Tải bản đầy đủ (.pdf) (233 trang)

Vị trí, vai trò của thanh tra quốc hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực ở một số nhà nước pháp quyền hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 233 trang )

TRƯ ỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU K HOA HỌ C CẤP CƠ SỞ

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TH ANH TR A QUỐC H ỘI
TRON G C Ơ C HẾ KIỂM SO ÁT QUYỀN LỰ C Ở M ỘT SỐ
NHÀ NƯỚC PH ÁP QUYỀN HIỆN Đ ẠI

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Thái Thị Thu Trang
Thư kí đề tài: ThS. Đậu Công Hiệp

HÀ NỘI - 2017


DANH SÁCH CỘ NG TÁC VIÊN THAM GIA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
TT

HỌ VÀ TÊN

CHỨC VỤ, ĐƠN VỊ CÔNG TÁC

CHUYÊN
ĐỀ

1.

ThS. Thái Thị Thu Trang

Giảng viên Luật Hiến pháp, khoa pháp
luật Hành chính – N hà nước, Trường


Đại học luật Hà N ội

3

2.

ThS. Hoàng Quỳnh Hoa

Biên tập viên, Phòng Quản lý khoa học
và trị sự tạp chí Trường Đại học luật
Hà Nội, Trường đại học luật Hà Nội

3

3.

ThS. Nguyễn Thị Quỳnh
Trang

Giảng viên Luật Hiến pháp, khoa pháp
luật Hành chính – N hà nước, Trường
Đại học luật Hà N ội

1

4.

ThS. Đậu C ông Hiệp

Giảng viên Lịch sử nhà nước và Pháp

luật Việt Nam, khoa pháp luật Hành
chính – Nhà nước, Trường Đại học
luật Hà Nội

1

5.

ThS. Đỗ Quý Hoàng

Giảng viên C ông pháp quốc tế, Khoa
pháp luật Q uốc tế, Trường Đại học
Luật Hà Nội

2


MỤC LỤC
Trang
PHẦN THỨ NHẤ T: BÁO CÁO TỔN G H ỢP K ẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU Đ Ề TÀI

1

A. M Ở ĐẦU

2

1. Tính cấp thiết của đề tài


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

4

3. M ục tiêu nghiên cứu của đề tài

11

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

11

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

12

6. Các sản phẩm của đề tài

12

7. Cơ cấu Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài

13

B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

14


1. Những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thanh tra Quốc hội
trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nhà nước pháp
quyền hiện đại
2. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Quốc hội m ột số nước trên
thế giới

14

3. Kết luận

72

PHẦN THỨ HAI: CÁC CHUYÊN ĐỀ

74

Chuyên đề 1: Thanh tra Quốc hội – Thiết chế kiểm soát độc lập ở
nhà nước pháp quyền

75

32

Chuyên đề 2: Thanh tra Quốc hội Thụy Điển và Phần Lan

103

Chuyên đề 3: M ô hình Thanh tra Quốc hội Croatia và Bồ Đào Nha

125


PHỤ LỤC
DANH M ỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN THỨ NHẤT:
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp quyền – “rule of law” là khái niệm không còn xa lạ đối với nhiều nước
trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cương lĩnh chính trị về xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác
định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta trong giai
đoạn hiện nay là đẩy mạnh việc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Thực ra, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được Chủ tịch Hồ Chí
M inh đề cập ngay từ những ngày chúng ta xây dựng nhà nước dân chủ đầu tiên của
dân tộc, những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền đã được thể hiện trong
Hiến pháp 1946, đó là một bản Hiến pháp được xây dựng dựa trên nguyên tắc: “Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; ; Đả m
bảo các quyền tự do dân chủ; - thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân”; Khẳng định nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa mà ở đó tất
1

cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân ; Đề cao tính tối thượng của Hiến pháp

2

và pháp luật ...Tuy nhiên, trong đường lối xây dựng nhà nước của Đảng, khái niệm
“nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng chính
thức là trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 2 khóa VII và trong Văn kiện Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994). Tại Hội nghị này,
Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ và phương hư ớng xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đường
lối xây dựng nhà nước pháp quyền tiếp tục được các Đại hội VIII, IX, X và XI của
3

Đảng phát triển và hoàn thiện , đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, trước sự
nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì vấn đề xây dựng
thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng và Nhà nước ta chú
trọng và đẩy mạnh.
Sự ra đời của Hiến pháp 2013 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc
thế chế hóa cương lĩnh của Đảng về việc xây d ựng đất nước trong đó có
1

Điều thứ 1 Hiến pháp 1946: “tất cả quyền bính trong nư ớc là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”
2

Điều thứ 4 Hiến pháp 1946: “M ỗi công dân Việt Nam phải: - Bảo vệ Tổ quốc/ - Tôn trọng Hiến pháp/ - Tuân
theo pháp luật”
3
/>

3


vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền, Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp 2013 đã ghi
nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ”. Đi liền khẳng định
trên, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp
2013 đã bổ sung nguyên tắc “kiểm soát” quyền lực nhà nước bên cạnh sự phân
công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
4

hành pháp và tư pháp . Có thể thấy, xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề
kiểm soát quyền lực nhà nước là hai vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là điều kiện tất yếu để có một nhà nước dân chủ;
một chính quyền thực sự phục vụ lợi ích của người dân, đề cao quyền con
người; tôn trọng Hiến pháp và pháp luật. Bởi lẽ, nguyên nhân chủ yếu của sự tồn
tại của hiện tượng chuyên quyền, độc đoán, lạm quyền trong việc sử dụng quyền
lực nhà nước chính là từ việc không kiểm soát được quyền lực. Do vậy, “thiết
kế” được mô hình kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả là điều kiện
tất yếu để xây dựng thành cô ng nhà nước pháp quyền.
Nhìn ra thế giới, hiện nay, các mô hình thiết chế nhằm kiểm soát quyền lực
nhà nước rất đa dạng, đặc biệt là các mô hình cơ quan kiểm soát độc lập bởi
những ưu điểm của nó như tính khách quan, độc lập và tính chuyên sâu trong
lĩnh vực kiểm soát…, các thiết chế này có thể được quy định trong hiến pháp (cơ
quan hiến định độc lập) hoặc được hình thành bởi luật của mỗi quốc gia. Trong
số các mô hình đó, phải kể đến mô hình Thanh tra Quốc hội (Parliament
Ombudsman). Đây là một thiết chế “mang nhãn hiệu” Thụy Điển

5

nhưng đã

6


nhanh chóng lan rộng ra nhiều nước trên thế giới , Thanh tra Quốc hội không
chỉ tồn tại ở những nước phát triển như Đan Mạch, Ba Lan, Anh, Pháp, Hoa
Kỳ… mà mô hình Thanh tra Quốc hội còn tồn tại ở những nước đang phát tr iển ở
4
5

