Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Hiệu quả điều trị bệnh viêm da tã lót ở trẻ dưới 2 tuổi bằng baby care và fucidin h tại chỗ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.81 KB, 91 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Viêm da tã lót (VDTL) được biết đến là tình trạng nổi ban đỏ ở vùng da
được che phủ bởi tã lót. Đây là bệnh hay gặp ở trẻ nhỏ, tỷ lệ lưu hành được
báo cáo rất khác nhau tùy từng nghiên cứu. Nghiên cứu của Jordan và cộng sự
cho thấy 50% số trẻ từ 1 đến 20 tháng tuổi bị viêm da tã lót . Một nghiên cứu
lớn hơn trên dân số ở Anh cho thấy 25% số trẻ đã từng bị viêm da tã lót
(VDTL) trong 4 tuần đầu của cuộc đời , và một báo cáo khác thấy rằng 52%
số trẻ từ khi sinh đến 24 tháng đã từng có 1 lần bị VDTL . Bệnh hiếm khi gây
tình trạng nặng đe dọa tính mạng, nhưng có thể gây khó chịu cho trẻ và gây lo
lắng cho bố mẹ.
VDTL là kết quả của quá trình tổn thương hàng rào bảo vệ của da và
được đặc trưng bằng sự khô da, bong vảy và đỏ da ,. Khi lớp tế bào sừng bên
ngoài tiếp xúc thường xuyên với môi trường ẩm ướt bên dưới vùng tã lót sẽ
gây tổn thương tại chỗ và gây kích ứng da. pH của vùng da tã lót của trẻ cao
hơn vùng da khác kèm theo tác động của phân và nước tiểu, gây tổn thương
da. Các enzym trong phân gây tăng quá trình hydrat hóa và tăng tính thấm của
da với các phân tử thấp gây kích ứng ,,. Việc phối hợp của nhiều yếu tố gây
phá vỡ hàng rào bảo vệ và tạo cơ hội cho các nhiễm trùng tại chỗ như nấm
Candida, tụ cầu vàng và gây bệnh VDTL ,.
Trên thế giới có một vài nghiên cứu đã cho thấy có nhiều yếu tố nguy cơ
liên quan đến VDTL. Nghiên cứu của Jordan và cộng sự cho thấy rằng tỷ lệ
mắc của VDTL liên quan đến tình trạng dùng sữa công thức, sự có mặt và
mức độ nhiễm Candida trong phân . Một nghiên cứu khác cũng báo cáo là tỷ
lệ VDTL tăng cao hơn ở những đứa trẻ ăn dặm trong 4 tuần đầu của cuộc đời.
Tình trạng tái phát của VDTL có thể liên quan đến tuổi, việc thiếu sử dụng
các loại cream bảo vệ da, tình trạng VDTL hiện tại và tần xuất thay tã. Tình



2

trạng VDTL cũng có liên quan đến nhiễm nấm candida ở răng miệng, số lần
bị VDTL trước đó, tần xuất thay tã và tình trạng tiêu chảy ,. Ở Việt Nam, chưa
có tài liệu nào nói về tỷ lệ bệnh cũng như các yếu tố nguy cơ có liên quan đến
sự hình thành VDTL. Vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Hiệu quả
điều trị bệnh viêm da tã lót ở trẻ dưới 2 tuổi bằng Baby care và Fucidin
H tại chỗ” nhằm hai mục tiêu sau:
1. Khảo sát yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh viêm da
tã lót ở trẻ em dưới 2 tuổi tại bệnh viện Nhi TW từ tháng 9/2015
đến tháng 9/2016.
2. Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh viêm da tã lót ở trẻ dưới 2 tuổi
bằng bôi Baby care và Fucidin H.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương về viêm da tiếp xúc và viêm da tã lót
1.1.1. Bệnh viêm da tiếp xúc
Viêm da tiếp xúc là một tình trạng tổn thương phát ban khu trú trên da
hoặc kích ứng da do tiếp xúc với một chất lạ. Trong viêm da tiếp xúc, chỉ có
vùng da tiếp xúc với dị nguyên mới bị tổn thương, các vùng da khác có thể
bình thường. Tổn thương viêm xảy ra ở các lớp biểu bì (lớp ngoài cùng của
da) và lớp hạ bì (các lớp bên dưới lớp biểu bì). Kết quả của quá trình này là
hình thành các sẩn, dát, xung huyết và ban đỏ ngứa . Bệnh viêm da tiếp xúc
gắn liền với lịch sử ra đời và sự phát triển của ngành miễn dịch học. Từ cổ
xưa, con người đã có một số hiểu biết về miễn dịch học, đã biết ứng dụng
miễn dịch trong việc phòng một số bệnh nhiễm khuẩn, nhưng phải đến cuối

thế kỷ XIX miễn dịch học mới thật sự phát triển thành một ngành học riêng
biệt. Năm 1840, Fuchr lần đầu tiên đã ghi nhận tình trạng phản ứng da của
một cá thể với một tác nhân khác. Sự nhạy cảm tiếp xúc dẫn đến sự thay đổi ở
các tế bào cận vỏ bạch huyết và hình thành các tế bào miễn dịch non, sau đó
chúng được biến đổi thành các tế bào dòng Lympho có thẩm quyền miễn dịch.
Các tế bào này có tác động qua lại với các tế bào Langerhans và với kháng
nguyên ở trên da. Chính vì thế mà tế bào Langerhans và các tế bào đơn nhân
đóng một vai trò quan trọng cả về phần cảm ứng và việc gây ra chứng viêm
da tiếp xúc dị ứng.
Năm 1911, Block cho thấy sự mẫn cảm có thể phản ứng với một số chất
có cấu trúc hóa học tương đồng nhau, hiện tượng đó được coi là nhạy cảm
chéo. Năm 1939 Epstein thấy có một số chất gây nhạy cảm, kích thích, phản
ứng chỉ khi được hoạt hóa bởi ánh sáng, được gọi là tình trạng viêm da tiếp
xúc nhạy cảm ánh sáng (photoallergic contact dermatitis) .


4

1.1.2. Phân loại viêm da tiếp xúc , , , , , , .
Có nhiều cách phân loại viêm da tiếp xúc. Đa số tác giả cho rằng có 2
loại chính:
- Viêm da tiếp xúc do kích ứng (irritant contact dermatitis - ICD).
- Viêm da tiếp xúc do dị ứng (Allergic contact dermatitis - ACD).
Trong đó phần lớn các tình trạng viêm da tiếp xúc là do kích ứng chiếm
75% các trường hợp, viêm da tiếp xúc dị ứng ít gặp hơn.
Ngoài ra còn có một số loại khác ít gặp hơn:
- Viêm da tiếp xúc do ánh sáng: gồm viêm da tiếp xúc do dị ứng ánh
sáng (photoallergic contact dermatitis) và viêm da tiếp xúc do nhiễm độc ánh
sáng (phototoxic contact dermatitis).
- Mày đay tiếp xúc (uricaria contact dermatitis).

