết
luận: "Trong 10 nǎm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa
từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới".
4- Chuyển hướng xây dựng kinh tế, đánh thắng chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn, cùng miền Nam
đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai
Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành trương ương Đảng (khoá III) (tháng 31965) chủ trương "chuyển hướng xây dựng kinh tế phù hợp với tình hình cả
nước đang có chiến tranh với đế quốc Mỹ", theo phương châm "vừa xây


dựng kinh tế, vừa chiến đấu bảo vệ". Cụ thể là:
Điều chỉnh lại các công trình xây dựng cơ bản, chú trọng xây dựng những xí
nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ. Công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp được chú trọng phát
triển vừa đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong thời chiến,
vừa đảm bảo hậu cần tại chỗ, phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
của địch.
Sản xuất công nghiệp được đặc biệt coi trọng, đẩy mạnh thâm canh tǎng
nǎng suất cây trồng và vật nuôi. Chú trọng cải tiến công cụ và trang bị cơ khí
nhỏ cho các khâu lao động trồng trọt và chǎn nuôi. Đã có 4.655 hợp tác xã
được trang bị cơ khí nhỏ, bao gồm 6.356 máy phát lực và 9.372 máy công
tác như bơm nước, tuốt lúa, máy xát, nghiền hạt, v.v..
Những nhu cầu thiết yếu nhất của sản xuất và chiến đấu được bảo đảm, đời
sống nhân dân trong chiến tranh cǎn bản được ổn định. Hoạt động về vǎn
hoá, giáo dục và y tế phát triển hơn trước. Học sinh phổ thông tǎng 130%,
học sinh đại học và trung học chuyên nghiệp tǎng 400%. Hệ thống bệnh
viện, bệnh xá, trạm xá từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng đều khắp,
bảo đảm chǎn lo sức khoẻ cho nhân dân, phòng tránh các dịch bệnh.
5- Khôi phục kinh tế sau hai lần đánh thắng chiến tranh phá hoại của

đế quốc Mỹ (1969-1975)
Khác với khôi phục kinh tế trong những nǎm 1955-1957, thời kỳ này Đảng
chủ trương vừa khôi phục, vừa phát triển kinh tế, vừa khôi phục cơ sở cũ,
vừa mở rộng quy mô và tǎng cường trang thiết bị, đồng thời, cải tiến một
bước về quản lý kinh tế, gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất, củng cố
quan hệ sản xuất đi đôi với phát triển lực lượng sản xuất.
Trong nông nghiệp, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích
phát triển chǎn nuôi, chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực đối với hợp tác
xã, chính sách khuyến khích cây công nghiệp v.v... Phong trào phấn đấu
giành "ba mục tiêu": 5 tấn, 2 con lợn, 1 lao động làm 1 hécta gieo trồng
được đẩy mạnh trong các hợp tác xã. Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp bậc cao
do Chủ tịch Hồ chí Minh đề tựa và Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua có
tác dụng củng cố quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, khắc phục những
khuyết điểm, lệch lạc về quản lý lao động, sản xuất và phân phối trong hợp
tác xã.
Trong công nghiệp, hầu hết các xí nghiệp bị đánh phá đều được sửa chữa và
sắp xếp lại dây chuyền sản xuất. Giá trị sản lượng các sản phẩm chủ yếu
trong công nghiệp nặng như điện, than, xi mǎng và công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng như vải, giấy v.v.. đều tǎng hơn trước. Nhà nước và nhân dân
đã có những nỗ lực cao trong việc khôi phục hệ thống đường giao thông, cầu
phà, bến bãi, xây dựng thêm cầu đường mới để bảo đảm yêu cầu vận chuyển


hàng hoá, nhất là hàng hoá chiến lược phục vụ chiến trường miền Nam đánh
thắng đế quốc Mỹ và tay sai.
Bên cạnh những kết quả và những chuyển biến tích cực trên đây, công cuộc
khôi phục kinh tế thời kỳ này cũng gặp nhiều khó khǎn và bộc lộ nhiều yếu
kém, tiêu cực như: sản xuất không đủ tiêu dùng, tình trạng mất cân đối vốn
có của nền kinh tế càng nghiêm trọng hơn: lao động, vật tư, tiền vốn bị lãng
phí nhiều, nǎng suất lao động xã hội giảm sút; bộ máy hành chính quá lớn