Điều 2 Khoản 3 Hiến pháp 2013

GS.TS. Đào Trí Úc, “về thiết chế Ombudsman của các nước trên thế giới”, Các thiết chế hiến định độc lập Kinh nghiệm nghiệm quốc tế và triển vọng ở Việt Nam, Viện chính sách và pháp luật công, 2013, tr.58
6 -us/history:có 150 quốc gia có mô hình thanh tra quốc hội


4

Châu Phi, thậm chí mô hình này đã xuất hiện trong hiến pháp của một số nước
7

Đông Nam Á rất gần gũ i với Việt Nam như Philippin, Thái Lan . Sự phổ biến
của thiết chế Thanh tra Quốc hội trên thế giới xuất phát từ vai trò quan trọng của
loại cơ quan này trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước đặc biệt là các cơ
quan hành chính – vốn là những cơ quan tác động rất lớn tới đời sống người dân
nhưng cũng là loại cơ quan có xu hướng lạm quyền nhiều nhất.
Với nhu cầu đổi mới tổ chức hoạt động bộ máy nhà nước trên cơ sở hiến định
nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước gắn liền với mục tiêu xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu về mô hình thanh tra Quốc
hội, nhận thức được vị trí cơ quan này đối với vấn đề kiểm soát quyền lực nhà
nước ở nhà nước pháp quyền là một vấn đề rất cần thiết, qua đó sẽ đặt ra những
hướng đi gợi mở cho Việt Nam trong việc xây dựng bộ máy nhà nước trong giai
đoạn tới.

Với lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Vị trí, vai trò của Thanh tra Quốc
hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nhà nước pháp
quyền hiện đại” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về Thanh tra Quốc hội ở nước ta trong những năm gần đây đã
có một số công trình nghiên cứu ở mức độ khác nhau, cụ thể:
-

Tình hình nghiên cứu trong nước
Thứ nhất, công trình nghiên cứu dưới hình thức sách chu yên khảo

Phải nói là ở Việt Nam chưa có một công trình dưới dạng sách chuyên
khảo nào nghiên cứu riêng về mô hình Thanh tra Quốc hội, mà nội dung này chỉ
ở một chương mục nhất định trong nội dung nghiên cứu rộng hơn, theo đó có
một số công trình tiêu biểu sau:
1, “Các thiết chế hiến định độc lập – Kinh nghiệm quốc tế và triển vọng ở
7

Xem Nghiên cứu so sánh Hiến pháp các quốc gia Asean – PGS.TS. Tô Văn Hòa


5

Việt Nam” – Viện chính sách công và pháp luật, Đồng chủ biên: GS.TSKH Đào
Trí Úc - GS.TS Nguyễn Thị M ơ - TS. Nguyễn Văn Thuận – TS. Vũ Công Giao,
Hà Nội 2013: Nội dung gồm 7 phần, trong đó, phần II là các bài nghiên cứu về
Ombudsman – trong đó, các tác giả đã phân tích khái quát lịch sử hình thành và
phát triển của Thanh tra Quốc hội trên thế giới, vai trò của thanh tra quốc hội và
đề cập đến mối liên hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, công trình này chỉ mới tìm
hiểu sơ bộ mô hình Thanh tra Quốc hội một số nước và chỉ ra được một số ưu

điểm và khả năng áp dụng mô hình Thành tra Quốc hội ở Việt Nam mà chưa đ ặt
vị trí cơ quan này trong mối liên hệ xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta
hiện nay.
2, Nghiên cứu so sánh Hiến pháp các quốc gia Asean , PGS.TS Tô Văn
Hòa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015: Nội dung gồm 8 chương, trong đó,
Chương VI: Kiểm soát quyền lực nhà nước trong hiến pháp các quốc gia Asean,
tác giả đã đề cập đến cơ quan Thanh tra quốc hội của một số nước trong khối
Asean (Thái Lan và Philippin). Tác giả cũng chỉ nêu khái quát các đặc điểm của
mô hình Thanh tra Nghị viện (Quốc hội) của hai n ước là Thái Lan và Phillippin
chứ chưa đánh giá mang tính lý luận sự tồn tại của mô hình Thanh tra Quốc hội
trong các nhà nước đó.
Thứ hai, công trình nghiên cứu dưới hình thức đề tài nghiên cứu khoa học
các cấp
1, Đề tài khoa học của Văn phòng Quốc hội: “Các mô hình tổ chức và hoạt
động quốc hội của một số nước trên thế giới ”, chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Sỹ
Dũng, Hà Nội, 2001: Đây là công trình khoa học nghiên cứu về tổ chức và hoạt
động quốc hội của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó, công trình đã đề cập
đến mô hình Thanh tra Quốc hội với tư cách là một cơ quan trợ giúp cho Quốc
hội trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người.
2, Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Cơ quan nhân quyền quốc gia – Mô hình,


6

chương trình, thách thức và giải pháp ”, Frauke Lisa Seidensticker - Anna Wuerth
(nghiên cứu theo yêu cầu của Bộ ngoại giao Việt Nam của tổ chức UNDP): Nội
dung gồm 4 phần, trong đó, nhóm tác giả đã đề cập đến vai trò của ombudsman
(thanh tra viên) trong vai trò là cơ quan bảo vệ quyền con người chứ chưa khai
thác ở khía cạnh là cơ quan kiểm soát độc lập.
3, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của Thanh tra Chính Phủ 1999 về tổ

chức hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới.
Trong đó, có các chuyên đề của các tác giả nghiên cứu về tổ chứ c và hoạt động
của cơ quan thanh tra của một số nước trên thế giới như: “ Sự thành lập và hoạt
động của thanh tra Quốc hội Đan Mạch ”, của tác giả Văn Tiến M ai; “Thanh tra
Quốc hội của Canada” của Đinh Quang Tuyến, “Tổ chức và hoạt động của
thanh tra Thụy Điển” của Vũ Văn Chiến, “Giới thiệu về cơ quan thanh tra
Philippin” của tác giả Đặng Khánh Toàn…
4, “Tài liệu tham khảo về hoạt động giám sát của nghị viện các nước trên thế
giới”, Văn phòng Quốc hội (phục vụ cho xây dựng Luật hoạt động giám sát của
Quốc hội, Hội đồng nhân dân), Hà Nội, 2014: Tài liệu đã chỉ ra các hình thức
giám sát của nghị viện các nước trên thế giới áp dụng, trong đó có mô hình
Thanh tra Quốc hội;
5, Luận án tiến sĩ luật học: “Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước
trong kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam ” của Nguyễn Văn
Tuấn, người hướng dẫn: GS.TS Đinh Văn M ậu (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí M inh), bảo vệ năm: 2015. Luận án đã gồm 175 trang, chia làm 4 chương.
Trong đó tác giả đã nghiên cứu các mô hình thanh tra nhà nước và có đề cập
Thanh tra Quốc hội. Công trình cũng đã chỉ ra một số điểm lý luận về vấn đề
kiểm soát quyền hành pháp thông qua cơ chế thanh tra và đề cập một số mô hình
Thanh tra Quốc hội ở một số nước trên thế giới.
6, Luận văn thạc sĩ luật học: “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động Ban dân
nguyện thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội trong bối cảnh Việt Nam hiện nay ”,