1.1.2.1. Viêm da tiếp xúc kích ứng (Irritant contact dermatitis) , .
Viêm da tiếp xúc kích ứng là tình trạng viêm da do một chất gây tổn
thương trực tiếp vào da không thông qua cơ chế miễn dịch. Đây là bệnh lý
chủ yếu của các trường hợp viêm da trong ngành công nghiệp.
Hóa chất kích thích phổ biến liên quan đến viêm da tiếp xúc kích ứng
bao gồm: các dung môi (rượu, xylene, nhựa thông, este, acetone, xeton, và
những người khác); chất lỏng kim loại (các loại dầu, chất lỏng kim loại gốc
nước với bề mặt); latex; dầu hỏa; ethylene oxide; các chất hoạt động bề mặt
trong thuốc bôi và mỹ phẩm (sodium lauryl sulfate); và kiềm (chất tẩy rửa
cống, xà phòng mạnh với dư lượng dung dịch kiềm).
Theo Koh.D, Goh. Cl viêm da tiếp xúc kích ứng được chia thành 2 loại
là cấp tính và mạn tính.
- Loại cấp tính (Acute irritant contact dermatitis)
+ Thường xảy ra sau khi tiếp xúc với một chất kích ứng như: acid đậm
đặc, kiềm, phenol, halogen hoặc hợp chất amon bậc 4.


5

+ Viêm da khởi phát nhanh sau vài phút đến vài giờ sau khi tiếp xúc.
Biểu hiện lâm sàng có thể nhẹ là cảm giác châm chích, rát bỏng, da khô căng
hoặc mày đay thoáng qua hay biểu hiện nặng là ban đỏ, phù nề, đau rát, mụn
nước, bọng nước, mụn mủ, lột da, hoại tử...
+ Vị trí tổn thương: ban đầu thường xảy ra tại vị trí tiếp xúc, giới hạn rõ,
sau đó có thể lan rộng ra do chất kích ứng khuyếh tán ra xung quanh.
+ Tiến triển: Lành nhanh sau vài ngày hoặc vài tuần.
+ Nguyên nhân: Thường do tiếp xúc với các hoá chất xảy ra do tai nạn
lao động hoặc do trang thiết bị bảo hộ kém hiệu quả.
- Loại mãn tính (cummulative irritant contact dermatitis):
+ Là loại thường gặp nhất, còn gọi là viêm da tiếp xúc tích luỹ.

+ Xuất hiện sau vài tuần, vài tháng, có thể vài năm tiếp xúc với chất kích
thích nhẹ như chất tẩy rửa, xà phòng, alkalis, dung môi, dầu công nghiệp, chất
mài mòn...
+ Biểu hiện bằng đỏ da, tróc vảy, nứt nẻ, ngứa, lichen hoá, giới hạn
không rõ với da lành, dễ bị nhiễm khuẩn thứ phát.
+ Đối tượng hay gặp là nữ công nhân giặt, công nhân nhà máy xà phòng
hay các bà nội trợ.
+ Các yếu tố thuận lợi là cọ xát, sang chấn, độ ẩm thấp...Ngoài ra các
nghiên cứu gần đây cho thấy gần 80% viêm da tiếp xúc kích ứng mạn tính có
vai trò của yếu tố cơ địa.
1.1.2.2. Viêm da tiếp xúc dị ứng (Allergic contact dermatitis)
Là tình trạng viêm da xảy ra khi tiếp xúc với dị nguyên có trong môi
trường thông qua cơ chế miễn dịch.
Chất gây dị ứng bao gồm: niken, vàng, Balsam của Peru (Myroxylon
pereirae), crom và các lớp phủ dầu từ nhà máy của chi Toxicodendron: poison
ivy, sồi độc, và chất độc cây thù du, các thành phần trong xi măng như crom.


6

- Bệnh thường xảy ra ở những người trước đó vài tuần, vài tháng hoặc
vài năm đã có tiếp xúc với dị nguyên, lần đầu có thể không biểu hiện triệu
chứng, càng tiếp xúc nhiều lần sau đó mới có biểu hiện lâm sàng.
- Thường xuất hiện muộn sau khi tiếp xúc với di nguyên 48-72 giờ.
- Loại cấp tính: xuất hiện ngứa, đỏ, phù, mụn nước dạng chàm, lan toả
vượt quá vùng tiếp xúc.
- Loại mạn tính: ngứa, đỏ trợt da bong vảy, lichen hoá, giống như viêm
da tiếp xúc kích ứng mạn tính.
- Triệu chứng chủ quan xuyên suốt các giai đoạn của viêm da tiếp xúc dị
ứng là ngứa, bệnh nhân ngứa liên tục, xen kẽ những đợt ngứa là những tổn

thương nhiễm khuẩn thứ phát do gãi, chà xát, bội nhiễm.
1.1.3. Sinh bệnh học viêm da tiếp xúc , , , , .
1.1.3.1. Viêm da tiếp xúc kích ứng
- Là viêm da không liên quan đến cơ chế miễn dịch.
+ Bệnh có thể xuất hiện chỉ sau một lần tiếp xúc với một chất kích
thích mạnh như acid, kiềm hay phenol (kích thích tiên phát) hoặc sau nhiều
lần tiếp xúc với các chất kích thích nhẹ như chất tẩy rửa, các dung môi (kích
thích tích luỹ) gây ra hiện tượng tích luỹ xuyên thấm và không có giai đoạn
mẫn cảm trước đó . Cơ chế này thường gặp trong viêm da tiếp xúc kích ứng
cấp tính.
+ Quá trình tiếp xúc dẫn đến các tế bào sừng hoặc tế bào nội mô bị tổn
thương ở các mức độ khác nhau. Phần lớn các tác nhân sẽ gây tổn thương
màng lipid của các tế bào sừng, một số chất còn có khả năng khuyếch tán qua
màng lipid lysosom, ty thể hoặc các thành phần của nhân. Cùng với màng tế
bào bị tổn thương, men phospholipase được hoạt hoá sẽ tác động làm tăng tiết
arachidonic và tổng hợp eicosanoid, đưa đến khởi động hệ thống dẫn truyền
thứ hai, kích thích tổng hợp gen và tổng hợp nhiều phân tử trên bề mặt tế bào


