Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Thực trạng pháp luật về hợp đồng tín dụng tại ngân hàng thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN BỈNH HIẾU

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Hằng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Bỉnh Hiếu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết đầy đủ

STT

Từ viết tắt

1

HĐTD

:

Hợp đồng tín dụng

2

NHTM

:

Ngân hàng thương mại

3

NHNN


:

Ngân hàng Nhà nước

4

TMCP

:

Thương mại cổ phần


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ..............................................................................................

1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................

2

3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu ..................


3

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................

3

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .....................................................

3

6. Bố cục của luận văn ...................................................................................

4

PHẦN NỘI DUNG ..........................................................................................

5

Chương 1. Những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín
dụng tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam ..................................................

5

1.1. Khái quát về hợp đồng tín dụng ..................................................................

5

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng tín dụng .........................................

5


1.1.2. Phân loại hợp đồng tín dụng ..............................................................

9

1.2. Pháp luật về hợp đồng tín dụng ..................................................................

13

1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh của pháp luật đối với hợp đồng tín dụng.

13

1.2.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng tín dụng ..........................................

16

Kết luận chương 1 ..........................................................................................

19

Chương 2. Nội dung pháp luật về Hợp đồng tín dụng và những vấn đề
thực tiễn đặt ra ................................................................................................

20

2.1. Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng ...........................................................

20


2.1.1. Đối với bên cho vay ............................................................................

20

2.1.2. Đối với bên vay ..................................................................................

22


2.2. Hình thức của hợp đồng tín dụng ...............................................................

25

2.3. Nội dung của hợp đồng tín dụng ................................................................

26

2.3.1. Thông tin các bên tham gia hợp đồng tín dụng ....................................

26

2.3.2. Điều khoản về số tiền vay; hạn mức cho vay ......................................

26

2.3.3. Mục đích sử dụng vốn vay; Đồng tiền cho vay, đồng tiền trả nợ .........

28

2.3.4. Phương thức cho vay và thời hạn cho vay............................................


29

2.3.5. Lãi suất và các loại phí liên quan đến khoản vay .................................

33

2.3.6. Giải ngân vốn cho vay và việc sử dụng phương tiện thanh toán để
giải ngân vốn cho vay ...................................................................................

39

2.3.7. Việc trả nợ gốc, lãi tiền vay; Cơ cấu thời hạn trả nợ và chuyển nợ
quá hạn .........................................................................................................

42

2.3.8. Trách nhiệm của khách hàng trong việc phối hợp với ngân hàng
thương mại và cung cấp tài liệu liên quan đến khoản vay .............................

45

2.3.9. Chấm dứt cho vay, xử lý nợ vay, phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại ................................................................................................................

46

2.3.10. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng ..................

49


2.4. Hiệu lực của hợp đồng tín dụng ..................................................................

51

2.4.1.Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tín dụng ......................................

52

2.4.2. Các vấn đề liên quan đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng ...................

52

2.4.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu .....................................

54

2.5. Giao kết hợp đồng tín dụng ........................................................................

54

2.5.1. Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng ....................................................

54

2.5.2. Thẩm định tín dụng và quyết định cho vay ..........................................

55

2.5.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng tín dụng ...............................................


57

2.6. Thực hiện hợp đồng tín dụng và trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp
đồng tín dụng ....................................................................................................

57

2.6.1. Thực hiện hợp đồng tín dụng ..............................................................

58


2.6.2. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng ...........................

59

2.7. Luật áp dụng và phương thức giải quyết tranh chấp ....................................

60

2.7.1. Luật áp dụng .......................................................................................

60

2.7.2. Phương thức giải quyết tranh chấp ......................................................

61

2.8. Hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản và không có bảo đảm bằng

tài sản ................................................................................................................

62

2.8.1. Hơp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản ........................................

62

2.8.2. Hợp đồng tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản .............................

64

Kết luận chương 2 .............................................................................................

65

Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về Hợp đồng tín dụng tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam ................

66

3.1. Những định hướng trong việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng...

66

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng để đáp ứng sự phát triển
của ngân hàng thương mại ...........................................................................

66


3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng phải đặt trong mối quan
hệ với với Bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành.

67

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng phải đáp ứng được yêu
cầu của xu thế hội nhập.................................................................................

67

3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng tín dụng ở Việt Nam....

68

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về khoản vay có cam kết và khoản vay không
có cam kết ....................................................................................................

68

3.2.2. Hoàn thiện quy định về lãi suất ...........................................................

69

3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của
khách hàng ...................................................................................................

69

3.2.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về nợ quá hạn ......................................


70

3.2.5. Hoàn thiện quy định pháp luật về việc tổ chức tín dụng kiểm tra, sử
dụng tiền vay của khách hàng .......................................................................

71


3.2.6. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến việc áp dụng pháp
luật nước ngoài .............................................................................................

72

3.3. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng
tín dụng tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam ...........................................

72

3.3.1. Tiếp tục nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng ................................

72

3.3.2. Nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng thương mại ............................

73

3.3.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại ...................................................................................................

74


Kết luận chương 3 .............................................................................................

74

PHẦN KẾT LUẬN .........................................................................................

75


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đặc biệt kể từ khi thực hiện Nghị quyết Trung

ương 6 khóa X, Đảng ta không ngừng phấn đầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Mặc dù quá trình
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm nhưng
đã góp phần quan trọng đưa nước ta phát triển hơn, cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân, nâng cao hiệu quả và môi trường đầu tư tạo điều kiện thuận lợi trong quá
trình hội nhập quốc tế.
Kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO (11/01/2007) bên
cạnh những cơ hội mới nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức to lớn cho đất nước. Trong
đó, NHTM với vai trò trung gian tài chính nối liền các mối quan hệ giữa trung ương
với địa phương, giữa các thành phần kinh tế và giữa thị trường tài chính tiền tệ Việt
Nam với thị trường tài chính, tiền tệ của cộng đồng quốc tế nên sẽ chịu ảnh hưởng
trực tiếp trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu

cầu hội nhập, Việt Nam cần phải tích cực hoàn thiện khung pháp lý quy định về tổ
chức và hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động cấp tín dụng thông qua HĐTD
nói riêng của NHTM. Bởi lẽ, thông qua hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
mà tiêu biểu là các NHTM, các doanh nghiệp và chính phủ có thể thực hiện vay vốn
để tạo ra nguồn lực phục vụ quá trình sản xuất, kinh doanh và phục vụ phát triển đất
nước.
Trong những năm gần đây, pháp luật về hoạt động ngân hàng nói chung và
pháp luật về hoạt động cấp tín dụng tại các NHTM nói riêng ở nước ta đã đạt được
những kết quả tích cực trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, xu hướng
hội nhập quốc tế đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật trong nước phải phù hợp
với thông lệ quốc tế để tạo ra một môi trường pháp lý thống nhất, lành mạnh thu hút
đầu tư của các NHTM nước ngoài và thúc đẩy sự phát triển của NHTM trong nước
vươn ra thị trường tài chính quốc tế.
Vì những lý do trên, với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu và phân tích sâu
hơn về nghiệp vụ cấp tín dụng thông qua HĐTD tại các NHTM ở Việt Nam để có cái
nhìn tổng quan về thực trạng pháp luật, từ đó đưa ra những ý kiến giải pháp hoàn


2

thiện pháp luật nên người viết lựa chọn đề tài: “Thực trạng pháp luật về Hợp đồng
tín dụng tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam”.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài Hợp đồng tín dụng trong hoạt động cấp tín dụng của

NHTM ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ khác
nhau như: Luận án tiến sĩ Luật học năm 2017 của tác giả Nguyễn Ngọc Lương đề tài
“Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của NHTM ở Việt Nam”; Luận văn thạc

sỹ luật học năm 2017 của tác giả Phạm Vân Anh đề tài “Thế chấp nhà ở hình thành
trong tương lai để bảo đảm cho HĐTD”; Luận văn thạc sỹ luật học năm 2016 của tác
giả Nguyễn Mai Anh đề tài “Pháp luật về kiểm soát an toàn đối với hoạt động cấp tín
dụng của NHTM Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học năm 2013 của tác giả Phạm
Thị Thương đề tài “Xử lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương
mại theo pháp luật Việt Nam”;... Ngoài ra còn có một số bài viết của các tác giả đăng
trên các tạp chí như: “Bất cập trong các quy định về lựa chọn biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trong hoạt động cấp tín dụng” của tác giả Viên Thế Giang đăng trên
tạp chí Luật học số 4/2017; “Vướng mắc trong áp dụng pháp luật tính lãi suất trong
HĐTD” của tác giả Đoàn Đức Lương đăng trên tạp chí Kiểm sát số 23/2016; “Những
vướng mắc khi giải quyết tranh chấp HĐTD trong kinh doanh thương mại tại tòa án”
của tác giả Vũ Gia Trưởng đăng trên tạp chí Nghề Luật số 2/2016; “Một số rủi ro
pháp lý liên quan đến hợp đồng ủy quyền trong hoạt động tín dụng ngân hàng” của
tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2/2016;...
Các công trình nghiên cứu trên tạo ra cơ sở lý luận và thực tiễn trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về HĐTD tại các tổ chức tín dụng nói chung và các
NHTM nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây vẫn chưa tập trung nghiên cứu
và phân tích các chế định cơ bản về HĐTD tại NHTM ở Việt Nam. Ngoài ra, pháp
luật về hoạt động cho vay đã có những thay đổi nhất định nhưng chưa có những công
trình nghiên cứu về chế định pháp lý mới này.
Chính vì vậy, người viết mong muốn được nghiên cứu và làm rõ thực trạng
pháp luật hiện hành về HĐTD tại các NHTM ở Việt Nam, đồng thời chỉ ra những bất
cập và đề xuất giải pháp hoàn thiện phù hợp với sự phát triển của thị trường trong
nước và thông lệ quốc tế.


3

3.


Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu thực trạng pháp luật về HĐTD

tại các NHTM ở Việt Nam để trên cơ sở đó đề xuất ý kiến về các giải pháp, đặc biệt
là các giải pháp pháp lý nhằm góp phần kiện toàn pháp luật điều chỉnh hoạt động trên.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu: Thực trạng quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐTD tại các NHTM và những vướng mắc còn
tồn tại cần khắc phục để hoàn thiện khung pháp lý về HĐTD tại các NHTM ở Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở các văn bản quy phạm pháp luật đang có
hiệu lực ở Việt Nam về HĐTD tại các NHTM. Phạm vi nghiên cứu không bao gồm
tất cả các vấn đề chung về hoạt động của NHTM mà người viết chỉ tập trung nghiên
cứu thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh Hơp đồng tín dụng
và một số vấn đề còn vướng mắc, tồn tại cần phải khắc phục để hoàn thiện hành lang
pháp lý về HĐTD tại NHTM ở Việt Nam.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Khi nghiên cứu đề tài, người viết dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các đường lối, chính sách
của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới, xây dựng “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân” được ghi nhận chính thức trong các văn kiện của Đảng
và ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là tổng hợp hài hòa của các phương
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đưa ra nhận định khách quan và chính xác nhất
có thể để hoàn thành luận văn này. Từ việc tổng hợp các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành về HĐTD tại các NHTM, người viết tập trung phân tích để hiểu rõ
thực trạng rồi từ đó so sánh với pháp luật của một số quốc gia khác và thông lệ quốc

tế để tìm ra những vướng mắc còn tồn tại nhằm đề xuất ý kiến giải pháp hoàn thiện
quy định pháp luật.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa khoa học là đóng góp một góc nhìn qua lăng
kính cá nhân người viết để phản ánh thực trạng pháp luật về HĐTD tại các NHTM ở


4

Việt Nam hiện nay, đồng thời một số ý kiến đề xuất giải pháp khắc phục những hạn
chế còn tồn tại có thể là một nguồn tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật
và cũng là một số ý kiến gợi mở cho các công trình nghiên cứu sau này.
Về mặt thực tiễn, đề tài là một công trình nghiên cứu riêng của bản thân người
viết để tổng hợp kiến thức và rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá cho thực tiễn
áp dụng pháp luật, đồng thời đáp ứng điều kiện để người viết hoàn thành chương trình
học tập, nghiên cứu tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu
đề tài sẽ có đóng góp như một tài liệu tham khảo cho công việc học tập và nghiên cứu
sau này.
6.

Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín dụng
tại ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng tín dụng tại ngân hàng thương

mại ở Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
hợp đồng tín dụng tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.


5

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát về hợp đồng tín dụng
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng
Khi xã hội loài người phát triển kéo theo sự phát triển của sản xuất hàng hóa
và trao đổi hàng hóa. Từ đó xuất hiện nhu cầu trao đổi tiền tệ và dịch vụ kinh doanh
tiền tệ cũng phát triển trở thành ngành nghề kinh doanh và được gọi là nghề ngân
hàng. Tín dụng là một trong những chức năng cơ bản trong hoạt động của ngân hàng
có thể được hiểu theo nhiều phương diện khác nhau và hoạt động cấp tín dụng của
các định chế tài chính cũng được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau
như: hợp đồng cấp vốn, cho thuê tài chính, huy động vốn,... Tuy nhiên, trong nội
dung bài viết này người viết chỉ xem xét tín dụng dưới góc độ là một hoạt động cấp
tín dụng (hay còn gọi là cấp vốn) của NHTM cho các chủ thể khác thì: “Tín dụng là
phương thức chuyển dịch vốn từ người cho vay sang người đi vay trên cơ sở các bên
thiết lập với nhau một hợp đồng, theo đó, ngân hàng cấp tiền cho bên vay và sau một
thời hạn nhất định bên vay phải thanh toán cho ngân hàng vốn gốc và lãi vay”.1
Như vậy, trong quan hệ tín dụng chúng ta có thể hiểu là tiền sẽ được chuyển
giao từ chủ thể này sang chủ thể khác dựa trên nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các bên cùng xác lập quan hệ tín dụng
thông qua HĐTD hay nói các khác là thỏa thuận cho vay (sau đây gọi chung là

HĐTD). Mặc dù có vai trò quan trọng trong hoạt động của NHTM nhưng HĐTD
chưa có một định nghĩa chính thức trong một văn bản quy phạm pháp luật chuyên
ngành mà chỉ có thể xem xét dưới góc độ HĐTD là một loại hợp đồng vay tài sản. Vì
vậy, theo điều 463, Bộ luật dân sự 2015 quy định về Hợp đồng vay như sau: “Hợp
đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho
bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại
Phạm Văn Tuyết - Lê Thi Kim Giang (2012), HĐTD và biện pháp bảo đảm tiền vay, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr.13.
1


6

theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật
có quy định”.
Căn cứ vào quy định về hoạt động cho vay tại khoản 16, Điều 4, Luật các tổ
chức tín dụng 2010 quy định: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho
vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích
xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi.”
Trên những cơ sở đó, một số quan điểm nghiên cứu đưa ra định nghĩa về
HĐTD như:
“HĐTD là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (gọi là bên cho vay)
với khách hàng là tổ chức, cá nhân (gọi là bên vay), theo đó tổ chức tín dụng thỏa
thuận ứng trước một số tiền cho khách hàng sử dụng trong một thời hạn nhất định,
với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm”.2
“HĐTD là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay)
với tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện do luật định (bên vay), theo đó tổ chức tín dụng
thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong thời hạn nhất định, với
điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dựa trên sự tín nhiệm”.3

“HĐTD là thỏa thuận giữa một bên là NHTM hoặc các tổ chức tín dụng khác
với tư cách là bên cho vay với một bên là các chủ thể khác với tư cách là bên vay,
theo đó, tổ chức tín dụng cho vay chuyển cho bên vay một khoản tiền nhất định, khi
đến hạn phải trả gốc vay cùng với khoản tiền lãi được xác định theo lãi suất mà các
bên đã thỏa thuận”.4
Dựa vào những nghiên cứu trên, có thể thấy những nét tương đồng trong quan
điểm trên đưa ra đó là:
Thứ nhất: HĐTD cũng là một loại hợp đồng nên được xác lập dựa trên sự thỏa
thuận của các bên tham gia hợp đồng.

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.153.
3
Trường Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2005), Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4
Phạm Văn Tuyết - Lê Thi Kim Giang (2012), HĐTD và biện pháp bảo đảm tiền vay, Nxb Tư pháp, Hà Nội,
tr.17.
2


7

Thứ hai: Chủ thể tham gia HĐTD bao gồm bên cho vay là NHTM (hoặc các
tổ chức tín dụng khác) và bên vay là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định
của pháp luật.
Thứ ba: Bên cho vay sẽ thỏa thuận chuyển cho bên vay một khoản tiền trong
một thời hạn nhất định và bên vay sẽ hoàn trả tiền gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn.
Mặc dù các quan điểm về HĐTD nêu trên đã khái quát những nét cơ bản về

HĐTD những vẫn còn những điểm hạn chế. Về chủ thể tham gia HĐTD, theo khoản
3 Điều 2 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN Việt
Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài đối với khách hàng quy định khách hàng vay vốn được cụ thể hơn là pháp nhân
và cá nhân. Ngoài ra, một số nét cơ bản của HĐTD đó là phải sử dụng đúng mục đích
tiền vay và nghĩa vụ hoàn trả gốc, lãi, các chi phí phát sinh liên quan theo thỏa thuận
cũng chưa được đề đề cập đến. Liên quan đến vấn đề này, tham khảo Luật ngân hàng
Ba Lan năm 1989 có định nghĩa về HĐTD như sau: “Thông qua một thỏa thuận vay,
ngân hàng cam kết cung cấp cho người vay một lượng tiền cố định trong một khoảng
thời gian nhất định và người vay cam kết sử dụng nó theo các điều khoản của hợp
đồng, trả lại số tiền đã sử dụng cùng với lãi suất trong thời gian trả nợ theo hợp đồng
và trả hoa hồng từ khoản vay được cấp”.5
Qua những phân tích trên đây, quan điểm cá nhân của người viết định nghĩa
về HĐTD như sau:
HĐTD là một thỏa thuận cho vay mà một hoặc nhiều NHTM (hoặc các tổ chức
tín dụng khác) (với tư cách là bên cho vay) cam kết cung cấp cho pháp nhân, cá nhân
có đủ điều kiện vay vốn (với tư cách là bên vay) một khoản tiền để sử dụng trong thời
gian nhất định và bên vay phải sử dụng khoản tiền vay đúng mục đích, hoàn trả cả
tiền gốc, lãi và các khoản chi phí liên quan theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Từ những phân tích định nghĩa về HĐTD, chúng ta có thể nhận thấy một số
đặc điểm cơ bản của loại hợp đồng này.
1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng

5

/>

8

Ngoài những nét đặc trưng của hơp đồng, HĐTD có một số đặc điểm cơ bản

sau đây:
Về chủ thể: Khác với những chủ thể trong các hợp đồng thông thường là tổ
chức, cá nhân, chủ thể tham gia quan hệ tín dụng thông qua HĐTD luôn bao gồm một
bên với tư cách là bên cho vay bắt buộc phải là NHTM (hoặc có thể là tổ chức tín
dụng khác) (có thể có một hoặc nhiều NHTM) có đủ các điều kiện thành lập, hoạt
động theo quy định của pháp luật và một bên với tư cách là bên vay là pháp nhân, cá
nhân đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn của pháp luật và quy định nội bộ của
NHTM. Cụ thể hơn, các tổ chức không phải là pháp nhân như: hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân không đủ tư cách chủ thể vay vốn tại
NHTM. Sự quy định chặt chẽ về điều kiện chủ thể của HĐTD nhằm đảm bảo an toàn
về tài sản cho các chủ thể trong các giao dịch với NHTM. Những quy định về điều
kiện thành lập và hoạt động đối với chủ thể cho vay là NHTM nhằm đảm bảo an toàn
cho các bên khi NHTM có đầy đủ khả năng thực hiện giao dịch huy động tiền gửi từ
công chúng và giao dịch cung cấp khoản vay. Những quy định đối với chủ thể vay
nhằm đảm đảm có đủ khả năng hoàn trả tiền gốc và lãi phát sinh trong quan hệ tín
dụng, từ đó đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế nợ xấu.
Về đối tượng: Đối tượng của HĐTD luôn là tiền (bao gồm tiền mặt và/hoặc
bút tệ). Đây là nét đặc trưng rõ nét của HĐTD so với các loại hợp đồng khác. Trong
các hợp đồng khác thông thường đối tượng của hợp đồng là hàng hóa, dịch vụ rất đa
dạng nhưng đối tượng của HĐTD luôn là tiền. Sở dĩ có nét đặc thù này là do một
trong những hoạt động đặc thù của NHTM là cấp tín dụng mà cụ thể là hoạt động cho
vay thông qua HĐTD. Xuất phát từ bản chất của hoạt động cho vay như đã phân tích
ở trên là bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền nên đối
tượng trong HĐTD luôn là tiền.
Về mức độ rủi ro: HĐTD có nguy cơ rủi ro cao. Thứ nhất là rủi ro đối với bên
cho vay, sau khi giải ngân khoản vay NHTM với tư cách bên cho vay chỉ có thể đòi
tiền của bên vay sau một khoảng thời gian theo cam kết và NHTM cũng sẽ hoàn toàn
phụ thuộc vào khả năng trả nợ của bên vay. Kể cả trong trường hợp NHTM có thể áp
dụng biện pháp bảo đảm tiền vay thì khả năng thu hồi nợ rất hạn chế và thời gian xử
lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ thường kéo dài. Thứ hai là rủi ro đối với người gửi

tiền tham gia trong quan hệ huy động vốn với NHTM. Không giống như các quan hệ
cho vay thông thường bên cho vay sẽ dùng chính tài sản và cụ thể là tiền thuộc sở


9

hữu của mình để cho vay nên nếu bên vay không có khả năng trả nợ sẽ chỉ ảnh hưởng
đến chính lợi ích bên cho vay. Trong hoạt động cho vay của NHTM, rủi ro xuất phát
từ vai trò trung gian của NHTM là thông qua việc huy động tiền gửi và cho vay lại
để hưởng chênh lệch lãi suất giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay nên nếu khách
hàng vay không có khả năng trả nợ, NHTM không thu hồi được vốn thì dẫn đến hậu
quả là NHTM có nguy cơ mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền tham gia giao
dịch huy động vốn với NHTM. Do đó, HĐTD chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn không
chỉ cho chính NHTM mà còn cho các bên gửi tiền tham gia giao dịch huy động vốn
với NHTM.
Về thứ tự thực hiện quyền và nghĩa vụ: Đối với các hợp đồng thông thường,
các bên trong hợp đồng sẽ cùng phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đồng thời. Tuy
nhiên, trong HĐTD thì nghĩa vụ giải ngân khoản vay của NHTM bao giờ cũng phải
thực hiện trước sau đó bên vay mới thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như:
nghĩa vụ sử dụng đúng mục đích tiền vay, nghĩa vụ hoàn trả tiền gốc và lãi tiền vay
đúng thời hạn,... Bởi lẽ, xuất phát từ một nguyên lý nếu NHTM chưa chuyển giao
khoản tiền cho bên vay thì không thể yêu cầu bên vay và bên vay cũng không có
nghĩa vụ hoàn trả tiền cho NHTM.
1.1.2. Phân loại hợp đồng tín dụng
Việc phân loại HĐTD có vai trò quan trọng trong hoạt động của NHTM. Dựa
vào kết quả phân loại HĐTD nhà làm luật có cơ sở để xây dựng các quy phạm pháp
luật cho vay phù hợp với từng loại cho vay. Từ đó tạo ra một cơ sở pháp lý vững vàng
điều chỉnh hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động cấp tín dụng nói riêng.
Cũng dựa trên kết quả phân loại HĐTD, NHTM có thể xây dựng một quy trình
cho vay nội bộ để áp dụng cho từng loại cho vay sao cho phù hợp với chiến lược kinh

doanh và nhu cầu thị trường. Từ đó là cơ sở làm cho quá trình thực hiện nghiệp vụ
cấp tín dụng được thuận tiện hơn và hạn chế những rủi ro phát sinh do chưa có chuẩn
mực, quy định cụ thể.
Tùy từng tiêu chí mà có các cách phân loại HĐTD khác nhau. Thông thường,
HĐTD được phân loại như sau:
1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn vay vốn.