trong khi lực lượng lao động trực tiếp sản xuất giảm đi. Tình trạng này đã
ảnh hưởng không tốt đến nhiệm vụ khôi phục kinh tế và xây dựng miền Bắc
vững mạnh.
Hội nghị lần thứ 19 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) (tháng 11971) đã nhấn mạnh: phải nghiêm khắc với những khuyết điểm chủ quan
trên đây, ra sức cải tiến quản lý kinh tế nhằm đẩy mạnh tốc độ khôi phục và
phát triển kinh tế. Bộ Chính trị ra nghị quyết về đấu tranh chống những hiện
tượng tiêu cực nhằm chấm dứt những hành động làm ǎn phi pháp, lấy cắp tài
sản xã hội chủ nghĩa, tǎng cường quản lý lao động, quản lý thị trường, giữ
gìn trật tự trị an. Nhà nước ban hành các pháp lệnh trừng trị những tội phạm
và hành vi phi pháp trên.
Tóm lại, hơn hai mươi nǎm phấn đấu bền bỉ và kiên cường trong tình hình
đất nước có nhiều khó khǎn và biến động phức tạp, từ chiến tranh sang hoà
bình xây dựng, không bao lâu lại phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh
phá hoại ác liệt của đế quốc Mỹ, trong thế đan xen giữa những nhiệm vụ xây
dựng kinh tế với chiến đấu bảo vệ, nhưng chúng ta đã đảm bảo được các
nhiệm vụ đặt ra, vừa củng cố, xây dựng hậu phương vững mạnh, vừa làm
tròn nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và giúp đỡ cách mạng
hai nước bạn Lào và Campuchia, vừa nhanh chóng hoàn thành những nhiệm
vụ còn lại của giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, vừa mở đầu những
nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, tuy mới chỉ là sự mở đầu nhưng chúng ta đã
làm được nhiều việc có kết quả, đời sống kinh tế, xã hội và vǎn hoá thật sự
có nhiều đổi mới và tiến bộ rõ rệt. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "
Làng xóm ta xưa kia lam lũ quanh nǎm mà vẫn quanh nǎm đói rách. Lang
xóm ta ngày nay bốn mùa nhộn nhịp cảnh làm ǎn tập thể. Đâu đâu cũng có
trường học, nhà gửi trẻ, nhà hộ sinh, câu lạc bộ, sân và kho của hợp tác xã,
nhà mới của xã viên. Đời sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần
ngày càng tiến bộ".
Nhưng nhìn chung, nền kinh tế miền Bắc còn nặng tính chất sản xuất nhỏ,
cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém. Những ngành công nghiệp then chốt

còn nhỏ bé, chưa đủ sức làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Quan hệ sản
xuất hợp tác xã chưa được củng cố vững chắc. Nông nghiệp chưa đáp ứng


được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho
công nghiệp. Lao động thủ công còn chiếm 80% lực lượng lao động xã hội.
Nǎng suất lao động xã hội rất thấp. Lực lượng lao động còn lớn chưa được
sử dụng. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được
các nhu cầu của đời sống nhân dân.
Nguyên nhân khách quan là do chính sách khai thác và kìm hãm của chủ
nghĩa thực dân Pháp hàng trǎm nǎm và sự lỗi thời của chế độ phong kiến đè
nặng gây nên tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, lại bị các cuộc chiến tranh tàn
phá nặng nề. Về chủ quan, Đảng và Nhà nước ta đã mắc những sai lầm,
khuyết điểm về chủ trương, chính sách cụ thể và chậm được phát hiện, sửa
chữa, cùng sự yếu kém về quản lý kinh tế - xã hội. Các hội nghị Ban chấp
hành trung ương Đảng lần thứ 19, lần thứ 22 và 23 đã kiểm điểm, tự phê
bình. Nhưng thực tế không được khắc phục, sửa chữa kịp thời nên đã tiếp
tục ảnh hưởng không tốt cho thời kỳ thực hiện chuyển giai đoạn cách mạng
trên cả nước sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
II- THỰC HIỆN CHUYỂN GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG TRÊN CẢ
NƯỚC (1976-1986)
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoàn
thành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân
cả nước tiến lên giai đoạn cách mạng mới - xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V của Đảng đã xác định và
cụ thể hoá đường lối chung và đường lối kinh tế trong thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta với đặc điểm xuất phát từ một nền kinh tế còn
phổ biến là sản xuất nhỏ và hậu quả chiến tranh tàn phá nặng nề trên khắp
mọi miền đất nước.