7

và các cytokin. Hiện tượng gây độc của tế bào da dẫn đến việc tiết ra IL-1,
từ đó hoạt hoá tế bào T trực tiếp hoặc gián tiếp bằng kích thích sản xuất
GMC-SF. Chất Eicosanoid được sản xuất ra cũng có tác động hoạt hoá tế bào
T và có hiệu lực rất lớn đến chất hoá ứng động bạch cầu đa nhân. Hơn nữa
eicosanoid còn có thể gây giãn mạch và tăng tính thấm thành mạch trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua việc hoạt hoá tế bào mast, giải phóng histamin và
yếu tố hoạt hoá tiểu cầu. Việc xâm nhập không đúng vị trí của bạch cầu đa
nhân và các tế bào lympho ở những nơi lắng đọng dị nguyên trên da đưa đến
việc sản sinh ra yếu tố gây viêm, từ đó dẫn đến các biểu hiện viêm da trên lâm

sàng. Điều này hay gặp trong viêm da tiếp xúc kích ứng mạn tính.
1.1.3.2. Viêm da tiếp xúc dị ứng
- Là loại viêm da có cơ chế miễn dịch, phản ứng quá mẫn muộn hay
phản ứng miễn dịch typ 4, đây là phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào,
diễn biến qua hai giai đoạn:
+ Giai đoạn tạo mẫn cảm (tiếp xúc với dị nguyên lần đầu hay mẫn cảm
lần đầu): Bệnh xảy ra với một chất tiếp xúc mà trước đó trên khắp bề mặt da
đã chịu một biến đổi đăc hiệu đối với chất đó. Dị nguyên ban đầu thường là
một hapten có trọng lượng phân tử nhỏ 500-1000 daltons hoà tan trong lipid
và phản ứng rất mạnh. Khi tiếp xúc trên da,các hapten sẽ xâm nhập vào biểu
bì và được tế bào Langerhans bắt giữ. Trong tế bào, hapten tổng hợp với phân
tử HLA-DR tạo thành một dị nguyên hoàn chỉnh và được trình diện tại bề mặt
tế bào Langerhans. Các tế bào langerhans từ trạng thái nghỉ hoặc non được
hoạt hoá, theo đường bạch mạch di chuyển đến các hạch khu vực và tại đó
trình diện phức hợp dị nguyên với tế bào TCD4, đặc hiệu là tế bào T hỗ trợ,
kích thích tăng sinh tế bào T có khả năng phản ứng với các dị nguyên kích
thích. Quá trình mẫn cảm này xảy ra trong 5-21 ngày.


8

+ Giai đoạn viêm đặc hiệu: là đáp ứng quá mẫn muộn.Khi có tái tiếp
xúc với dị nguyên (kháng nguyên đặc hiệu) sẽ kích thích tăng sinh rất nhanh
các tế bào T đã được hoạt hoá trước đó, giải phóng các chất trung gian hoá
học,di chuyển các tế bào T độc gây ra phản ứng chàm trên da vùng tiếp
xúc.Giai đoạn này xảy ra 48-72 giờ sau khi tiếp xúc và chỉ cần một liều nhỏ
dị nguyên đã đủ.
- Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể phân biệt rõ ràng
viêm da tiếp xúc kích ứng với viêm da tiếp xúc dị ứng. Trong nhiều trường
hợp,các chất gây kích ứng cũng có thể là chất gây dị ứng (Ví dụ: xi măng) và

viêm da tiếp xúc kích ứng cũng thường kết hợp với những bệnh da khác như
viêm da cơ địa hay viêm da tiếp xúc dị ứng...
1.1.4. Các tác nhân thường gặp gây viêm da tiếp xúc
- Viêm da tiếp xúc dị ứng: Các tác nhân gây viêm da tiếp xúc dị ứng
nhiều vô kể. Tuy nhiên, không phải tất cả các hoá chất đều là dị nguyên cũng
như không có một dị nguyên nào nhạy cảm với tất cả mọi người. Sự nhậy cảm
phụ thuộc vào tính chất tự nhiên của hoá chất, nồng độ của chúng; sự phơi
nhiễm tự nhiên, gen nhậy cảm và tính đáp ứng của mỗi cá thể.
Các dị nguyên còn có thể từ súc vật (lông vũ, lông thú, da thuộc...) hay
cây cỏ (chất độc của cây thường xuân, cây báo xuân, tỏi,...). Trên thế giới có
khoảng 10.000 loại cây cỏ có thể gây nên viêm da tiếp xúc dị ứng. Các chất
vừa gây dị ứng vừa gây kích ứng như fomaldehyde, keo, nylon, pepton,
terylene, dacron, acrylan, tơ,...đôi khi là dị nguyên.
- Viêm da tiếp xúc kích ứng: các chất gây viêm da tiếp xúc kích ứng
thường là các chất kiềm, axit, chất tẩy rửa, bảo quản, khử mùi...
+ Acid sulfuric, acid nitric, acid chloric, acid oxalic, các chất trong xi
măng là các chất hay gây viêm da tiếp xúc nghề nghiệp.


9

1.2. Viêm da tã lót (Diaper Dermatitis)
1.2.1. Định nghĩa, lịch sử bệnh viêm da tã lót , , , .
Viêm da tã lót (VDTL) là một thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng viêm da
tiếp xúc kích ứng xảy ra ở vùng da tã lót. Thuật ngữ này bao gồm tất cả các
phản ứng da ở vùng bị tã lót che phủ. Tình trạng này gây nên do sự tiếp xúc
trực tiếp với phân và nước tiểu ở vùng tã lót và có nhiều yếu tố liên quan tới
cơ chế bệnh sinh của bệnh. Các thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng này bao gồm
viêm da tã lót, phát ban tã lót, hăm tã, với tên Tiếng Anh là Diaper dermatitis,
Napkin dermatitis, Irritant diaper dermatitis, Napkin rash, Nappy rash...