7

Trần Hồng Cẩn, người hướng dẫn: PGS.TS. Tô Văn Hòa, bảo vệ năm 2015:
Luận văn đã phân tích tổ chức và hoạt động của Ban dân nguyện thuộc Ủy ban
thường vụ Quốc hội ở Việt Nam thời gian qua, chỉ ra được ưu điểm và hạn chế
của mô hình này, qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện trên cơ sở học tập mô hình

một số nước trên thế giới về cơ quan có cùng chức năng, trong đó tác giả có đề
cập đến mô hình thanh tra Quốc hội nhưng chỉ dừng lại là một trong những kiến
nghị hoàn thiện tổ chức hoạt động của Ban dân nguyện thuộc Ủy ban thường vụ
Quốc hội trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí, tiêu biểu:
1, “Cơ quan thanh tra Nghị viện Thụy Điển”, Lê Trọng Vinh, Bộ Nội vụ, số
6, 1999;
2, “Tăng cường hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân với việc xây dựng mô hình Ủy ban Dân nguyện của Quốc hội hiện nay ”, TS.
Trương Thị Hồng Hà, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, 2010;
3, “Bàn về thiết chế Ombudsman liên bang ở Nga”, M ai Văn Thắng, Tạp chí
Khoa học ĐHQG Hà Nội: Luật học tập 31 - số 2/2015;
4, “Mô hình bộ máy quốc gia về nhân quyền ở một số nước và suy nghĩ về cơ
chế đảm bảo quyền con người ở nước ta” / Tường Duy Kiên // Nghiên cứu lập
pháp. Văn phòng Quốc hội, Số 15/2009;
5, “Thanh tra Quốc hội trên thế giới và giá trị tham khảo đối với Việt Nam” /
Hoàng Hùng Hải / Nhà nước và Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số
5/2014;
6, “Giám sát của quốc hội đối với tổ chức bộ máy nhà nước trên thế giới và
những giá trị tham khảo cho Việt Nam” / Trương Hồ Hải / Luật học. Trường Đại
học Luật Hà Nội, Số 5/2015.
7 , “V a i trò củ a th an h tra tro ng việc kiểm so á t qu yền lực củ a cơ qu a n h à nh


8

chính một số nước trên thế giớ i và vấn đề này ở Việt Nam”/ Thái Thị Thu Trang
và Đậu Công Hiệp/ tạp chí Thanh tra số 3/2016.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trong nước ít nhiều đã đề cập đến mô
hình Thanh tra Quốc hội ở những khía cạnh khác nhau như là cơ quan góp phần

hoàn thiện chức năng giám sát của Quốc hội hoặc là cơ quan bảo vệ quyền con
người hoặc nghiên cứu Thanh tra Quốc hội dưới góc độ là nghiên cứu một mô
hình cụ thể ở một nước trên thế giới, tuy nhiên, việc kết quả nghiên cứu của các
công trình khoa học kể trên vẫn chưa nhìn nhận mô hình cơ quan này một cách
sâu sắc, toàn diện, xác định được vị trí, vai trò của cơ quan này trong vấn đề
kiểm soát quyền lực nhà nước ở nhà nước pháp quyền để lý giải được những
điểm cốt lõi về Thanh tra Quốc hội thứ mà khiến cho thiết chế này có sức lan tỏa
mạnh mẽ. Qua đó, phần nào có câu trả lời thuyết phục hơn cho việc đánh giá khả
năng áp dụng mô hình này ở Việt Nam. Đây là nhiệm vụ mà Đề tài nghiên cứu
khoa học cần phải kế thừa và tiếp tục phát triển để làm sáng tỏ.
-

Tình hình nghiên cứu nước ngoài

Nghiên cứu về thanh tra Quốc hội không phải là vấn đề mới đối với các nhà
khoa học pháp lý trên thế giới, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu:
1, “Internetinal ombudsman yearbook”, Vol. 1, 1997/ Vol.2, 1999 / Vol. 3,
2000 ed. by International Ombudsman Institute and Linda C. Reif: Đây là dạng
sách được in hàng năm với các tuyển tập khác nhau, chuyên tập hợp các bài viết
của các học giả quốc tế về lĩnh vực ombudsman. Cuốn 1 gồm 11 chuyên đề, nội
dung là tìm hiểu chung về ombudsman ở các kh ía cạnh khác nhau (dưới góc độ
là nghề nghiệp, là một cơ quan, tìm hiểu chức năng của ombudsman… ). Cuốn 3
gồm 15 chuyên đề, trong đó, các tác giả đã tìm hiểu ombudsman ở một số khía
cạnh thông qua tìm hiểu ombudsman ở một số quốc gia (Hong Kong, Kampala,
Uganda… ). Cuốn 4 gồm 7 chuyên đề, nghiên cứu vai trò của ombudsman trong
lĩnh vực kiểm soát cơ quan hành chính (giám sát, kiểm tra trong lĩnh vực công,
chống lại quan lieu… ) và vai trò của ombudsman trong vấn đề quyền con người.