10

Đây là cách phân loại HĐTD phổ biến nhất căn cứ vào thời hạn cho vay. Theo
quy định tại Điều 10 Thông tư 39/2016/TT-NHNN thì HĐTD được phân thành hai
loại theo thời hạn cho vay như sau:
Thứ nhất là HĐTD ngắn hạn: Đây là loại HĐTD có thời hạn cho vay tối đa là
01 năm. Mục đích của loại HĐTD ngắn hạn nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản
lưu động, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của khách hàng trong quá trình hoạt động
kinh doanh hoặc thỏa mãn các nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong thời gian
ngắn dưới 12 tháng. Thông qua việc cho vay ngắn hạn, NHTM đã bổ sung nguồn vốn
kịp thời cho các nhu cầu về vốn ngắn hạn của khách hàng cũng như kích thích sản
xuất, kinh doanh. Đồng thời, hoạt động cho vay ngắn hạn cũng mang lại nguồn thu
nhập chính cho NHTM.
Thứ hai là hơp đồng tín dụng trung và dài hạn: Đây là loại HĐTD có thời hạn
cho vay từ 12 tháng trở lên. Cụ thể như sau:
+
HĐTD trung hạn: là HĐTD có thời hạn cho vay tối đa trên 01 năm và
tối đa 05 năm (theo khoản 2 Điều 10 Thông tư 39/2016/TT-NHNN).
+
HĐTD dài hạn: là HĐTD có thời hạn cho vay trên 05 năm (theo khoản
3 Điều 10 Thông tư 39/2016/TT-NHNN).
HĐTD trung và dài hạn chủ yếu nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố

định như nhu cầu xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, máy móc, đầu tư cải
tiến công nghệ, kỹ thuật,... Đặc biệt HĐTD dài hạn có thời hạn cho vay trên 05 năm
thường cho vay “tài trợ dự án” đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn vay lớn của dự án hạ
tầng hay sản xuất lớn. Hoạt động cho vay trung và dài hạn cũng đem lại lợi nhuận
cao cho NHTM bởi các khoản vay trung và dài hạn thường có quy mô lớn và lãi suất
cao.
-

Ý nghĩa pháp lý khi phân loại HĐTD theo thời hạn vay vốn:

Căn cứ vào việc phân loại này, NHTM có thể xác định được thời hạn cho vay
một cách hợp lý phù hợp với chu kỳ hoạt động kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn, khả
năng trả nợ của khách hàng, nguồn vốn cho vay và thời hạn hoạt động còn lại của
NHTM. (khoản 1 Điều 28 Thông tư 39/2016/TT-NHNN).
Việc phân loại này là cơ sở để tổ chức tín dụng xác định mức lãi suất đối với
từng loại cho vay. Thông thường, mức lãi suất cho vay đối với với khoản vay trung


11

hạn và dài hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn do mức độ rủi ro cao hơn và
thời gian thu hồi vốn lâu hơn. Đồng thời, việc phân loại này còn giúp cho các NHTM
cân đối giữa hoạt động huy động với hoạt động cho vay sao cho đảm bảo khả năng
thanh toán. Cụ thể là đối với những khoản vay ngắn hạn có mức lãi suất thấp thì
NHTM cân đối không sử dụng vốn huy động dài hạn có lãi suất cao để cho vay, hoặc
đối với những khoản vay dài hạn có lãi suất cao thì NHTM cũng cần cân đối và luân
chuyển thích hợp giữa các nguồn vốn huy động có nguồn vốn khác nhau để đảm bảo
lợi ích tối đa.
1.1.2.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay.
-


Dựa theo tiêu chí này, HĐTD được phân thành hai loại như sau:

Cho vay phục vụ nhu cầu đời sống: Theo khoản 4 điều 2 Thông tư 39/2016/TTNHNN đã giải thích rõ: “Cho vay phục vụ nhu cầu đời sống là việc tổ chức tín dụng
cho vay đối với khách hàng cá nhân để thanh toán các chi phí cho mục đích tiêu dùng,
sinh hoạt của cá nhân đó, gia đình của cá nhân đó”. Thông thường, những HĐTD
cho vay phục vụ nhu cầu đời sống thường có giá trị khoản vay nhỏ.
Cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh, hoạt động khác: Theo khoản 5 điều 2
Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã giải thích việc tổ chức tín dụng cho vay đối với
khách hàng là pháp nhân, cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngoài quy định cho vay
phục vụ nhu cầu đời sống, bao gồm nhu cầu vốn của pháp nhân, cá nhân đó và nhu
cầu vốn của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân mà cá nhân là chủ hộ kinh doanh,
chủ doanh nghiệp tư nhân. Đây là loại hợp đồng phổ biến bởi đa số các chủ thể đến
vay vốn NHTM đều có nhu cầu sử dụng vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh.
-

Ý nghĩa pháp lý khi phân loại HĐTD theo mục đích sử dụng vốn vay:

Việc phân loại theo tiêu chí này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
NHTM xem xét, quyết định cho vay đối với khách hàng. Bởi vì, theo khoản 2 điều 7
Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định điều kiện vay vốn của khách hàng: “Nhu cầu
vay vốn để sử dụng vào mục đích hợp pháp”. Khi xác định được mục đích sử dụng
vốn vay là tiền đề để NHTM thực hiện quá trình thẩm định và quyết định cho vay
được nhanh chóng và chính xác.
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật hiện hành các bên cần thỏa thuận và ghi
nhận về mục đích sử dụng vốn vay (điểm c khoản 1 điều 23 Thông tư 39/2016/TT-


12


NHNN). Đồng thời nghĩa vụ của các bên tuân thủ và thực hiện đúng các thỏa thuận
trong HĐTD trong đó bao gồm cả mục đích sử dụng tiền vay. Chính vì vậy, việc phân
loại HĐTD theo mục đích sử dụng vốn vay có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm
pháp lý do vi phạm HĐTD do bên vay không sử dụng vốn vay đúng mục đích theo
thỏa thuận.
1.1.2.3. Căn cứ vào việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay
-

Dựa theo tiêu chí này, HĐTD có thể chia thành hai loại:

HĐTD có áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay: là hình thức cho vay mà nghĩa
vụ trả nợ của bên vay sẽ được bảo đảm bẳng tài sản của chính bên vay hoặc một bên
thứ ba khác. Theo đó, ngoài HĐTD NHTM sẽ ký kết thêm hợp đồng bảo đảm tiền
vay với khách hàng vay hoặc bên thứ ba bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ khách hàng vay
đối với NHTM (như hợp đồng thế chấp, hợp đồng cầm cố, hợp đồng bảo lãnh).
HĐTD không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay: là hình thức cho vay mà
nghĩa vụ trả nợ của bên vay sẽ không được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc
một bên thứ ba khác. Do đó, các bên trong giao dịch chỉ phải ký với nhau HĐTD,
thông thường các NHTM sẽ rất hạn chế hoặc nếu cho vay sẽ đảm bảo một quy trình
thẩm định vô cùng chặt chẽ, bởi lẽ rủi ro trong trường hợp này là rất cao do không có
tài sản để đảm bảo cho khoản vay của khách hàng vay.
-

Ý nghĩa pháp lý khi phân loại HĐTD theo biện pháp bảo đảm tiền vay:

Xuất phát từ mức độ rủi ro cao trong hoạt động cho vay của NHTM do quá
trình thẩm định phản ánh chính xác khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn của khách
hàng, do khách hàng vay không đủ khả năng trả nợ,... nên việc phân loại HĐTD theo
biện pháp bảo đảm tiền vay có ý nghĩa trong việc xác định các khoản vay cần phải áp
dụng biện pháp bảo đảm tiền vay và khoản vay không áp dụng biện pháp bảo đảm

tiền vay. Đó cũng là cơ sở để NHTM xây dựng quy định nội bộ về việc áp dụng hoặc
không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay tuân theo quy định của pháp luật nhằm
hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM.
Bên cạnh đó, việc phân loại này cũng có ý nghĩa quan trọng để tăng cường
chất lượng công việc và có thể rút ngắn thời gian trong quá trình cấp tín dụng trên
thực tiễn. Ví dụ như, khi xác định thuộc loại HĐTD không phải áp dụng biện pháp
bảo đảm tiền vay các bên sẽ rút gọn được một số bước như: thẩm định tài sản bảo


13

đảm, soản thảo, đàm phán và ký kết hợp đồng bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm
mà tập trung vào xử lý HĐTD và các vấn đề liên quan sẽ tiết kiệm được thời gian,
chi phí cho các bên.
1.2. Pháp luật về hợp đồng tín dụng
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh của pháp luật đối với hợp đồng tín dụng
Thứ nhất, xem xét trên phương diện tổng quát, pháp luật là một phương tiện
để quản lý kinh tế, thực hiện các chính sách kinh tế, các mục tiêu kinh tế. Pháp luật
là phương tiện để Nhà nước quản lý kinh tế, bởi lẽ nếu không có pháp luật thì nhà
nước không thể quản lý được nền kinh tế phức tạp, nhiều thành phần. Chính vì vậy,
sự điều chỉnh của pháp luật đối với nền kinh tế mà trong đó bao gồm cả hoạt động
cấp tín dụng thông qua HĐTD của NHTM là vô cùng cần thiết.
Thứ hai, xuất phát từ những rủi ro trong chính trong hoạt động của NHTM mà
nổi bật là rủi ro thanh khoản. Có thể thấy, rủi ro thanh khoản bắt nguồn từ chính bản
chất hoạt động của NHTM là huy động vốn để cho vay. Do đó, khi dòng tiền thu từ
hoạt động cho vay và đầu tư không khớp với kỳ hạn của dòng tiền thanh toán vốn
huy động thì NHTM sẽ gặp rủi ro thanh khoản. Mức chênh lệch kỳ hạn càng lớn thì
khả năng thanh toán của NHTM cho người gửi tiền càng thấp làm cho rủi ro của
NHTM càng cao có nguy cơ bị phá sản. Với vai trò quan trọng của NHTM trong nền
kinh tế, NHTM có mối liên hệ với hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế như hộ gia

đình, doanh nghiệp, khối kinh tế Nhà nước,... thông qua các kênh như tiêu dùng, ngân
sách, đầu tư, thương mại,...và về mặt xã hội, NHTM trực tiếp hoặc gián tiếp cung cấp
vốn cho dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, năng lượng, giáo dục, y tế,... Chính
vì tính kết nối thành một mạng lưới của các NHTM nên sự rủi ro hoặc sự phá sản của
một NHTM có thể nhanh chóng kéo theo cùng lúc nhiều NHTM và các bên liên quan
khác lâm vào tình trạng khó khăn. Từ đó, nguy cơ dẫn tới đổ vỡ dây chuyền rất có
thể xảy ra.
Bên cạnh đó, việc NHTM mất khả năng thanh khoản hoặc bị phá sản sẽ dẫn
đến những hậu quả trực tiếp tới thị trường tiền tệ, làm suy giảm niềm tin của công
chúng vào hệ thống tài chính nên họ thường có xu hướng giữ tiền mặt để phòng ngừa
rủi ro. Do đó, lượng tiền lưu thông thực tế giảm làm thị trường tiền tệ bị mất cân bằng
dẫn đến một hệ qủa tất yếu khi nguồn cung tiền giảm thì nền kinh tế bắt buộc phải
điều chỉnh theo hướng thắt chặt tiêu dùng, hạn chế đầu tư trong khi thâm hụt ngân


14

sách lẫn thâm hụt thương mại gia tăng. Đồng thời, những quốc gia để xảy ra sự mất
thanh khoản hoặc phá sản của NHTM sẽ gặp khó khăn trong việc thu hút nguồn vốn
đầu tư từ cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài, cũng như những dòng chảy tài chính từ
các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).6
Chính vì những lý do đó, để duy trì hoạt động liên tục của NHTM, cần thiết
phải có những quy định pháp lý chặt chẽ điều chỉnh quan hệ HĐTD để đảm bảo hoạt
động cho vay của NHTM được an toàn, minh bạch, hạn chế nợ xấu, hạn chế rủi ro tín
dụng và đảm bảo khả năng thu hồi vốn, giảm thiểu rủi ro thanh khoản của NHTM.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh trên thương trường là
vô cùng khốc liệt. Do thị thường ngân hàng ở Việt Nam xuất phát điểm muộn hơn so
với thị trường ngân hàng quốc tế nên NHTM Việt Nam vẫn còn những hạn chế nhất
định trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống

pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung và các quy phạm pháp luật
điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng thông qua HĐTD nói riêng nhằm điều tiết nền kinh
tế, tạo ra một môi trường thuận lợi và công bằng hơn cho NHTM trong nước phát
triển và tránh sự độc quyền hoặc chính sách “cá lớn nuốt cá bé” của các NHTM quốc
tế có tiềm lực tài chính lớn. Cùng với đó, khi tham gia vào “sân chơi” quốc tế đặt ra
đòi hỏi phải xây dưng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói chung
và các quy phạm pháp luật về HĐTD nói riêng để phù hợp với pháp luật quốc tế và
thực tiễn thị trường.
Thứ tư, một điểm cụ thể hơn đó là HĐTD có một đối tượng đặc biệt là tiền.
Do đó, pháp luật cần có những quy định và điều chỉnh về HĐTD nói chung và các
nội dung thỏa thuận về đồng tiền cho vay, đồng tiền trả nợ để đảm bảo an ninh tiền
tệ quốc gia, giúp giảm bớt ảnh hưởng của ngoại tệ mà chủ yếu là đồng đô la Mỹ
(USD) tới nền kinh tế đất nước.

6

/>oter=false&showHeader=false&dDocName=SBV246711&rightWidth=0%25¢erWidth=80%25&_afrLo
op=3078273414132000#%40%3F_afrLoop%3D3078273414132000%26centerWidth%3D80%2525%26dDo
cName%3DSBV246711%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse
%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dtprur557j_93


15

Thứ năm, nhìn từ góc độ quốc tế, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển
trên thế giới đều có các quy định pháp luật cụ thể về hoạt động của NHTM nói chung
và hoạt động cho vay nói riêng.7
Ở Mỹ, pháp luật điều chỉnh hoạt động NHTM chủ yếu được quy định tại Tuyển
tập luật Hòa kỳ, tại Chương 12 “ngân hàng và các hoạt động ngân hàng” điều chỉnh
cụ thể trong các lĩnh vực như: cấp tín dụng cho các trang trại, tín dụng nông nghiệp

quốc gia, ngân hàng cấp tín dụng mua nhà,...
Ở Pháp, văn bản quan trọng nhất điều chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng
là Luật số 84-46 ngày 1/1/1984 “Về các tổ chức tín dụng và kiểm soát hoạt động của
các tổ chức tín dụng” quy định chỉ có các tổ chức tín dụng, trong đó bao gồm các
NHTM thực hiện các giao dịch ngân hàng. Theo điều 1 của luật này định nghĩa hoạt
động ngân hàng bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh
toán,... Hiện nay ở Pháp có quy định có nhiều loại hình cho vay khác nhau như: đối
với các tổ chức kinh tế có các loại tín dụng là cho vay ngắn hạn (2 năm), cho vay
trung hạn (2 năm đến 7 năm), cho vay dài hạn (trên 7 năm), ngoài ra ngân hàng còn
cho vay với khoảng thời gian rất ngắn là từ 01 đến 03 tháng dưới hình thức quay
vòng tùy thuộc vào mục đích sử dụng tiền vay.
Bên cạnh đó, ở Đức có các quy phạm pháp luật điều chỉnh chung đối với các
tổ chức thương mại và điều chỉnh riêng đối với tổ chức ngân hàng ví dụ như: Luật
Công ty cổ phần, Luật ngân hàng liên bang Đức năm 1957, Luật tín dụng năm 1976
(sửa đổi năm 1985), Luật ngân hàng cho vay nông nghiệp năm 1989,... Ở Anh, ngoài
Luật về các hoạt động ngân hàng năm 1987 điều chỉnh hoạt động chung của ngân
hàng còn có các quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng nghiệp vụ ngân hàng như: Luật
huy động tiền gửi và phá sản năm 1954, Luật về tín dụng tiêu dùng năm 1974, Luật
về các dịch vụ tài chính năm 1986,...
Qua những phân tích trên có thể nhận thấy ở các quốc gia có nền kinh tế phát
triển thì hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực hoạt động ngân hàng cũng phát
triển. Hơn thế nữa, các nghiệp vụ ngân hàng nói chung và nghiệp vụ tín dụng nói
riêng ở một số quốc gia đó còn được quy định thành một đạo luật riêng biệt để tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật trên thực tiễn cho các bên trong
quan hệ tín dụng nói riêng và trong các hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như
7

/>

16


tăng cường khả năng quản lý, kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Vì vậy, theo kinh
nghiệm từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới có thể nhận định rằng
việc xây dựng và tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động
của các NHTM trong đó có hoạt động cho vay thông qua HĐTD ở Việt Nam hiện
nay là rất quan trọng. Đó là tiền đề để ổn định hoạt động NHTM đồng thời ổn định
tình hình kinh tế và là động lực để phát triển đất nước.
1.2.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng tín dụng
Pháp luật về hợp đồng nhằm điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên giao
kết. HĐTD cũng là một loại hợp đồng vì vậy trước tiên và cơ bản nhất được điều
chỉnh bằng những quy định chung về hợp đồng theo pháp luật dân sự. Bộ luật dân sự
2015 quy định những vấn để chung về hợp đồng như khái niệm hợp đồng, giao kết
hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa đổi và chấm dứt hợp
đồng,... Cùng với đó, pháp luật chuyên ngành kinh doanh thương mại, tài chính ngân
hàng và các văn bản hướng dẫn là những quy phạm pháp luật điều chỉnh cụ thể và
chi tiết hơn về HĐTD. Theo đó, nội dung pháp luật Việt Nam về HĐTD có những
nét cơ bản như sau:
-

Về chủ thể tham gia HĐTD:

Các chủ thể tham gia giao kết HĐTD chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật
khác nhau. Trong đó:
Bên cho vay trong HĐTD là tổ chức tín dụng nói chung nhưng trong nội dung
bài viết người viết chỉ tập trung nghiên cứu về NHTM với tư cách là bên cho vay.
Theo đó, bên cho vay cần phải đáp ứng các điều kiện cơ bản như: về tư cách pháp
nhân theo quy định Bộ luật dân sự 2015, điều kiện về đăng ký kinh doanh theo Luật
doanh nghiệp 2014, điều kiện thành lập và hoạt động chung đối với các tổ chức tín
dụng theo Luật các tổ chức tín dụng 2010,...
Bên vay (khách hàng) là pháp nhân, cá nhân thỏa mãn các điều kiện vay vốn

do pháp luật quy định. Đối với khách hàng là pháp nhân căn cứ xác định theo điều 74
Bộ luật dân sự 2015, đồng thời xác định tư cách người đại diện có đủ năng lực và
thẩm quyền giao kết HĐTD thì ngoài Bộ luật dân sự 2015 còn đáp ứng các điều kiện
theo Luật doanh nghiệp 2014. Đối với khách hàng là cá nhân, cũng cần đáp ứng các
điều kiện về độ tuổi, về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự và cũng
được xác định theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015.