Bệnh được Jacquet mô tả lần đầu tiên vào năm 1905 . Đến năm 1915,
Zahorsky đưa ra kết luận là tần xuất bệnh viêm da tã lót liên quan đến việc sử
dụng chất tạo mùi “Ammoniacal” có trong bỉm/ tã. Tần xuất mắc bệnh cũng
tăng dần theo sự phát triển của các công nghệ sản xuất bỉm/ tã mới. Việc gia
tăng sử dụng các chất tạo màu, chất thấm hút, dầu thơm trong tã, khăn ướt
cũng liên quan đến việc gia tăng bệnh VDTL.
1.2.2. Dịch tễ học bệnh VDTL
Viêm da tã lót được coi là rối loạn da thường gặp nhất của trẻ sơ sinh tại
Hoa Kỳ, chiếm hơn 1 triệu trường hợp thăm khám mỗi năm . Tần suất và tỷ lệ
lưu hành bệnh viêm da tã lót rất khác nhau giữa các nghiên cứu được báo cáo,
tuy nhiên có thể lên đến 35% trẻ bị ở bất kỳ một thời điểm nào trong cuộc
đời. Nhóm tuổi hay gặp nhất ở những trẻ tuổi từ 8 đến 12 tháng tuổi

hoặc

một số nghiên cứu là từ 9 đến 12 tháng tuổi . Tình trạng mắc VDTL thay đổi
khác nhau tùy theo khu vực. Trong một nghiên cứu của Mỹ, trong số 8,2 triệu
trẻ khám có 1/4 trẻ được chẩn đoán bị VDTL .Tình trạng viêm da tã lót gặp ở
20% số trường hợp đến khám bác sĩ da liễu nhi và gặp ở trong 25% trẻ em
điều trị ngoại trú , . Một nghiên cứu được tiến hành ở Nigeria từ 1995-1996
xác định VDTL gặp ở 7% trẻ em . Một nghiên cứu ở Kuwait cho thấy viêm da


10

tã lót có ở trong 4% trường hợp khám tại khoa da liễu nhi . Một nghiên cứu
khác nữa ở Anh năm 1997 cho thấy tỷ lệ mắc hăm tã ở trẻ sơ sinh trong thời
gian 4 tuần đầu của cuộc sống là 25% . Mặc dù bệnh ít khi gây ra vấn đề dai
dẳng, nhưng nó có thể gây ra sự khó chịu cho trẻ. Bệnh gây ra những căng
thẳng về cảm xúc cho trẻ sơ sinh, điều này được chỉ ra trong một nghiên cứu

về hành vi của trẻ trong và sau khi bị VDTL. Cha mẹ trẻ nói rằng có sự tăng
tần số khóc cùng với sự kích động khi trẻ bị bệnh. Các hành vi thể hiện sự
khó chịu như biểu hiện khuôn mặt: mắt nhắm kín, rãnh mũi má sâu xảy ra
nhiều hơn, thói quen ăn uống và thói quen ngủ bị gián đoạn, và số lần đi tiểu
và đại tiện giảm bớt. Mức cortisol nước bọt - một phân tử biểu hiện của tình
trạng stress cũng tăng lên ở một số trẻ trong giai đoạn bị VDTL .
1.2.3. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh và các yếu tố liên quan đến VDTL
Viêm da tã lót chính là bệnh viêm da tiếp xúc kích ứng, không liên quan
đến phản ứng viêm hay miễn dịch . Tình trạng VDTL biểu hiện ở vùng da tiếp
xúc trực tiếp với bỉm/ tã như mông, bộ phận sinh dục, vùng bụng dưới rốn,
đùi phía trên đầu gối, nhưng không bị ở các khu vực nếp gấp. Có nhiều yếu tố
liên quan đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh. Sự suy
giảm chức năng hàng rào bảo vệ của da là một yếu tố góp phần làm cho bệnh
nặng hơn . Hầu hết các yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển của bệnh
là:(1) nước / độ ẩm vùng tã lót, (2) ma sát tại chỗ, (3) nước tiểu, (4) phân, và
(5) đôi khi là vi sinh vật [4].
1.2.3.1. Đặc tính sinh lý da trẻ nhỏ và vùng tã lót , , .
Ở trẻ em tính năng sinh lý da và hàng rào bảo vệ tiếp tục hoàn thiện
trong những năm của cuộc đời . Có sự khác biệt về mô học, sinh hóa, và chức
năng cũng như hệ vi khuẩn trên da của trẻ em so với người lớn . Về mô học,
lớp thượng bì ở trẻ sơ sinh có các tế bào sừng keratinocytes nhỏ hơn ở người
lớn, cấu trúc mô đệm dày đặc hơn, lớp sừng và lớp biểu bì mỏng hơn, tăng


11

sinh tế bào lớn, và các bó collagen ở lớp hạ bì được sắp xếp khác hơn. Khả
năng xử lý nước của trẻ sơ sinh cũng khác biệt so với người lớn. Da trẻ sơ
sinh ban đầu khô hơn nhưng sau đó trở nên ưa nước nhiều hơn ở trẻ lớn tuổi
và người lớn. Sự tập trung của các sản phẩm gây phân giải fillagrin, một yếu

tố dưỡng ẩm tự nhiên ở da trẻ sơ sinh là thấp hơn so với các nhóm tuổi khác.
Sự mất nước qua da ở một số vùng cơ thể của trẻ sơ sinh cao hơn trẻ lớn tuổi.
Sự khác biệt về khả năng điều hòa nước và độ pH da kiềm hơn cũng liên quan
đến chức năng của hàng rào bảo vệ da. Thành phần của các vi khuẩn chí ở da
trẻ sơ sinh chủ yếu là vi khuẩn Firmicutes, trong khi da người lớn chủ yếu bởi
Actinobacteria . Một số thông số sinh lý của vùng da tã lót trẻ sơ sinh khác
biệt so với các vùng khác ví dụ như tình trạng hydrat hóa làn da là cao hơn,
độ pH của da, khả năng điều hòa nước khác với các vùng da khác. Hơn nữa,
khu vực bị VDTL có nguy cơ mất nước qua da cao hơn, sự hydrat hóa lớn
hơn, và độ pH cao hơn vùng da tã lót khỏe mạnh . Các vi khuẩn thuộc vi hệ
trên vùng bề mặt da ở vùng mông của trẻ thì rõ ràng khác với vi hệ trên vùng
da khác. Trong đó, vi khuẩn được tìm thấy trong ruột cũng thường có mặt
trong các vùng da tã lót, điều này được giải thích là do da thường xuyên tiếp
xúc với phân.
1.2.3.2. Nguyên nhân và các yếu tố liên quan , , .
- Nước và độ ẩm , :
Đây là yếu tố quan trọng nhất trong cơ chế bệnh sinh của bệnh. Vì tình
trạng này làm cho các tế bào sừng của da liên tục ngâm trong nước, gây phá
hủy các tế bào sừng, làm mất hàng rào bảo vệ, khiến cho các chất khác có thể
thâm nhập qua da. Độ ẩm vùng tã lót cao làm cho da trở nên mong manh hơn,
tăng tính nhạy cảm của nó khi bị ma sát, và khi tổn thương các chức năng bảo
vệ của da sẽ dẫn đến tăng thâm nhập các hóa chất gây kích thích và lan rộng
mầm bệnh. Người ta tin rằng sự ma sát của da tăng lên khi hàng rào thượng bì