9


Thanh tra Quốc hội với tên gọi mang tính nguồn gốc là ombudsman được phân
tích khá sâu sắc trên nhiều phương diện trong ba cuốn sách này, cung cấp cho
luận án nhiều quan điểm về thanh tra Quốc hội của các nước trên thế giới, làm
cơ sở để xây dựng các nội dung lý luận cũng như tron g quá trình phân tích mô
hình cơ quan này ở một số quốc gia. Tuy vậy, các chuyên đề trong ba cuốn sách
này không nghiên cứu một cách hệ thống các mô hình thanh tra Quốc hội trên
thế giới mà chủ yếu phân tích dưới dạng giới thiệu các vấn đề liên quan đến
ombudsman và các nước chỉ mang tính chất minh họa.
2, “The Danish Ombudsman”, M arch 1995, ed.by the Danish Ombudsman
and the M inistry of foreign affairs: Cuốn sách là tài liệu chuyên sâu về
ombudsman của nước Đan M ạch, gồm: 15 chuyên đề, nội dung là các bài nghiên
cứu của nhiều tác giả về lịch sử hình thành, vai trò của ombudsman trong việc
kiểm soát cơ quan hành chính, mối quan hệ với cơ quan nhân quyền Châu Âu,
triển vọng phát triển của mô hình này trong tương lai… Cuốn sách đã cung cấp
cho luận án các nội dung quan trọng về thanh tra Quốc hội ở Đan Mạch;
3, “The parliamentary ombudsman – withstanding the test of time”, ed. By
TSO (the Stationery Office), 2007: bài nghiên cứu của TS. Richard Kirkham của
Khoa luật trường Đại học Shefield, gồm 32 trang, trong đó, nội dung đã chỉ ra
những khó khăn, thách thức khi thiết kế mô hình thanh tra Quốc hội và ý nghĩa
của việc tồn tại thanh tra Quốc hội;
4, “The Ombudsman, Good Governance and the International Human Rights
System” của giáo sư Pr. Linda. C. Reifed: cuốn sách bao gồm 12 chương, nội
dung đã đề cập tới sự phát triển quan niệm về Ombudsman, phân tích các khía
cạnh về vai trò của ombudsman trong việc kiểm soát quyền lực của chính phủ,
cơ quan hành chính và bảo đảm các quyền con người. Tác phẩm là sự đánh giá
khá toàn diện hoạt động của các mô hình ombudsman của các nước đại diện cho
các khu vực khác nhau trên thế giới.



10

5, “How to be a good Ombudsman ” của tiến sĩ Jacob Soderman, bài nghiên
cứu được trình bày tại Hội nghị bồi dưỡng nâng cao công chức thanh tra Châu
Âu năm 2004 tại M arid, qua đó, tác giả đã trình bày nguồn gốc ra đời của cơ
quan thanh tra đầu tiên tại Châu Âu và sự phát triển các cơ quan thanh tra ở các
nước liên minh Châu Âu, đánh giá tính hiệu quả của hoạt động thanh tra trong
việc kiểm soát cơ quan hành chính thông qua việc quốc hội bầu cơ quan thanh
tra nhằm đảm bảo sự độc lập của cơ quan thanh tra với cơ quan hành chính.
6, “The Ombudsman Institution and The Quality of Democracy ”, TS.
P.Nikiforos Diamandouros. Bài nghiên cứu đã chỉ ra va i trò của cơ quan Thanh
tra Quốc hội trong việc thúc đẩy chất lượng của nền dân chủ. Nội dung: 1.
Nguồn gốc và sự lan tỏa của cơ quan Thanh tra Quốc hội trên thế giới; 2. Dân
chủ và pháp quyền; 3. Sự đóng góp của cơ quan Thanh tra Quốc hội tới chất
lượng của nền dân chủ.
7, “Supervision of the Courts by the Swedish Parliamentary Ombudsman ”,
Lars Lindstrom (thanh tra Thụy Điển). Bài nghiên cứu phân tích một khía cạnh
thẩm quyền của Thanh tra Quốc hội Thụy Điển, tác giả đã lý giải vì sao thanh
tra Quốc hội Thụy Điển có thẩm quyền giám sát tòa án, đánh giá ý nghĩa của
thẩm quyền này.
8, “Ombudsman: protection of the rights of minorities in Portugal and best
international practices”, João Tiago Silveira, Bài nghiên cứu gồm 2 nội dung
chính: 1. So sánh thanh tra ở Bồ Đào Nha với các quốc gia khác về khái niệm,
năng lực, thẩm quyền; 2. Việc thực hiện hoạt động giám sát của thanh tra Bồ
Đào Nha.
Ngoài ra, Đề tài còn khai thác các số liệu, thông tin khoa học từ các Báo cáo
thường niên của Thanh tra Quốc hội các nước: Thụy Điển, Phần Lan, Bồ Đào
Nha, Croatia gửi đến Quốc hội trong những năm gần đây.
Những thông tin về cách thức tổ chức, hoạt động của mô hình Thanh tra Quốc
hội, cùng với những đánh giá về mô hình này của các chuyên gia nước ngoài là

nguồn tư liệu quan trọng giúp đề tài có thể đánh giá được vị trí của


11

Thanh tra Quốc hội trong việc kiểm soát quyền lực ở nhà nước pháp quyền,
bởi lẽ mô hình này không còn xa lạ với nhiều nước trên thế giới, trong khi đó,
mô hình này ở Việt Nam chưa từng tồn tại, do vậy , việc đánh giá vị trí của
Thanh tra Quốc hội chủ yếu dựa trên thực tiễn của nước ngoài.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Để giải quyết câu hỏi nghiên cứu: Thanh tra Quốc hội có vị trí, vai trò như
thế nào trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở nhà n ước pháp quyền
hiện đại, nhóm tác giả thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
-

Phân tích và đánh giá mang tính lý luận về vị trí, vai trò của Thanh

tra Quốc hội trong nhà nước pháp quyền.
-

Phân tích và đánh giá được một cách sâu sắc, toàn diện về quy định

pháp luật và thực tiễn hoạt động của Thanh tra Quốc hội của một số nước trên
thế giới. Qua đó, rút ra được mẫu số chung trong tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Quốc hội.
-

Chỉ ra những ưu thế của việc sử dụng mô hình cơ quan Thanh tra

Quốc hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở nhà nước pháp quyền.

-

Để tăng tính thuyết phục cho đề tài nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ

đăng tối thiểu 01 bài tạp chí có nội dung lấy từ kết quả nghiên cứu của Đề tài
nghiên cứu khoa học.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu hệ thống quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động của
Thanh tra Quốc hội ở một số nhà nước pháp quyền hiện đại. Trong đó, nhóm
nghiên cứu lựa chọn hai quốc gia đại diện mô hình Thanh tra Quốc hội ra đời thời
kỳ đầu tiên làThụy Điển, Phần Lan v à hai quốc gia đại diện mô hình thanh tra
Quốc hội ở giai đoạn sau là Bồ Đào Nha và Croatia, đây đều là những quốc gia có
m ô h ìn h T h an h t ra Qu ố c h ộ i đ ư ợc đ án h g iá là h o ạt đ ộ n g h iệu q u ả, đ ư ợ c


12

nhiều quốc gia khác học tập, tham khảo. Qua đó, làm rõ được v ị trí, vai trò của
Thanh tra Quốc hội trong vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nhà nước
pháp quyền.
5.

Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở các phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp luận:
Đề tài sử dụng phương pháp luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
M ác - Lê nin và tử tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; Các học
thuyết chính trị về nhà nước và pháp luật trên thế giới.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

Đề tài sử dụng các phương ph áp nghiên cứu luật học như: Phương pháp so
sánh, phân tích, đánh giá, thống kê… , cụ thể:
Chuyên đề 1: Nhóm tác giả áp dụng chủ yếu phương pháp phân tích, đánh giá
dựa trên các học thuyết về nhà nước và pháp luật liên quan đến nhà nước pháp
quyền và kiểm soát quyền lực nhà nước.
Chuyên đề 2 và chuyên đề 3 : Nhóm tác giả áp dụng chủ yếu phương pháp
phân tích, so sánh, thống kê để nghiên cứu tổ chức và hoạt động thanh tra Quốc
hội một số nước trên thế giới, qua đó đánh giá được hiệu quả hoạt động của loại
thiết chế này trong bộ máy nhà nước.
Báo cáo tổng thuật: nhóm tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích, so
sánh để rút ra kết luận về vị trí, vai trò của Thanh tra Quốc hội trong việc kiểm
soát quyền lực nhà nước ở nhà nước pháp quyền. Bên cạnh đó, Đề tà i có một số
gợi mở về việc áp dụng mô hình Thanh tra Quốc hội nhằm hoàn thiện bộ máy
nhà nước ở Việt Nam trong vấn đề kiểm soát quyền lực ở giai đoạn hiện nay.
6. Các sản phẩm của đề tài
-

Báo cáo tổng hợp

-

Các chuyên đề gồm:
Chuyên đề 1. Thanh tra Quốc hội - Thiết chế kiểm soát độc
lập trong nhà nước pháp quyền hiện đại


13

Chuyên đề 2. Thanh tra Quốc hội ở Thụy Điển và Phần Lan
Chuyên đề 3. Thanh tra Quốc hội ở Croatia và Bồ Đào Nha

Bài báo: “Mô hình Thanh tra Quốc hội Thụy Điển, Phần Lan và giá trị

-

tham khảo ở Việt Nam” Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2 tháng
8/2017.
7. Cơ cấu của Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài
1. Những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thanh tra Quốc hội ở nhà
nước pháp quyền hiện đại.
1.1.

Nhà nước pháp quyền và nhu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước

1.1.1. Tư tưởng pháp quyền và nhà nước pháp quyền
1.1.2. M ối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và nhân quyền
1.2.
Cơ chế kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền
1.2.1. Khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lực
1.2.2. Các cơ chế kiểm soát quyền lực ở nhà nước pháp quyền
1.3. Thanh tra Quốc hội – Thiết chế kiểm soát quyền lực độc lập trong nhà
nước pháp quyền hiện đại
1.3.1. Sự ra đời của mô hình Thanh tra Quốc hội
1.3.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước của Thanh tra Quốc hội tron g nhà nước
pháp quyền
2. Tổ chức và hoạt động Thanh tra Quốc hội một số nước trên thế giới và
một số gợi mở cho Việt Nam
2.1.

Thanh tra Quốc hội của Thụy Điển và Phần Lan


2.1.1. Thanh tra Quốc hội Thụy Điển
2.1.2. Thanh tra Quốc hội Phần Lan
2.2.

Thanh tra Quốc hội của Croatia và Bồ Đào Nha

2.2.1. Thanh tra Quốc hội Croatia
2.2.2. Thanh tra Quốc hội Bồ Đào Nha
2.3. Nhận xét về tổ chức và hoạt động Thanh tra Quốc hội trên thế giới và
một số gợi mở cho Việt Nam


14

B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨ U
1. Những vấn đề lý luận về vị trí, vai trò của Thanh tra Quốc hội ở nhà
nước pháp quyền
1.1.Nhà nước pháp quyền và nhu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước
1.1.1 Tư tưởng pháp quyền và nhà nước pháp quyền
Về mặt thuật ngữ, Châu Âu lục địa thường sử dụng khái niệm pháp quyền,
hay nhà nước pháp quyền (État de droit/ Rechsstaat). Còn theo cách hiểu Anh M ỹ, với thuật ngữ khá tương đồng là rule of law, có thể hiểu là sự cai trị/thống
trị của pháp luật

(8)

. Tuy nhiên, dù sử dụng thuật ngữ theo cách nào, tư tưởng về

pháp quyền đều đặt ra n hững yêu cầu cơ bản về nhà nước và pháp luật, đó là:
- Pháp luật có vị trí tối thượng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức, đảng phái,
giai cấp nào được đứng trên pháp luật, được quyền ban hành và thay đổi nội

dung của pháp luật theo hướng trái với những nguyê n tắc cơ bản của nó. Theo
cách hiểu này, pháp luật không phải là công cụ của nhà nước, của giai cấp thống
trị, mà có thể nói, pháp luật thậm chí còn đứng trên nhà nước, trong đó nhà nước
có nghĩa vụ phải tuân theo pháp luật. Để có được điều đó, các đạo lu ật do nhà
nước ban hành, hay pháp luật thực định, phải là sự phản ánh và không được trái
pháp luật tự nhiên. Theo N. D. Arora_ Giáo sư Đại học Kinh tế và kỹ thuật
Berlin, pháp quyền (rule of law) được hiểu là "sự cai trị của luật pháp, luật pháp
như đúng nghĩa của nó: tức là luật pháp là thứ cai trị chứ không phải là người
thực thi pháp luật [cai trị]; trên thực tế, những người vận hành pháp luật lại có
bổn phận thi hành pháp luật theo nghĩa của nó, chứ không phải như

8

Cách hiểu Anh-M ỹ về pháp quyền hay pháp trị (rules of law) khá tương đồng với quan điể m nhà nước pháp
quyền (État de droit/ Rechsstaat) của châu Âu lục địa. Trong thuật ngữ État de droit, từ droit vừa có nghĩa là lẽ
phải, vừa có nghĩa là quyền, vừa có nghĩa là pháp luật. Còn trong từ rul e of law, rule có nghĩa là cai trị, thống trị.
Khái niệm rule of law nhấn mạnh đến vai trò và vị trí thượng tôn của pháp luật trong việc điều chỉnh các chuẩn
mực xã hội theo nghĩa không phải nhà nước cai trị mà là pháp luật cai trị. Do đó, nhà nước phải đứng dưới pháp
luật tự nhiên.Tham khảo thêm: Nguyễn Sỹ Dũng, Pháp quyền hay pháp trị, đăng tại tạp chí Tia sáng:
/>

15

19
người đó muốn nó có nghĩa là gì."