1- Những thành tựu bước đầu về kinh tế - xã hội
Trải qua 10 nǎm phấn đấu, vượt qua nhiều khó khǎn, thử thách, nhân dân ta
đã đạt được thành tựu mới trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc, cùng thực hiện nghĩa vụ quốc tế
đối với cách mạng Lào và Campuchia anh em.
Về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, Nhà nước đã bắt đầu xây dựng và lần
lượt hoàn thành mấy trǎm công trình lớn và hàng ngàn công trình vừa và
nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi mǎng, cơ khí,
dệt, thuỷ lợi, giao thông vận tải v.v... Sản xuất công nghiệp tǎng bình quân
hàng nǎm 9,5% trong những nǎm 1981-1985.
Sản xuất nông nghiệp đã đạt nhịp độ tǎng bình quân hàng nǎm là 4,9% trong
những nǎm 1981-1985, chặn được sự giảm sút của những nǎm 1979-1980
sản lượng lương thực, đưa mức bình quân hàng nǎm từ 13,4 triệu tấn trong
thời kỳ 1976-1980 lên 17 triệu tấn trong thời kỳ 1981-1985. Cùng với việc


áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, việc đổi mới cơ chế quản lý theo
phương thức khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động trong nông
nghiệp đã góp phần quan trọng tạo nên bước phát triển mới của sản xuất
nông nghiệp, mở ra phương hướng đúng đắn cho việc củng cố quan hệ sản
xuất trong hợp tác xã nông nghiệp.
Sự nghiệp vǎn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, vǎn học, nghệ thuật, đã
có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Các hoạt động khoa học- kỹ thuật được triển khai rộng rãi, góp phần thúc
đẩy sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp.
2- Thực trạng yếu kém tồn tại
Tuy đạt được những thành tựu bước đầu kể trên, sau hơn mười nǎm xây
dựng đất nước ở chặng đầu thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, "chúng
ta chưa tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá thấp", nhìn chung tình
hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khǎn, phức tạp, "chưa thực hiện được

mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn định đời sống của nhân dân".
Sản xuất tuy có phát triển nhưng tǎng chậm so với khả nǎng và công sức bỏ
ra, so với yêu cầu nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân và có tích luỹ
từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để công nghiệp hoá và củng cố quốc phòng.
Nhiều chỉ tiêu quan trọng về sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu..., thường không đạt đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động
kinh tế và khó khǎn, cǎng thẳng trong đời sống nhân dân lao động.
Hiệu quả đầu tư và sản xuất thấp. Các xí nghiệp nói chung chỉ sử dụng được
khoảng một nửa công suất, nǎng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm
sút kém.
Tài nguyên đất nước chưa được khai thác tốt, sử dụng lãng phí, nhất là đất
nông nghiệp và tài nguyên rừng. Theo số liệu thống kê được trong 5 nǎm
(1981-1985), diện tích đất canh tác cả nước bị thu hẹp mất 350.000 hécta
(riêng đồng bằng sông Cửu Long mất 250.000 hécta) tương đương diện tích
trồng lúa của sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế.
Lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tǎng nhanh, đã tác
động tiêu cực đến sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo của
kinh tế quốc doanh suy yếu do hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả.
Các thành phần kinh tế khác nhau chưa được sử dụng và cải tạo tốt, không
những không góp phần phát triển kinh tế, giải quyết công ǎn việc làm, mà
còn gây thêm khó khǎn, tiêu cực, nhất là trong hoạt động lưu thông phân
phối.
Hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm,


pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền, tham nhũng
của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hành động của bọn làm ǎn
phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.

Thực trạng kinh tế - xã hội trên đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng và sự điều hành, quản lý của Nhà nước.
3- Nguyên nhân
Với tư duy mới, nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã chỉ rõ tính chất nghiêm trọng trên và phân tích nguyên nhân của
thực trạng đó.
Về mặt chủ quan, Đại hội đã nêu rõ những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài
về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện.
Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, đánh giá không sát tình hình các mặt kinh tế xã hội của đất nước, nên đã đề ra mục tiêu quá cao, muốn đi lên nhanh, bỏ
qua những bước đi tuần tự thích hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta
khi bắt đầu thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, trong những
nǎm 1976-1980, chúng ta đã đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có
đủ các tiền đề cần thiết. Đại hội lần thứ V của Đảng đã bước đầu thấy được
những sai lầm trên và có những sửa đổi, bổ sung một số chính sách lớn về
kinh tế- xã hội, như chính sách sử dụng kinh tế nhiều thành phần, ưu tiên
hơn nữa cho sản xuất nông nghiệp và ổn định đời sống nhân dân v.v. .
Nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt, chưa kiên quyết khắc
phục tư tưởng nóng vội, thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu đầu
tư, về cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế.
Về cơ cấu nền kinh tế, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với
nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý. Chưa coi trọng đúng mức và đặt đúng
vị trí của nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta ở chặng đầu thời kỳ quá độ
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong 5 nǎm 1976-1980 đã đặt những chỉ tiêu kế
hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng
đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công
nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, kết quả là đầu tư nhiều nhưng
hiệu quả rất thấp, dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế không sao tránh
khỏi.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần

kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành
quốc doanh. Đối với các thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá, có xu
hướng muốn tổ chức thành các hợp tác xã quy mô lớn, không tính đến khả
nǎng về cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ quản lý và nǎng lực cán bộ. Nội
dung cải tạo thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, mà không coi trọng các mặt tổ chức, quản lý sản xuất và chế độ phân


phối. Cách làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số lượng, coi
nhẹ chất lượng và hiệu quả. Do đó, nhiều tổ chức kinh tế được coi là công tư
hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất chỉ là hình thức, không phải là
thực chất của quan hệ sản xuất mới.
Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng chủ trương sử dụng cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhưng, trong nhận thức cũng như hành động chưa thật sự được thừa nhận và
thể hiện trong thực tiễn, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất.
Về cơ chế quản lý kinh tế, từ sau Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành trung
ương Đảng (khoá IV) nǎm 1979, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quyết định
về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp; đặc biệt là Nghị quyết 8 của Trung ương Đảng (khoá V) và
Nghị quyết 306 (dự thảo) của Bộ Chính trị có ý nghĩa đổi mới sâu sắc, nhằm
mở ra cách làm ǎn mới, động viên, khai thác mọi khả nǎng tiềm tàng của nền
kinh tế để phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân. Song,
trên thực tế, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về cơ bản vẫn chưa bị xoá
bỏ. Nhiều chính sách, thể chế đã lỗi thời, gây cản trở cho sản xuất, lưu
thông. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời nảy sinh nhiều
hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật.
Về phân phối lưu thông, đã không thật sự quán triệt và kiên quyết thực hiện

nguyên tắc phân phối theo lao động, gây hậu quả xấu kéo dài là không
khuyến khích phát triển tài nǎng, sức lực vào việc đẩy mạnh sản xuất, tǎng
nǎng suất lao động. Không điều tiết hợp lý, đúng mức thu nhập của các cá
nhân và thành phần kinh tế, không kiên quyết thực hiện sự tước đoạt cần
thiết những thu nhập bất chính, không bảo vệ tốt tài sản quốc gia. Chậm có
chính sách cơ bản về tài chính quốc gia gắn liền với những chính sách đúng
đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng, tiền lương. Không tập trung được những
nguồn thu quan trọng vào ngân sách nhà nước. Các khoản chi của ngân sách
mang nặng tính bao cấp, gây tình trạng bội chi kéo dài, thâm hụt ngân sách
ngày càng tǎng, dẫn đến lạm phát trầm trọng, làm cho lĩnh vực phân phối
lưu thông luôn luôn cǎng thẳng và rối ren.
Về mặt tổ chức thực tiễn, chưa tạo được sự hoạt động đồng bộ giữa các tổ
chức trong hệ thống chính trị - xã hội. Chưa phát huy được sức mạnh tổng
hợp của hệ thống các cơ quan chức nǎng chuyên chính và các đoàn thể chính
trị - xã hội trong việc thiết lập và giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội để cho
pháp luật nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến. Công tác quản lý kinh tế
- xã hội và chỉ đạo đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, chống những
âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch thiếu sắc bén, kém hiệu


quả, để phát sinh nhiều hiện tượng chính trị - xã hội phức tạp không đáng có.
Tóm lại, trên đây là những sai lầm nghiêm trọng, kéo dài, chủ yếu thuộc về
những chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực
hiện, nói lên sự thiếu hiểu biết và còn ít kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước
ta trong bước đầu triển khai những nội dung, nhiệm vụ kinh tế - xã hội của
giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa; đồng thời lại chưa coi trọng việc tổng
kết thực tiễn, đúc kết kịp thời những kinh nghiệm thành công để phát huy và
kinh nghiệm không thành công để khắc phục, sửa chữa.
4- Kinh nghiệm
Từ thực tiễn cách mạng nước ta trong những nǎm qua, có thể rút ra mấy kinh