12

bị suy yếu do chà sát.
- Phân và nước tiểu :
Do tác động của các enzym trong phân (urease, protease và lipase) cũng

làm mất sự nguyên vẹn của biểu bì. Những enzyme làm thay đổi thành phần
của nước tiểu có mặt trong vùng da tã lót và thông qua tác động gián tiếp này,
cùng với tác động trực tiếp của các enzym trong phân , cuối cùng làm suy yếu
da vùng tã lót. Nước tiểu cũng có thể làm tăng tính thấm của vùng tã lót với
chất kích thích và có thể trực tiếp gây kích ứng da khi tiếp xúc kéo dài. Dưới
tác động của nước tiểu gây ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa ure thành
amoniac làm tăng pH da. Tăng tình trạng ẩm ướt và pH của da đều liên quan
đến tăng mức độ của bệnh VDTL , , , , .
- Vi sinh vật , , :
Người ta thấy sự gia tăng của vi sinh vật thuộc vi hệ cũng sẽ làm tăng
mức độ nghiêm trọng của bệnh. Một số chủng Candida albicans đã được phân
lập thấy ở 80% số trường hợp bị viêm da tã lót ở quanh hậu môn. Sử dụng
kháng sinh toàn thân kéo dài có thể dẫn đến sự phát triển quá mức của
Candida cũng là một yếu tố liên quan đến sự gia tăng bệnh VDTL. Một số
loại vi khuẩn khác cũng được tìm thấy trên bệnh nhân VDTL như tụ cầu vàng
Staphylococcus aureus hay liên cầu nhóm A, Escherichia Coli, Shigella, một
số loại nấm khác, ghẻ...
- Tình trạng dinh dưỡng: Viêm da tã lót có thể là biểu hiện đầu tiên của
tình trạng thiếu hụt các chất như biotin, kẽm. Đây có thể là biểu hiện đầu của
bệnh viêm da thiếu kẽm (Acrodermatitis Enteropathica).
- Hóa chất gây kích ứng: Xà phòng và các chất tẩy rửa, các chất sát
khuẩn mạnh có thể làm nặng hơn tình trạng VDTL. Vì thế việc sử dụng các
chất làm sạch dịu nhẹ, an toàn, không có xà phòng và hương liệu là rất quan
trọng trong việc giảm bệnh và phòng chống tái phát bệnh .
- Các bất thường của đường tiết niệu: Sự bất thường này gây giảm sự


13

chu chuyển nước tiểu và tăng nguy cơ nhiễm khuẩn.

- Một số các yếu tố khác cũng góp phần làm nặng hơn tình trạng VDTL:
• Thức ăn đặc: Vai trò của thức ăn đặc trong bệnh VDTL trong các y
văn trước thì còn đang tranh cãi, thức ăn đặc có thể ảnh hưởng đến pH của
đường tiêu hóa gây hoạt hóa các enzyme , .
• Nuôi con bằng sữa mẹ làm giảm tỷ lệ VDTL: Các báo cáo đã xác
định vai trò của việc nuôi con bằng sữa mẹ trong công tác phòng chống bệnh
VDTL. Người ta thấy có thể có mối liên quan giữa việc giảm tình trạng kích
thích trong phân ở những trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn , .
• Tỷ lệ VDTL giảm khi thay tã thường xuyên , : Tỷ lệ VDTL giảm ở
những trẻ thay tã ≥ 6 lần/ ngày so với < 6 lần/ ngày , .
• Sử dụng Bỉm/ tã: Tỷ lệ VDTL giảm xuống khi cải thiện độ ẩm ướt và
pH của da ở vùng tã lót. Việc cải tiến các loại bỉm mới khô thoáng hơn giúp
giảm độ nặng của VDTL .
• Vai trò của các sản phẩm làm sạch ,: cho thấy có hiệu quả trong việc
loại bỏ các chất bám trên da, làm cho pH trở về bình thường.
1.2.3.2. Cơ chế bệnh sinh của viêm da tã lót , , ,
VDTL xảy ra khi tiếp xúc kéo dài với các yếu tố đặc trưng của khu vực
tã lót, bao gồm cả tình trạng ẩm ướt quá mức, ma sát, độ pH cao, và hoạt động
enzym cao, các chức năng hàng rào biểu bì bị suy yếu. Các chức năng bảo vệ
của da nằm ở lớp biểu bì, đó là khu vực biệt hóa của các tế bào sừng và hàng
rào lipid. Cấu trúc protein đặc biệt như cấu trúc desmosomes giúp liên kết các
tế bào với nhau, bên trong có các sợi fillagrin có tác dụng giữ nước trên da .
Các thành phần kỵ nước của lớp lipid cung cấp khả năng thấm và bảo vệ,
chống lại sự mất nước quá mức và sự xâm nhập của các vi khuẩn gây viêm.
Trong khi đó các tế bào sừng tạo sự bền vững cơ học cho da. Các phân tử giữ
ẩm được tìm thấy bên trong các tế bào sừng có khả năng hấp thụ nước. Và


14


nguyên nhân chính của VDTL là sự hydrat hóa quá mức của các tế bào sừng.
Tình trạng ẩm ướt da và mức độ nặng của VDTL có sự tương quan lẫn nhau.
Các tế bào sừng bị ngâm trong nước gây tăng tính nhạy cảm ma sát giữa da và
vải tã, đồng thời có thể gây tổn hại lớp sừng và suy giảm các chức năng hàng
rào biểu bì. Hơn nữa, men ureases trong phân xúc tác sự phân hủy ure thành
amoniac, làm tăng độ pH ở bề mặt da. Tăng pH này góp phần làm tăng hoạt
động của các enzyme trong phân như protease, ureases, và lipase, gây kích
ứng da và hình thành các ban đỏ da. Các men này cũng làm tăng tính thấm đối
với muối mật và các chất kích thích khác, ngược lại, muối mật làm tăng kích
thích các enzyme trong phân và làm nặng thêm tình trạng bệnh. Đây là một
vòng xoắn bệnh lý.