(9)

Pháp luật có vai trò trọng tài công bằng, điều hòa lợi ích của các bên trong


-

những mối quan hệ xã hội cụ thể thuộc các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị.v.v .
Theo cách hiểu này, pháp luật phải đứng giữa lợi ích của mọi chủ thể, không
thiên lệch về bất kỳ ai, dù đó là cá nhân, tổ chức, đảng ph ái, giai cấp nào. Pháp
luật phải công bằng một cách tuyệt đối. Có một câu ngạn ngữ tiếng Latin nổi
tiếng đã nói lên điều này: Lex iniusta non est lex! (Luật mà bất công thì không
phải là luật!)
Như vậy, tư tưởng pháp quyền hiểu theo nghĩa rộng nó là một chế độ xã hội
mà ở đó tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai đứng trên
pháp luật, kể cả nhà nước. Nhà nước, hay những người cầm quyền, do đó, phải
nhận thức rằng chân lý cao nhất không phải thuộc về mình mà thuộc về pháp
luật. Nhà nước pháp quyền đặt trong mối quan hệ với chế độ pháp quyền có thể
xác định đó là một thành tố cơ bản tạo nên chế độ pháp quyền.
Từ đây, có những quan niệm chung về Nhà nước pháp quyền giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về mô hình nhà nước này: Nhà nước pháp quyền chính l à mô hình
nhà nước tôn trọng tính tối thượng của pháp luật mà pháp luật ở đây phải được
hiểu là “pháp luật thông thường chứ không phải là những ảnh hưởng chính trị,
và loại trừ sự cửa quyền, hoặc đặc quyền, hoặc thậm chí là phạm vi quyền tự
quyết định quá lớn đối với chính quyền ” - A.V Dicey

10

; Hay một cách chi tiết

hơn: “Để luận chứng cho sự ràng buộc Nhà nước bằng pháp luật, tất yếu phải
thừa nhận những quy phạm đứng trên Nhà nước. Những quy phạm đó không thể
bắt nguồn từ ý chí chủ quan của Nhà nước, khôn g thể nằm trong pháp luật mà
Nhà nước đặt ra. Đó chỉ có thể là các quy phạm của phạm trù đạo đức, của
9


Theo N. D Arora, Polotical science, Tata M cGraw Hill, 2011, mục 6-3. Nguyên văn: "Rule of law is the rule of
law, law as it is: it is the law that rules and not person who enforces the law; in fact, the person operating the
law is under obligation to enforce the law as it is, and not as he/she wants it to mean."
10
th
Introduction to the Study of the Law of the constitution, 9 ed., M acM illan and Co.,Limited, London (1950), tr
202, theo Luận án tiến sĩ: “Tính độc lập của tòa án” – TS. Tô Văn Hòa


16

11

pháp luật tự nhiên” , Nhà nước pháp quyền “là mô hình nhà nước trong đó mọi
biểu hiện về quyền lực của chính phủ đều có khả năng đo đếm được theo các
tiêu chuẩn pháp luật và có khả năng chống lạ i mọi nguy cơ và ảnh hưởng xấu
bằng những phương tiện tri thức để bảo đảm trật tự; cơ sở của nhà nước là ý
tưởng về công lý, công bằng dựa trên sự công nhận và tiếp nhận hoàn toàn giá
trị tối thượng của nhân cách con người, được bảo đảm bởi các thể chế làm
khuôn khổ của trật tự tự do, dân chủ, quyền con người, an toàn cho các công
12

dân”- (Fritz Stier-Somlo) .
1.1.2. Mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và nhân quyền
Có thể khẳng định, tư tưởng triết học về quyền con người chính là cơ sở cho
tư tưởng pháp quyền hiện đại hình thành. Cụ thể hơn, đó chính là dòng tư tưởng
triết học thời kỳ Khai sáng (Lumière) với những đại diện tiêu biểu như Jean Jacques Rousseau, Voltaire, M ontesquieu hay John Stuart M ills. Vào thời kỳ
này, với sự ảnh hưởng từ triết học chính trị của J.Locke, các nhà triết học Khai
sáng ở Pháp đã dần hình thành những ý niệm về các quyền hiển nhiên (évident)

của con người. "Các triết gia Khai sáng đã muốn thiết lập những quyền nhất
định mà mọi con người sinh ra đều được hưởng. Đó chính là những gì mà họ
gọi là quyền tự nhiên."

13

Với tinh thần đề cao quyền con người, các nhà triết

học thời kỳ này tìm đến pháp luật với tư cách là một công cụ hiệu quả để bảo
đảm các quyền đó. Chính Montesquieu đã nói: "Giá trị chính yếu của pháp luật
là thiết lập quyền cho mọi người được tự do suy nghĩ."

14

Tuy nhiên, nếu đi vào tìm hiểu một cách sâu sắc hơn thì có thể thấy, tư tưởng
về quyền con người xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân trong triết học, được bắt
11

P.Novgorotsev: “Pháp luật và nhà nước”, Tạp chí những vấn đề triết học và tâm lý, tiếng Nga số 74, 1904. Tr.
439 – trích dẫn theo PTS. Nguyễn Văn Niên, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam – M ột số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996, tr.31
12

TS. Đỗ Đức M inh,“Học thuyết pháp trị trung hoa cổ đại giá trị tham khảo trong quản lý xã hội ở Việt Nam
hiện nay”, Hà Nội 2013, Nxb. Chính trị - Hành chính, Tr. 268
13

Jostein Garrder, Thế giới của Sophi - một cuốn tiểu thuyết về lịch sử triết học, Trần M inh Châu (dịch), Nxb Tri
thức, Hà Nội, 2006, trang 401.
14


Charles-Louis de Secondat M ontesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2006, trang 276.


17

nguồn từ thời kỳ cổ đại ở các nước phương Tây, như Alain Laurent đã tổng kết
về chủ nghĩa cá nhân: “thai nghén trong một giai đoạn kéo dài từ Socrate đến
Montaigne, rồi đột nhập bằng một cuộc 'cách mạng kiểu Copernic' trong thế kỷ
XVII và XVIII và đạt tới sự giải phóng tuyệt đối trong thế kỷ XIX” . Chủ nghĩa cá
nhân ở đây chính là đề cao con người cá nhâ n với tư cách độc lập của nó, như
lời bàn của Marx, trong tiểu luận Về vấn đề Do thái (La question juive-1841), cá
nhân ở đây nghĩa là "một cá nhân tách khỏi cộng đồng, bó hẹp vào chính mình,
chỉ quan tâm tới lợi ích riêng mà thôi và vâng theo cái riêng tư võ đoán của
mình."