nghiệm sau đây:
a) Nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ phát triển biện chứng giữa
độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Định hướng chiến lược cơ bản của cách mạng nước ta là từ thắng lợi triệt để
của cách mạng dân tộc dân chủ chuyển sang tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa là dựa trên nhận thức khoa học về mối quan hệ phát triển biện chứng
giữa nội dung, nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, giành dân chủ
cho nhân dân và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba phạm trù độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, có những nội dung cụ thể xác định, có
mối quan hệ phát triển biện chứng với nhau nhưng không thể đồng nhất.
Đối với nước ta, giải phóng toàn thể dân tộc khỏi ách thống trị thực dân, đế
quốc, giành lại quyền độc lập của đất nước, nhưng không thể không gắn liền
từng bước giành quyền dân chủ cho nhân dân, trước hết là đông đảo nhân
dân lao động như nông dân, công nhân, theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là nước được độc lập mà nhân dân không được hưởng dân chủ tự do,
ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng không có ý nghĩa gì.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, nội dung, nhiệm vụ dân chủ làm được càng
nhiều, càng tốt bao nhiêu thì không những giá trị, ý nghĩa của độc lập dân
tộc càng cao, sự bền vững của nền độc lập dân tộc càng được củng cố mà
định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hôi ngày càng có thêm nhiều tiền đồ, điều
kiện kinh tế - xã hội thuận lợi bấy nhiêu. Từ đó, mối quan hệ phát triển biện
chứng từ độc lập dân tộc, dân chủ lên chủ nghĩa xã hội không những được
thể hiện như một quá trình lịch sử tự nhiên tất yếu, mà còn tỏ rõ tính tự giác
và tǎng thêm tính hiện thực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Nhưng thực tế quá trình thực hiện chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta
trong những nǎm qua, do tư tưởng chủ quan, nóng vội chi phối, nên việc
nhận thức và giải quyết mối quan hệ các mặt trên đây không được đúng đắn,
đầy đủ. Nếu như về nhiệm vụ giành độc lập dân tộc được thực hiện triệt để,



trọn vẹn thì về mặt thực hiện những nội dung, nhiệm vụ dân chủ của nhân
dân chưa được đầy đủ và có nhiều sai phạm. Ngay cả vấn đề ruộng đất của
nông dân thường được đặt ở vị trí ưu tiên trong các nhiệm vụ dân chủ cũng
không phải không có những hiện tượng, những việc làm mất dân chủ, thiếu
công bằng. Tất nhiên, chúng ta hiểu rằng nội dung, nhiệm vụ dân chủ rất
rộng, rất nhiều mặt, ở nhiều trình độ, không thể làm đầy đủ ngay được, mà
còn tuỳ thuộc ở nhiều điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Nhưng không
phải không có lúc chúng ta đã hiểu một cách đơn giản, cứ đi lên chủ nghĩa
xã hội sẽ có dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản, mà không nhận thức được
rằng, chính dân chủ là điều kiện cơ bản, tiên quyết nhất để nhân dân, trước
hết là công nhân, nông dân và trí thức thật sự phát huy tinh thần và nǎng lực
làm chủ của mình trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì mới có chủ
nghĩa xã hội và mới có dân chủ thật sự gấp triệu lần dân chủ tư sản.
b) Phải tư duy từ thực tiễn của nước ta, tránh giáo điều, rập khuôn
Mọi suy nghĩ và việc làm phải xuất phát từ những đặc điểm, điều kiện kinh
tế - xã hội cụ thể của nước ta để tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp,
những giải pháp sát thực. Hết sức tránh lấy mong muốn chủ quan, dù là
mong muốn rất tốt đẹp, rất chính đáng thay thế cho hiện thực khách quan.
Trước hết, phải hiểu thật rõ những khả nǎng, điều kiện hiện thực về kinh tế xã hội của nước ta trong từng thời kỳ để xác định đúng những việc cần và có
thể làm, sao cho vừa sát thực với đời sống kinh tế - xã hội trước mắt, vừa
từng bước tạo những tiền đề, điều kiện để tiến lên lâu dài.
Trong điều kiện quốc tế ngày nay, cần mở rộng quan hệ, cần tìm hiểu, học
hỏi, tham khảo những mô hình, những cách thức, những phương án, những
giải pháp kinh tế - kỹ thuật của các nước, nhưng phải tránh rập khuôn, sao
chép. Thực tiễn những nǎm qua cho thấy hai biểu hiện sai trái trong suy nghĩ
và việc làm của chúng ta là giáo điều về nhận thức và rập khuôn về cách làm
cùng tác động, gây thiệt hại không nhỏ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Vì vậy, muốn đưa đất nước và sự nghiệp cách mạng của
chúng ta ra khỏi khó khǎn và đi lên được thì đồng thời phải đổi mới cả về tư