17

-

Về nội dung HĐTD:
Trước tiên, quan hệ HĐTD phải được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do

ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm theo Bộ luật dân sự 2015. Mặc dù theo
pháp luật chuyên ngành, cụ thể tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã quy định cụ thể
và chi tiết các nội dung trong HĐTD hay thỏa thuận cho vay bao gồm các nội dung
dung cơ bản như: điều kiện vay vốn, đối tượng của hợp đồng, thời hạn sử dụng vốn
vay, phương thức thanh toán tiền vay, mục đích sử dụng tiền vay và điều khoản giải
quyết tranh chấp HĐTD,... Nhưng các nội dung này đều xuất phát và tuân theo các
quy phạm cơ bản được ghi nhận trong Bộ luật dân sự 2015 như: vấn để sử dụng tài
sản vay, vấn đề lãi suất, quyền và nghĩa vụ của các bên,... Căn cứ vào tính chất của
mỗi điều khoản, nội dung HĐTD có thể chia thành 03 (ba) nhóm như sau:
Điều khoản cơ bản: đây là những điều khoản cơ bản mà pháp luật quy định
các bên khi giao kết HĐTD phải có như: đồng tiền cho vay, lãi suất cho vay, mục
đích sử dụng tiền vay, thời hạn vay vốn,...
Điều khoản thông thường: đây là những điều khoản mà đã được ghi nhận trong
các văn bản quy phạm pháp luật mà các bên dù không thỏa thuận về nó nhưng vẫn
mặc nhiên được công nhận và áp dụng. Khi có tranh chấp xảy ra thì những điều khoản

thông thường này sẽ là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Các điều
khoản thông thường như: điều khoản về bồi thường thiệt hại, điều khoản về tranh
chấp hợp đồng,....
Điều khoản tùy nghi: đây là những điều khoản pháp luật cho phép các bên có
quyền tự do lựa chọn áp dụng hoặc không áp dụng. Tuy nhiên, khi thỏa thuận về các
điều khoản này để ghi nhận trong HĐTD thì nội dung thỏa thuận của các bên không
được trái với quy định của pháp luật. Các điều khoản tùy nghi như: điều khoản về các
biện pháp bảo đảm, điều khoản áp dụng mức phạt vi phạm hợp đồng,...
-

Về hiệu lực của HĐTD

Về vấn đề này, pháp luật chuyên ngành chỉ ghi nhận tại điểm o, khoản 1 điều
23 Thông tư 39/2016/TT-NHNN rằng trong HĐTD phải có nội dung về hiệu lực hợp
đồng. Tuy nhiên, để xác định về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng, trường hợp hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp
lý của hợp đồng vô hiệu,... phải căn cứ theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015.


18

-

Vấn đề giao kết HĐTD
Trên cơ sở những quy định cơ bản tại Bộ luật dân sự 2015 về giao kết Hợp

đồng như: đề nghị giao kết hợp đồng, địa điểm giao kết hợp đồng, thời điểm giao kết
hợp đồng,... tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN là văn bản quy phạm pháp luật chuyên
ngành cũng quy định cụ thể hơn về vấn đề giao kết HĐTD như: quy định về hồ sơ đề
nghị vay vốn của bên vay được xem như đề nghị giao kết HĐTD; khi NHTM quyết

định chấp thuận cho vay được hiểu là chấp thuận giao kết HĐTD; trường hợp NHTM
quyết định không cho vay thì được hiểu là NHTM từ chối giao kết HĐTD.
-

Vấn đề quyền và nghĩa vụ của các bên trong HĐTD

Ngoài những quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong hợp đồng nói chung
và đối với hợp đồng vay nói riêng được ghi nhận trong Bộ luật dân sự 2015 thì Thông
tư 39/2016/TT-NHNN cũng quy định thêm một số quyền và nghĩa vụ cụ thể khác để
phù hợp với đặc thù của HĐTD như: NHTM có quyền kiểm tra và giám sát việc sử
dụng vốn vay, quyền chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn và áp dụng; nghĩa vụ
hoàn trả nợ gốc, lãi tiền vay và các loại phí liên quan của khách hàng vay,...
-

Vấn đề giải quyết tranh chấp HĐTD

Khi các bên tham gia HĐTD phát sinh tranh chấp có thể lựa chọn giải quyết
tranh chấp theo các phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại hoặc
tòa án. Theo đó, nếu các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng phương thức thương
lượng thì các bên có thể tự tiến hành giải quyết; nếu lựa chọn phương thức hòa giải
thì tuân theo quy định về hòa giải thương mại theo Nghị định 22/2017/NĐ-CP ngày
24/02/2017 của Chính phủ về Hòa giải thương mại; nếu lựa chọn giải quyết tranh
chấp bằng phương thức trọng tài thương mại thì áp dụng Luật trọng tài thương mại
2010 để giải quyết và trong trường hợp các bên không thể hòa giải được hoặc lựa
chọn giải quyết bằng con đường tài phán thì Tòa án sẽ giải quyết tranh chấp theo pháp
luật tố tụng dân sự.
Qua những phân tích nêu trên có thể nhận thấy rằng khi xác lập HĐTD thì các
bên giao kết phải tuân thủ theo các quy định chung của pháp luật dân sự mà tiêu biểu
là Bộ luật dân sự 2015 với tính chất là văn bản điều chỉnh các quan hệ dân sự nói
chung và các quy định liên quan của pháp luật chuyên ngành. Chính vì lý do đó mà

giữa HĐTD và hợp đồng dân sự có mối quan hệ với nhau:


×