Hình 1.1. Tóm tắt các yếu tố liên quan đến cơ chế bệnh lý của VDTL
1.2.4. Biểu hiện lâm sàng bệnh viêm da tã lót


15

1.2.4.1. Viêm da tã lót điển hình , , .
Biểu hiện lâm sàng của viêm da tã lót là tình trạng viêm da tiếp xúc kích
ứng bắt đầu với ban đỏ cấp tính trên bề mặt da ở khu vực tiếp xúc với tã như
mông, đùi, vùng bụng dưới, nhưng ít gây tổn thương ở những nếp gấp da. Sự
phát triển của khô da, bong vảy cũng là một trong những dấu hiệu đầu tiên
của viêm da.
VDTL có biểu hiện rất đa dạng. Trường hợp điển hình nó thường biểu
hiện với ban đỏ kèm theo bong vảy da nhẹ ở các vùng tã che phủ như mông,
đùi, và bụng dưới. Nó cũng có thể biểu hiện như mảng sáng bóng hoặc loét.
Có sự khác biệt giữa vùng bị chà sát và vùng nếp gấp không bị chà sát ở da.
Vùng da bị chà sát thường bị ảnh hưởng nhiều hơn trong VDTL. Một trẻ sơ
sinh bị VDTL có thể không có triệu chứng nào khác ngoại trừ các ban đỏ. Khi

tổn thương nặng có ảnh hưởng đến vùng nếp gấp, háng và da quanh hậu môn
kèm theo các sẩn và mụn mủ. Khi có tổn thương vệ tinh là biểu hiện của
nhiễm nấm men; tổn thương của miệng (tưa miệng), cổ và / hoặc nách cũng
thường gặp. Rất khó để chẩn đoán phân biệt giữa viêm da tiếp xúc dị ứng và
viêm da tiếp xúc kích ứng vì cũng có biểu hiện ban đầu là ban đỏ sau đó tiến
triển thành sẩn, mảng đỏ , , , .
Viêm da tã lót có thể gây ra một phản ứng chàm ở bên ngoài khu vực tã.
Tùy theo các căn nguyên liên quan hoặc các nhiễm khuẩn thứ phát có thể có
các biểu hiện của các bệnh lý đi kèm. Nhiễm Tụ cầu vàng (S.aureus) biểu hiện
như chốc với bọng nước lớn, trong khi liên cầu Streptococcus nhóm A biểu
hiện là ban đỏ vùng quanh hậu môn. Ở trẻ lớn hơn, các vi khuẩn đường ruột có
thể gây khó tiểu, ngứa âm đạo, viêm âm đạo. Virus Coxsackie gây sẩn, ban đỏ
trên mông, lòng bàn tay và lòng bàn chân và loét trong họng sau. Mụn nước
gây đau dát ở âm hộ và khu vực quanh hậu môn đặc trưng của nhiễm herpes.
Ngứa là một triệu chứng điển hình của nhiễm nấm và ghẻ. Với những tổn


16

thương da kháng trị ở vùng tã lót, đặc biệt là nếu đi kèm theo các triệu chứng
toàn thân nên cảnh báo các bác sĩ lâm sàng để xem xét khả năng của một bệnh
hệ thống. Dấu hiệu và triệu chứng đáng lo ngại bao gồm việc trẻ chậm phát
triển, tổn thương da rộng (đặc biệt là quanh miệng), rối loạn tiêu hóa, và các
thiếu sót thần kinh. Các biểu hiện có liên quan với viêm da đầu chi ruột được
đặc trưng bởi trợt đỏ, loét ở đầu chi, quanh miệng và khu vực hậu môn. Biểu
hiện ngoài da tương tự có thể xảy ra trong rối loạn chuyển hóa và thiếu hụt
dinh dưỡng như bệnh Kwashiorkor gây thiếu các axit béo thiết yếu hoặc thiếu
biotin. Nhiễm khuẩn tái phát có thể biểu hiện của suy giảm miễn dịch.

Hình 1.2. Biểu hiện lâm sàng của viêm da tã lót ở trẻ em

1.2.4.2. Các biến thể của viêm da tã lót.
*) U hạt gluteale ở trẻ em (Granuloma gluteale infantum) , .
U hạt gluteale ở trẻ em là một rối loạn hiếm gặp, có thể được phân loại
như là một biến thể của VDTL. U hạt gluteale ở trẻ em biểu hiện với u hoặc
nodule, kích thước có thể lớn, loét với bờ gờ cao, màu tím, gần như màu
sarcom Kaposi. Những nodules thường có kích thước lớn, 0.5 - 4cm đường
kính và xuất hiện trên mông, ở bẹn, vùng bụng dưới, dương vật, và thậm chí


17

trong nách và cổ. Trên lâm sàng, u hạt gluteale infantum có thể trông giống
như một lymphomatous hoặc sarcomatous (ví dụ như sarcoma Kaposi) hoặc
myofibromatosis ở trẻ em, nhưng nó hoàn toàn lành tính. U hạt glutale cũng
có thể xảy ra ở người lớn bị VDTL.
Mô bệnh học của bệnh cho thấy viêm da không đặc hiệu với thâm
nhiễm nhiều tế bào gồm bạch cầu trung tính, tế bào lympho, mô bào, các tế
bào plasma, thỉnh thoảng tế bào khổng lồ và bạch cầu ái toan, đôi khi với sự
gia tăng số lượng của các mao mạch. Dưới kính hiển vi điện tử cho thấy ba
loại tế bào khổng lồ: loại đầu tiên, các tế bào lớn với mạng lưới nội chất rộng
rãi; loại thứ hai, tế bào đại thực bào ăn hồng cầu; và loại thứ ba, chúng có hốc
và các hạt tương tự như mô bào , , .

Hình 1.3: Biểu hiện của U hạt gluteale ở trẻ em
*)Viêm da tã lót trợt loét của Jacquet (Jacquet erozive dermatitis) , .
Đây là một thuật ngữ dùng để mô tả một tổn thương nặng của VDTL với
biểu hiện là một vết loét hình rốn hoặc hình miệng núi lửa trong khu vực tã
lót. Nó có thể liên quan chặt chẽ với u hạt glutale và là một biến thể của
VDTL. Ở nam nó có thể xảy ra trên dương vật và qui đầu, miệng sáo và có
thể ảnh hưởng đến tiểu tiện. Một trường hợp VDTL loét của Jacquet xảy ra

như một hậu quả nghiêm trọng của tiêu chảy sau cắt trực tràng rộng và khâu
nối ở bệnh nhân mắc chứng phình đại tràng bẩm sinh đã được báo cáo.