duy và phong cách, nhằm khắc phục hai mặt sai trái trên đây.
Phải thật sự coi trọng những tiền đề, điều kiện kinh tế, vật chất trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, không nên nhấn mạnh quá mức
những nhân tố chính trị, tinh thần dù là rất quý và không thể thiếu. Vì lẽ dễ
hiểu là kinh tế, vật chất luôn luôn là cơ sở hạ tầng của chính chế độ chính trị
- xã hội, nên nội dung chủ yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để chủ nghĩa
xã hội hiện thực thật sự vận động và phát triển trên cơ sở bản thân nó, mà
đây lại là mặt yếu, mặt thiếu nhất của nước ta hiện nay. Thực tế những nǎm
qua, về mặt này, trên nhận thức cũng như việc làm, chúng ta chưa thật sự coi


trọng đúng mức. Có lúc, có nơi chúng ta cho rằng có thể phát huy mạnh mẽ
về chính trị- tinh thần, để khắc phục mặt yếu kém về kinh tế, vật chất trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhưng thực tế cho thấy, một
khi những yếu kém về kinh tế, vật chất không được khắc phục cũng gây tác
hại trở lại không ít đối với đời sống chính trị - tinh thần, thậm chí làm xói
mòn dần mặt mạnh vốn có của chúng ta khi bước vào giai đoạn cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
III- THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI (1986-1990)
Thực hiện nghị quyết Đại hội VI, toàn Đảng, toàn dân ta đã tiến hành công
cuộc đổi mới toàn diện, khắc phục từng bước những sai lầm, khuyết điểm
trước đây, mở ra những hướng mới, nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về
kinh tế - xã hội và từng bước tiếp tục tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
1- Trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta nhằm khắc phục những nhận thức đơn giản và tư duy

lý luận lạc hậu như: quan niệm không đúng về sản xuất hàng hoá và thị
trường dưới chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta ở chặng đầu thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng lại không thật sự thừa nhận những quy
luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó không chú ý vận
dụng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế. Với tư duy kinh
tế mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang coi trọng vận dụng quy luật sản
xuất hàng hoá và thị trường vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền
kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức không đầy đủ về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh
quá mức về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất mà không coi trọng đúng mức
các mặt quan hệ tổ chức, quản lý các quá trình sản xuất, quan hệ phân phối
lợi ích, nhất là lợi ích người lao động, làm hạn chế, thậm chí triệt tiêu động
lực phát triển sản xuất và tǎng nǎng suất lao động; nhấn mạnh quá mức tính
tập thể, tính cộng đồng trong quan hệ sản xuất mới mà không coi trọng đúng
mức nhân tố cá nhân, làm triệt tiêu tính tích cực của cá nhân trong chủ nghĩa
xã hội. Thiếu sự phân định đúng đắn giữa động lực cá nhân là nhân tố không
thể thiếu trong mọi hoạt động của con người với chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ,
đối lập với tập thể, cộng đồng. Cùng với sự đổi mới nhận thức về những vấn
đề trên, trong mấy nǎm qua, kể từ sau Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã tập
trung thực hiện nhiều đổi mới về kinh tế - xã hội, nên đã khắc phục, sửa
chữa được một bước những lệch lạc, khuyết điểm, trong các thời kỳ trước
đây.


Hiểu một cách giáo điều, sách vở về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
nhận thức không sâu, vận dụng không sát những điều kiện kinh tế - xã hội
của nước ta, trước nhất là đặc điểm xuất phát từ một nền kinh tế còn phổ
biến là sản xuất nhỏ, chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản cho nên
chúng ta đã có những bước đi chưa đúng, chưa phù hợp. Do đó, Đảng ta đã
phải nhận thức lại và vạch ra những hình thức, bước đi vững chắc, làm nhỏ,