(15)

Chính John Stuart M ill, trong phần trình bày về cơ sở học thuyết của

mình, đã đứng trên lập trường rằng: "Trong phần cư xử giới hạn liên can đến
bản thân anh ta, sự độc lập của anh ta như một quyền hạn là tuyệt đối. Con
người cá nhân là chúa tể đối với chính bản thân anh ta, đối với thân thể và tâm
16

hồn riêng của anh ta." . Và học giả Alain Laurent đã kết luận "Nhìn lại quá
khứ, rõ ràng là hình tượng cá nhân và quyền tự do xem như giá trị tối cao của
con người đã nảy sinh và mang tín h chất chặt chẽ về lịch sử trong mối tương
liên thâm trầm với nhau"


17

. Như vậy, với dòng chảy sâu xa của tư tưởng triết

học về chủ nghĩa cá nhân - con người cá nhân được coi trọng hơn so với những
dạng tổng thể như: gia đình, nhóm, giai cấp, dân tộc.v.v đã tạo cơ sở cho việc
hình thành tư tưởng triết học về quyền con người và từ đó đặt ra nhu cầu xây
dựng chế độ pháp quyền nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng và điều hòa lợi
ích của các chủ thể trong xã hội. Có thể mô hình hóa logic này để dễ hiểu hơn:

Chủ nghĩa cá nhân

Triết học Khai sáng về

Xây dựng chế độ

quyền con người

pháp quyền

15

Do những tác phẩm của M arx viết trước năm 1942 không được đưa vào Toàn tập nên tác giả tham khảo bản
tiếng Pháp tại: lassiques/M arx_karl/question_juive/question_juive.pdf, trang 23.
Nguyên văn: "un individu séparé de la communauté, replié sur lui-même, uniquement préoccupé de son intérêt
personnel et obéissant a son arbitraire privé."
16
John Stuart M ill, Bàn về tự do, Nguyễn Văn Trọng dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2014 (tái bản lần thứ năm),
trang 37.

17

Alain Laurent, Lịch sử cá nhân luận, (tái bản lần thứ nhất), Phan Ngọc dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2001,
trang 176.


18

Bước sang thời kỳ hiện đại, trên cơ sở kế thừa các dòng tư tưởng về nhân
quyền trước đó và với xu hướng ngày càng đề cao quyền con người, nhà nước
hiện đại coi việc bảo đảm nhân quyền là mục đích tối thượng đồng thời là ý
nghĩa tồn tại của mình. Điều này được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn độc lập của
M ỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, Tạo Hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Rằng để đảm bảo
cho những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được
những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân ”

18

. Tư tưởng

này không chỉ có ở nước Mỹ mà hầu khắp các quốc gia, điều này được thể hiện
trong tuyên ngôn cũng như được thể chế hóa thông qua hiến pháp của các nướ c.
Đi liền với xu hướng đề cao nhân quyền chính là việc nghiên cứu và áp dụng
phổ biến hơn mô hình nhà nước pháp quyền. Pháp quyền sẽ đóng vai trò là một
chế độ pháp lý độc lập với tất cả các bộ phận khác thuộc thượng tầng kiến trúc
như chính trị, đạo đức, tôn giáo.v.v. Một chế độ pháp quyền như vậy tồn tại sẽ
đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa những nguy cơ xâm phạm quyền
cá nhân, dù nguy cơ đó có sinh ra từ đâu, bất kể là cá nhân, đảng phái hay nhà

nước.
Như vậy, có thể đúc kết lại, nhà nước ph áp quyền và nhân quyền có mối
quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau. Lấy nhân quyền làm xuất phát điểm, ý tưởng
về nhà nước pháp quyền và chế độ pháp quyền đã hình thành: " Tự do, bình đẳng
phẩm giá của con người và những hình thức thể hiện khác nhau của bảo đả m
19

nhân quyền là những yếu tố đặc trưng truyền thống của chế độ pháp quyền " .
Hay có thể nói, mục đích của việc xây dựng nhà nước pháp quyền chính là có
được chế độ pháp luật đảm bảo sự công bằng, ngăn ngừa sự lạm quyền của nhà
nước. Trong chế độ đó, nhà nước và pháp luật đóng vai trò điều hòa lợi ích của
tất cả chủ thể trong xã hội, và do đó quyền con người được bảo vệ một cách tốt
nhất.
18

Tác giả sử dụng bản dịch được đăng trên trang mạng của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam. Địa chỉ truy cập:
/>19
Konrad - Adenauer - Siftung, Nhà nước pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, trang 51.


19

1.2. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền
1.2.1. Khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lự c
- Khái niệm và đặc điểm của kiểm soát quyền lực nhà nướ c
Kiểm soát quyền lực nhà nước thực chất là việc nắm bắt được tổ chức và
hoạt động của các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước, được tiến hành bởi các
cơ quan nhà nước hoặc từ phía nhân dân – chủ thể của quyền lực nhà nước
nhằm bảo đảm các chủ thể thực hiện quyền lực một cách đúng đắn, không lạm
quyền hay sử dụng quyền lực nhà nước vào mục đích tư lợi, đi ngược lại bản

chất của nhà nước dân chủ.
Từ đây có thể rút ra một số đặc điểm về kiểm soát quyền l ực nhà nước:
Về bản chất, kiểm soát quyền lực nhà nước chính là hạn chế quyền lực nhà
nước. Theo quan điểm của Aristote: “ Quyền lực hoàn toàn được ví với một dòng
sông lớn. Khi giữ nó trong phạm vi giới hạn của hai bờ, nó có cả vẻ đẹp và sự
hữu ích, nhưng khi nó phá vỡ bờ thì nó sẽ quá hung dữ như bị chặn đứng giữa
dòng, nó sẽ cuốn trôi mọi thứ, tàn phá và hủy hoại bất cứ nơi nào mà nó đi
20

qua” , sự giới hạn quyền lực chính là tạo ra “hai bờ” để đảm bảo cho “dòng
sông quyền lực” được vận hành một cách suôn sẻ, hữu ích. Như vậy, trong nhà
nước pháp quyền, sự mở rộng tới vô hạn của quyền lực nhà nước là bất khả, nhà
nước không phải là chủ thể có thể làm mọi thứ, sự giới hạn quyền lực nhà nước
ở đây chính là pháp luật của chế độ pháp quyền. Hay nói cách khác nh à nước
không thể có những quyết định hay hành vi đi ngược lại với những “ quy tắc ứng
xử phù hợp với đạo đức, phản ánh được giá trị nhân văn chung của loài
21

người” , nhà nước cũng không thể “can thiệp hành chính vào quá trình tự điều
20

Nguyễn Thị Hồi, Luận án tiến sĩ Luật học: “Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy
nhà nước ở một số nước”, Bảo vệ năm 2003.
21