18

Hình 1.4: Viêm da trợt loét của Jacquet
*) VDTL mạn tính
Viêm da tã lót mãn tính thường gặp ở trẻ nhỏ với tiêu chảy mãn tính.
Tình trạng này có thể là tiên phát hoặc tái phát, và vì tình trạng da liên tục như
vậy nên rất dễ xảy da tình trạng kháng điều trị. Viêm da tã lót mãn tính có thể
được gặp ở những bệnh nhân đã phẫu thuật mà chức năng ruột bị ảnh hưởng
hoặc tình trạng bệnh phình đại tràng bẩm sinh. Nó cũng có thể được kết hợp
với nhiễm nấm Candida niêm mạc. Những bệnh nhân này cần điều trị và
chăm sóc tích cực hơn.
1.2.4.3. Đánh giá mức độ bệnh
Trong nghiên cứu của Brown cùng cộng sự năm 2006 và Stamatas cùng cộng
sự năm 2014 và nhiều nghiên cứu đã sử dụng và đưa ra thang điểm chi tiết để đánh
giá mức độ nặng của bệnh trên lâm sàng và giúp theo dõi điều trị , .


19

Bảng 1.1. Đánh giá mức độ nặng của VDTL theo thang điểm
Điểm Mức độ
0

Không

0,5


Rất nhẹ

1

Nhẹ

1,5

Nhẹ/ Trung
bình

2

Trung bình

2.5

Trung bình
nặng

3

Nặng

Biểu hiện
- Có thể khô da rất nhẹ
- Không có ban đỏ hay sẩn, mụn
- Ban đỏ ranh giới không rõ dưới 2% diện tích
- Hoặc có 1 sẩn đơn độc hoặc khô da nhẹ.

- Ban đỏ ranh giới rõ < 2%,
- Sẩn nhỏ rải rác kèm theo khô da hoặc bong vảy
da nhẹ
- Ban đỏ ranh giới rõ 2-10%
- Hoặc đỏ da nặng
- Sẩn đỏ, bong vảy da nhiều, khô da mức độ vừa
- Ban đỏ lan rộng ranh giới rõ 10 -50%
- Sẩn đỏ 10- 50%, hoặc một ít mụn mủ, bong vảy
hoặc phù nề
- Ban đỏ ranh giới rõ >50%,
- Có nhiều sẩn, mụn mủ, bong vảy da nhiều
- Tổn thương rất đỏ
- Tổn thương lan tỏa, phù nề, tiết dịch, loét

Hình 1.5. Mức độ bệnh của VDTL theo hình ảnh
A- Mức độ rất nhẹ
B- Mức độ nhẹ
C- Mức độ trung bình
D- Trung bình - nặng
E- Rất nặng
1.2.5. Chẩn đoán xác định
- Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào tiền sử bệnh và biểu hiện lâm sàng


20

điển hình.
- Chỉ sinh thiết khi cần chẩn đoán phân biệt với các ban đỏ vùng tã lót khác.
- Xét nghiệm soi tươi tìm nấm trong môi trường KOH.
- Khi có bọng nước lớn kèm theo mủ vàng cần làm xét nghiệm tìm vi

khuẩn bội nhiễm.
1.2.6. Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt bệnh với các trường hợp khác cũng có biểu
hiện ban đỏ ở vùng tã lót như viêm da cơ địa, vảy nến, viêm da thiếu kẽm,
viêm da dầu..., , , , .
1.2.6.1. Bệnh viêm da đầu chi ruột (Acrodermatitis Enteropathica)
- Là tình trạng viêm da do thiếu kẽm.
- Biểu hiện lâm sàng: Dát đỏ ranh giới rõ với da lành, có vảy da. Vị trí
thường gặp là quanh các hốc tự nhiên, đầu các cực, chi. Một số trường hợp có
thể có mụn nước, bọng nước, mụn mủ, thương tổn dạng vảy nến.
- Biểu hiện khác kèm theo: Tiêu chảy kéo dài, Rụng tóc, bất thường về răng .
- Xét nghiệm thấy giảm nồng độ kẽm huyết thanh.
1.2.6.2. Viêm da dầu
- Bệnh hay gặp ở trẻ 2 đến 3 tháng tuổi.
- Biểu hiện thường là ban đỏ vùng da tiết bã: đầu, mặt kèm theo vảy tiết
màu vàng, dính.
- Trẻ có thể có biểu hiện viêm da cơ địa kèm theo: tổn thương dạng chàm
hai má, da khô, đỏ, ngứa.

1.2.6.3. Vảy nến thể đảo ngược
- Thường khởi phát ở tuổi muộn hơn.


21

- Biểu hiện: dát đỏ, ranh giới rõ với da lành, bong vảy da dày.
- Vị trí thường gặp: các vùng nếp gấp như nách, bẹn, sinh dục.
- Tiền sử gia đình có người bị vảy nến.
- Chẩn đoán xác định: dựa vào hình ảnh trên mô bệnh học.
1.2.6.4. Viêm da cơ địa

- Khởi phát lúc trẻ từ 1-3 tháng tuổi
- Biểu hiện: dát đỏ, mụn nước trên nền dát đỏ tập trung thành đám, tiết
dịch nhiều.
- Vị trí thường gặp: Hai bên má, cằm, vùng nếp gấp...
- Da khô, ngứa nhiều
- Tiền sử: Bố, mẹ bị các bệnh lý atopy như hen, viêm mũi dị ứng...
1.2.6.5. Ghẻ chàm hóa
- Biểu hiện lâm sàng: Sẩn, mụn nước vùng sinh dục, có thể ở thân mình,
lòng bàn tay, bàn chân. Thương tổn thường đứng riêng rẽ, ngứa nhiều
- Tiền sử: trong gia đình có nhiều người có biểu hiện ngứa.
- Soi tươi: thấy ký sinh trùng ghẻ tại tổn thương.
1.2.6.6. Bệnh da do thiếu biotin
- Là bệnh liên quan tới rối loạn chuyển hóa
- Thường biểu hiện sớm ngay sau sinh
- Biểu hiện: ban đỏ, khô da có thể lan tỏa toàn thân, kèm theo rụng tóc,
rối loạn móng. Trường hợp nặng có thể gây đỏ da toàn thân.
- Xét nghiệm: thiếu hụt biotin hoặc men chuyển hóa biotin.
1.2.7. Điều trị và quản lý bệnh viêm da tã lót , , , , .
Điều trị tình trạng của viêm da tã lót chủ yếu là chăm sóc điều trị tại chỗ,


22

tùy thuộc vào mức độ tổn thương trên lâm sàng, có thể dựa theo mức độ từ
nhẹ đến nặng như sau , ,, :
Lựa chọn ban đầu (First line)
- Tăng tần xuất thay tã
- Sử dụng các loại tã siêu thấm
- Dùng nước và kem bảo vệ da như kẽm oxide
- Thêm dầu tắm khi tắm