có hiệu quả, đi lên dần, chứ không thể làm lớn, đi nhanh ngay được.
Qua thực tiễn đổi mới tư duy, Đảng ta ngày càng nhận thức đúng hơn, đầy
đủ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đặc điểm kinh tế
- xã hội trên quy định, mà thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải
lâu dài, qua nhiều chặng với những nội dung, hình thức phù hợp, nhằm thực
hiện từng bước sự cải tiến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, không được
nóng vội, chủ quan, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn.
2- Đổi mới về cơ chế và chính sách kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm
nǎng, phát triển sản xuất, đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng và từng
bước đi lên chủ nghĩa xã hội
Từ nhận thức đến thực tiễn, chúng ta ngày càng cảm nhận sâu sắc chủ
trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng đã được đề ra từ Đại
hội Đảng lần thứ V, nhưng do tư duy chưa được đổi mới nên việc triển khai
vào cuộc sống còn chậm trễ.
Thực tiễn chứng minh chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là sự
phản ánh đúng đặc điểm xuất phát từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản
xuất nhỏ chưa qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhằm giải
phóng mọi tiềm nǎng kinh tế. Nǎng lực sản xuất còn nằm trong các cá nhân
và đơn vị kinh tế chưa được sử dụng. Tuy nhiên, trong bước đi ban đầu còn
nhiều hạn chế và cũng nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp mới trong đời sống
kinh tế - xã hội, nhưng nhìn tổng thể nền kinh tế quốc dân thật sự đã có bước
phát triển rõ rệt. Vốn cất giữ được đưa ra sử dụng, sức lao động nhàn rỗi
được huy động, tài nguyên đất rừng, sông biển được khai phá, trồng cấy,
chǎn thả ... Tuy hiệu quả kinh tế - xã hội chưa cao, chưa được như ý muốn,
nhưng thật sự đã góp phần làm tǎng thêm của cải xã hội, thu nhập và đời
sống của nhân dân được cải thiện một bước.
Kiên quyết và dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp,
từng bước xây dựng và thực hiện cơ chế hạch toán kinh tế trong sản xuất kinh doanh của các thành phần và tổ chức kinh tế. Tuy còn nhiều khó khǎn,
không ít những vướng mắc do sự thiếu đồng bộ, thiếu kinh nghiệm vận hành
cơ chế mới, nhưng từ ý nghĩa chiến lược của nền kinh tế đất nước đến sự

trưởng thành trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của các cơ sở, các tổ
chức kinh tế, đều không thể phủ nhận tính đúng đắn và triển vọng mở ra của
cơ chế mới. Cơ chế mới khuyến khích, đồng thời bắt buộc mọi hoạt động


sản xuất - kinh doanh phải thật sự coi trọng chất lượng và hiệu quả, tǎng
nǎng suất lao động, giảm chi phí tiêu hao nguyên vật liệu, hạ giá thành sản
phẩm, giành được lợi thế trong cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế, khắc
phục sự trì trệ, thiếu nǎng động, vô trách nhiệm của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp.
Với tư duy kinh tế mới, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện một bước điều
chỉnh lớn về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đã
thật sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu với sự đổi mới nhiều chính sách
khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, giải phóng mọi tiềm nǎng,
sức sản xuất trong nông nghiệp, như chính sách khoán sản phẩm, xoá bỏ
chính sách thu mua theo định giá hành chính, tự do lưu thông và điều hoà
cung - cầu lương thực, thực phẩm trên phạm vi cả nước, v.v...
Bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong những nǎm thực hiện
đường lối đổi mới theo định hướng cơ bản của Đại hội VI, việc thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết
việc làm, có thêm 4,2 triệu lao động sản xuất - kinh doanh. Chính sách kinh
tế mới đã động viên và phát huy khả nǎng của toàn xã hội, khuyến khích
người lao động tǎng thu nhập và làm giàu chính đáng, chấp nhận sự chênh
lệch trong thu nhập do nǎng suất và hiệu quả lao động, tạo động lực cho sự
phát triển và nâng cao mức sống chung của xã hội. Bên cạnh những mặt tích
cực trên, cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực mới chậm được phát
hiện và xử lý kịp thời. Như chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào, vi phạm pháp
luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa, bất công xã hội tǎng lên v.v...

Đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại đã thúc đẩy nhanh và mở rộng quan hệ
hợp tác đầu tư sản xuất - kinh doanh với nhiều nước, nhiều khu vực trên thế
giới với nhiều hình thức và quy mô, đã góp phần quan trọng vào việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Kim ngạch xuất khẩu tǎng từ 439 triệu
rúp và 384 triệu đôla nǎm 1986, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đôla nǎm
1990. Từ nǎm 1989 có thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo,
dầu thô, và một số mặt hàng khác. Tuy nhiên, thị trường quốc tế mở ra còn
chậm và chưa vững chắc, chưa có nhiều mặt hàng chủ lực, có sức mạnh cạnh
tranh. Thị trường xuất khẩu còn phải mở rộng, vươn lên mạnh mới đáp ứng
được nhu cầu nhập khẩu và trả nợ.
Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô đến các đơn vị cơ
sở theo hướng mở rộng quyền tự chủ về sản xuất, kinh doanh, đã tạo điều
kiện phát huy tính chủ động sáng tạo của các đơn vị kinh tế và của người lao
động. Bộ máy nhà nước từng bước chuyển sang thực hiện chức nǎng quản lý
nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều hành sản xuất - kinh doanh