PTS. Nguyễn Văn Niên, “Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam – M ột số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 30
22. PTS. Nguyễn Văn Niên, tlđd: tr.45



20

24
22

chỉnh của xã hội” .
Mục đích của kiểm soát quyền lực chính là làm lành mạnh hóa nhà nước và
biến nhà nước trở về với đúng vị trí “công bộc” của nó trong quan hệ đối với
nhân dân. Nhà nước phục vụ cho lợi ích của nhân dân, trên cơ sở đó, nhà nước
mới đảm bảo quyền con người được bảo vệ và thúc đẩy, không bị xâm phạm bởi
tổ chức hay cá nhân và đặc biệt là chính bản thân nhà nước.
Đối tượng chịu sự kiểm soát quyền lực chính là các cơ quan nhà nước và
cách thức mà các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước. Thực ra, cơ
quan nhà nước là tổ chức được vận hành bởi những con người nắm giữ các chức
vụ trong các cơ quan đó. Cho nên, kiểm soát các cơ quan nhà nước chính là
kiểm soát được hành vi của những người nắm giữ quyền lực nhà nước trong các
cơ quan nhà nước, đảm bảo rằng họ không thực hiện các hoạt động nằm ngoài
thẩm quyền, chức năng của mình, đồng thời việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn
phải thực sự đúng đắn, phù hợp với lợi ích của nhân dân, xã hội.
Nội dung của kiểm soát quyền lực chính là sử dụng các biện pháp như kiểm
tra, thanh tra, giám sát, hay các cơ chế kiềm chế, đối trọng… để nắm bắt được
hành vi của của những chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước.
Như vậy, với những đặc điểm của nhà nước pháp quyền như phần đầu phân
tích và hiểu về kiểm soát quyền lực thì có thể thấy, kiểm soát quyền lực nhà
nước trong nhà nước pháp quyền đóng vai trò rất quan trọng. Đây là yếu tố
không thể thiếu để xây dựng được nhà nước pháp quyền với mục đích sau cùng
là có được một chế độ mà quyền con người được đề cao và bảo vệ. Có thể mô
hình hóa mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền, vấn đề kiểm soát quyền lực
nhà nước và nhân quyền như sau:



21

Kiểm soát
quyền lực

Nhà nước pháp
Điều kiện cơ
bản

quyền

M ục đích

Nhân quyền

- Khái niệm và đặc điểm cơ chế kiểm soát quyền lực ở nhà nước pháp quyền
Về mặt thuật ngữ, cơ chế được hiểu theo nhiều nghĩa, cụ thể: Cơ chế có thể
hiểu là “máy móc, bộ máy, cơ cấu”. Chẳng hạn, cơ chế nhà nước (bộ máy nhà
nước). Theo từ điển tiếng Việt: “ Cơ chế là cách thức, sắp xếp tổ chức để làm
đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện ”. Theo quan điểm của GS.TS triết học
Phạm Ngọc Quang:“Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một chuỗi những khâu liên
kết với nhau theo một logic nhất định, nhờ vậy mục tiêu được thực hiện”

23

.

Như vậy, từ khái niệm cơ chế và khái niệm kiểm soát quyền lực có thể rút ra
khái niệm về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước: là phương thức, quy trình,

quy định và các thiết chế có liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước,
gắn kết chặt chẽ với nhau hợp thành một chỉnh thể, thông qua đó việc kiểm soát
quyền lực nhà nước được thực hiện, nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ,
những việc làm sai trái của nhà nước, cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc
tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước
được tổ chức và thực hiện theo đúng các quy định của Hiến pháp, pháp luật,
đúng mục đích mong muốn và có hiệu quả .
Đặc điểm của cơ chế kiểm soát quyền lực ở nhà nước pháp quyền
Về bản chất, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước được hình thành từ các thể
chế, các thiết chế liên quan đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước, sự tương tác
giữa các yếu tố của cơ chế nhằm đạt được những m ục đích của việc kiểm soát.
Về hình thức, cơ chế kiểm soát quyền lực khá đa dạng: Cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước từ phía nhà nước (các cơ quan nhà nước); cơ chế kiểm soát


22

quyền lực nhà nước của nhân dân (các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ c hức
dân sự và công dân)… Trong nhà nước pháp quyền hiện đại, trước sự biến đổi
phức tạp của xã hội cũng như sự thay đổi trong hoạt động của nhà nước, cơ chế
kiểm soát quyền lực đòi hỏi cần phải đa dạng về các hình thức kiểm soát, theo
đó, sẽ có thêm nhiều h ình thức kiểm soát mang tính bổ trợ cho các hình thức
kiểm soát truyền thống để phát huy mặt tích cực, ưu điểm và bổ trợ nhằm giải
quyết những hạn chế của các hình thức kiểm soát truyền thống.
Về ý nghĩa, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực là cơ sở để kiểm soát quyền
lực được thực hiện một cách hiệu quả. Có thể thấy, để một hoạt động có tính
hiệu quả rõ ràng cần phải dựa trên cơ chế nhất định, do đó, muốn đảm bảo kiểm
soát quyền lực nhà nước được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả thì nó phải
được vận hành theo cơ chế nhất định. Hay nói cách khác, cần phải có hệ thống
pháp luật đầy đủ, chặt chẽ làm cơ sở pháp lý rõ ràng từ xác định các chủ thể có

thẩm quyền kiểm soát quyền lực nhà nước đến đối tượng, nội dung, hình thức,
quy trình, hậu quả pháp lý … của việc kiểm soát.
1.2.2. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp
quyền hiện đại
Về cơ chế kiểm soát quyền lực từ phía nhà nước , cơ chế này cũng

-

có sự phát triển về hình thức ở nhà nước pháp quyền hiện đại:
Thứ nhất, hình thức kiểm soát quyền lực truyền thống – kiểm soát quyền lực
trên cơ sở phân chia quyền lực:
Hình thức kiểm soát quyền lực phổ biến đầu tiên trong thời kỳ hiện đại xuất
phát từ học thuyết phân quyền được John Locke đặt nền móng vào cuối Thế kỷ
với tác phẩm “Về chính quy ền dân sự - Chuyên luận thứ hai về phạm vi chân
chính và mục đích của chính quyền dân sự (Concerning civil government,
second

essay

concerning

the

true

original

extent

and


end

of

civil

government,1690) và sau đó được M ontesquieu phát triển trong tác phẩm k inh
điển “Tinh thần pháp luật” (The spirit of the laws, 1748). Thuyết phân quyền là
một trong
23

Đoàn Thị Ngọc Hải, Quan niệm về kiểm soát và cơ chế kiểm soát quyền lự c nhà nước ở nước ta hiện nay,
http://m oj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1929.


×