- Tắm hàng ngày hoặc 2 lần/ ngày
Lựa chọn thứ 2 (second line)
- Dùng kem hydrocortison 1%
- Dùng thuốc chống nấm tại chỗ
- Dùng mỡ mupirocin tại chỗ
Lựa chọn thứ 3 (third line)
- Phối hợp giữa corticosteroids và thuốc chống nấm
- Sử dụng thuốc kháng khuẩn
1.2.7.1. Các biện pháp không dùng thuốc
*) Tăng số thời gian không dùng tã
Để làm giảm mức độ viêm da tã lót cần cung cấp một môi trường gần
gũi với tính chất của da khi không có tã. Vì thế, thời gian dùng tã / bỉm càng ít
thì càng ít nguy cơ bị VDTL.
*) Dùng loại tã thích hợp
Sử dụng tã một lần có chứa chất siêu thấm làm giảm tình trạng bị VDTL.
*) Các biện pháp khác giúp giảm viêm da tã lót
Một loạt các biện pháp có thể làm giảm tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm
trọng của VDTL. Bao gồm: (i) tắm cho em bé một lần hoặc thậm chí hai lần
một ngày; (ii) bổ sung thêm dầu tắm làm ẩm để tắm của bé; (iii) dùng thuốc
mỡ bảo vệ hoặc cream, như những chất có chứa kẽm oxit hoặc petrolatum


23

đơn thuần bôi tại khu vực tã sau khi tắm; và(iv) thay tã thường xuyên ở trẻ sơ
sinh là 2h/ lần, trẻ lớn hơn từ 3-4 h/ lần.
1.2.7.2. Biện pháp điều trị bằng thuốc
*) Corticoid tại chỗ , ,
Điều trị bằng thuốc giảm viêm corticoid tại chỗ có hiệu quả trong việc
cải thiện tình trạng viêm da tã lót mức độ trung bình đến nặng. Các thuốc

thích hợp nhất là hydrocortisone 1% đơn thuần hoặc kết hợp với một chất
kháng nấm, kháng sinh khi có bội nhiễm. Clotrimazole phối hợp với
hydrocortisone 1% là lựa chọn hữu ích trong một nghiên cứu điều trị VDTL.
Khi sử dụng một sản phẩm kết hợp của miconazole và hydrocortisone được so
sánh với một sản phẩm kết hợp của nystatin / benzalkonium chloride /
dimethicone / hydrocortisone, cả hai đã được cho thấy sự cải thiện trong điều
trị VDTL ,. Sử dụng thuốc có chứa corticoid hiệu lực cao là betamethasone
dipropionat với clotrimazole, nên được tránh hoàn toàn trong điều trị VDTL
vì gây nhiều tác dụng phụ như rạn da, teo da và loét [53,54].
*) Điều trị nhiễm trùng
Bội nhiễm là vấn đề thường gặp trong VDTL, vì vậy điều trị các nhiễm
trùng kèm theo cũng có tác dụng cải thiện bệnh. Mỡ Miconazole nitrate
0,25% là một lựa chọn điều trị an toàn và hiệu quả cho bệnh viêm da tã lót ở
trẻ sơ sinh . Miconazole nitrate làm giảm sự tương tác giữa tã vải và da cũng
như có tác dụng điều trị nấm. Tioconazole cũng là một chất chống nấm có
hiệu quả trong điều trị viêm da tã lót.
Không nên dùng thuốc chống nấm toàn thân trong điều trị viêm da tã lót
vì các nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt thống kê trong các kết quả


24

giữa việc có hoặc không có nystatin uống 100 000 U / mL 4 lần một ngày và
những bệnh nhân bôi nystatin tại chỗ để điều trị VDTL mà có nhiễm candida .
Các tác giả khuyến cáo rằng viêm da tã lót cần được điều trị bằng nystatin bôi
tại chỗ chứ không cần bất kỳ loại thuốc đường uống nào kèm theo các biện
pháp hỗ trợ tại chỗ.
*) Các thuốc hỗ trợ khác
Một số thuốc corticosteroid khác và thuốc kháng sinh đã được báo cáo
hữu ích trong điều trị viêm da tã lót. Uống kẽm cũng cho thấy là hữu ích trong

một nghiên cứu. Sucralfate tại chỗ đã được báo cáo hiệu quả cho viêm da tã
lót kích ứng có loét ở một bệnh nhân tiêu chảy mãn tính. Bột Talc có thể làm
giảm ma sát và ức chế sự phát triển của nấm men trên da người và có thể cung
cấp bảo vệ chống lại tổn thương do ma sát trong VDTL. Các thành phần khác
trong cream được sử dụng là dầu gan cá tuyết, kem lô hội, dimethicone, và
dexpanthenol , .


25

Bảng 1.2. Thực hành quản lý viêm da tã lót theo ABCDE
Tình trạng da

Quản lý
Thuốc chống nấm tại chỗ nếu nghi ngờ nhiễm
Candida

Kháng khuẩn/ kháng

Thuốc kháng sinh toàn thân hoặc tại chỗ nếu nghi

viêm (Antimicrobial/

có nhiễm khuẩn.

anti-inflammatory)

Khi phản ứng viêm mạnh có thể dùng corticoid
nhẹ, tại chỗ. Nên tránh dùng corticoid mạnh ở


Bảo vệ da
(Barrier preparation)

vùng da tã lót
Sử dụng mỡ, hoặc cream không có hương thơm,
không gây kích ứng ở vùng da tã lót sau mỗi lần
tắm hoặc rửa
Dùng các chất làm sạch không có xà phòng hàng

Làm sạch

ngày. Làm sạch nhẹ nhàng tránh ma xát

(Cleansing)

Sử dụng khăn lau dịu nhẹ, không cồn, hương liệu
phù hợp với da trẻ
Tăng tối đa thời gian không dùng tã

Sử dụng tã lót

Sử dụng tã siêu thấm, thoáng có polyacrylate gel

(Diaper)

Nên thay tã thường xuyên 3 đến 4h / lần, hoặc
ngay khi trẻ đi ngoài hoặc tã nặng
Biện pháp tốt nhất để quản lý viêm da tã lót là

Tư vấn, giáo dục

(Education)

phòng bệnh.
Loại bỏ các yếu tố nguy cơ, ẩm ướt, ma sát, phân/
nước tiểu, vi khuẩn
Nhấn mạnh việc phòng để tránh tái phát

1.3. Tổng quan về Fucidin H và Baby care trong điều trị viêm da tã lót.
1.3.1. Fucidin H


×