của các đơn vị cơ sở. Việc xây dựng pháp luật kinh tế được đẩy mạnh.
Cơ chế quản lý mới bước đầu được hình thành, nhưng chưa đồng bộ, còn
thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm cho sản xuất, kinh doanh đúng
hướng. Cơ chế quản lý mới chậm được tổng kết để tiếp tục thực hiện đổi
mới cho tốt hơn. Sự quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước ở các cấp còn
bộc lộ nhiều yếu kém, chưa thực hiện có hiệu quả chức nǎng định hướng,
kiểm soát và điều tiết các thành phần kinh tế.
Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị được thực hiện từng bước vững
chắc đồng thời với đổi mới kinh tế. Thực chất đổi mới hoạt động của hệ
thống chính trị là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực đời
sống xã hội. Về kinh tế là mở rộng quyền tự chủ của cơ sở, phát huy tiềm
nǎng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người được tự do
kinh doanh theo pháp luật. Các hoạt động vǎn hoá, thông tin, báo chí, xuất

bản đã có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, đấu tranh phê
phán các hiện tượng tiêu cực.
Trong sinh hoạt đảng, hoạt động của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể
nhân dân cũng như trong xã hội, đã có không khí sinh hoạt dân chủ, thẳng
thắn, cởi mở, khắc phục dần hiện tượng dân chủ hình thức. Nhiều chủ
trương, chính sách và pháp luật đã được nhân dân tham gia ý kiến trước khi
quyết định.
Từ thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới, có thể nêu lên mấy kinh nghiệm
bước đầu:
- Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới. Tự
kiểm điểm, phê phán nghiêm khắc những khuyết điểm, sai lầm trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng không phủ định những thành tựu đã
đạt được. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà
nhằm thực hiện tốt hơn bằng những nhận thức và việc làm đúng đắn về chủ
nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, tất cả vì hạnh phúc của nhân
dân. Các chủ trương, chính sách đổi mới đều phải lấy kết quả xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta để kiểm nghiệm, tránh giáo điều, sao chép kinh
nghiệm của nước ngoài. Phát huy tinh thần độc lập tự chủ và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện của
nước ta.
Triển khai công cuộc đổi mới một cách toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng
phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Từ đổi mới nhận thức, quan
niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối
làm việc. Phải tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách về đời sống và việc làm của nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi
mới trong lĩnh vực chính trị. Từng bước đổi mới tổ chức và phương thức


hoạt động của hệ thống chính trị nhằm phát huy ngày càng tốt hơn quyền

làm chủ của nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với
nhiệm vụ chính trị - xã hội của nước ta.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tǎng cường vai
trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách, tuyên truyền, giáo dục v.v.. Chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp,
tự túc với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy các tiềm nǎng sản
xuất - kinh doanh trong xã hội. Song thực tế cho thấy cùng với sự kích thích
sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi nảy sinh
nhiều loại tệ nạn xã hội, những tiêu cực, nên phải thực hiện tốt vai trò quản
lý của Nhà nước, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát
huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội.
Quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải
quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh. Đổi mới vì sự thành công của
chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện, tránh suy nghĩ
giản đơn, một chiều, đến khi thấy có vấn đề mới nảy sinh, có mặt tiêu cực
mới xuất hiện thì dao động, hoang mang, muốn quay lại những cách làm cũ.
Coi trọng tổng kết thực tiễn, không ngừng phát triển tư duy lý luận về chủ
nghĩa xã hội và mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm cho công
cuộc đổi mới ngày càng trở thành hoạt động tự giác và sáng tạo, bớt đi
những sai lầm, bước đi quanh co, phức tạp.
Từ sau Đại hội lần thứ VI, nhờ sự phấn đấu của toàn Đảng và toàn dân ta,
công cuộc đổi mới vì sự thành công của chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã đạt
được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đại hội lần thứ VII của Đảng
đã khẳng định và tiếp tục phát huy những thành tựu và ưu điểm đã đạt được,
đồng thời hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới, đưa sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên một cách vững chắc.




×