Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.61 KB, 26 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại ( NHTM ).
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với sự hình thành và
phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Qúa trình phát triển kinh tế tạo điều kiện và
đòi hỏit sự phát triển của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống
ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Trải qua rất nhiều biến
động lịch sử của lịch sử cũng như cùng với sự phát triển kinh tế, các hình thức
ngân hàng cũng có sự thay đổi.
Ở giai đoạn đầu: từ thế kỷ 15 - cuối thế kỷ 18: các ngân hàng hoạt động với
quy mô nhỏ, độc lập với nhau, chưa tạo thành hệ thống và hoạt động chưa ổn định.
Mỗi ngân hàng đều có những chức năng nhiệm vụ giống nhau như: nhận tiền gửi,
cho vay, thanh toán chi trả, phát giấy bạc và lưu thông và thực hiện các dịch vụ
ngân hàng khác ( đổi tiền, chuyển tiền,... )
Ở giai đoạn 2: từ thế kỷ 18 - thế kỷ 20: Nhà Nước ban hành các đạo luật đối
với các hoạt động của ngân hàng để hạn chế số lượng các ngân hàng được phép
phát hành tiền và lưu thông. Sang thế kỷ 18, 19 ở các nước công nghiệp Châu Âu,
việc phát hành tiền vào lưu thông được giao cho một số ngân hàng lớn. Đến cuối
thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Nhà Nước ban hành đạo luật cho phép một ngân hàng
duy nhất – đó là tiền đề của ngân hàng trung ương sau này được phép phát hành
giấy bạc. Các ngân hàng còn lại cùng với quá trình phát triển trở thành NHTM.
Giai đoạn 3: từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay: Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của nền kinh tế hàng hoá, của công nghệ thông tin, và sự đa dạng hoá của
các đối thủ cạnh tranh là các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các NHTM đã đa
dạng hoá và mở rộng phạm vi cung cấp các dịch vụ theo mô hình ngân hàng đa
năng hiên đại.
1.2. Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng ( TDNH ).
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm TDNH.
1.2.1.1. Khái niệm.
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau. Ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ


tín dụng có nội dung riêng.
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ
từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở hoàn trả giữa hai chủ thể.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung
cấp cho khách hàng. Trong một số ngữ cảnh cụ thể thì thuật ngữ tín dụng còn đồng
nghĩa với thuật ngữ cho vay.
Mục đích cuối cùng là muốn xem tín dụng là một chức năng cơ bản của
ngân hàng. Vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì
tín dụng được hiểu như sau: “ Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng
hoá) giữa bên cho vay ( ngân hàng và các định chế tài chính khác ) và các bên đi
vay ( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác ), trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận,
bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi
đến hạn thanh toán ”.
Trong nền kinh tế thị trường , nếu lấy tiêu thức “ chuyển nhượng ” làm căn
cứ để phân chia các hình thức tín dụng thì có hai loại đó là tín dụng thương mại và
tín dụng ngân hàng. Tín dụng thương mại là hình thức cho vay bằng hàng hoá; Tín
dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với
các cá nhân và doanh nghiệp.
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
Xuất phát từ khái niệm tín dụng ngân hàng, tín dụng ngân hàng có một số
đặc điểm sau:
Thứ nhất, trong quan hệ tín dụng, ngân hàng thể hiện rõ vai trò trung gian tài
chính, là người đứng giữa thực hiện nghiệp vụ huy động vốn từ các chủ thể có vốn
nhàn rỗi trong nền kinh tế ( ngân hàng là người đi vay ) và sử dụng vốn đầu tư cho
các doanh nghiệp thì ngân hàng lại là người cho vay.
Thứ hai, TDNH đối với đối tượng cho vay là tiền tệ nên không chịu sự ngăn

cản về phương hướng tức là có thể cho vay đối với tất cả các ngành kinh tế ( ngành
đó hoạt động có hiệu quả, phương án sản xuất có tính khả thi ). Mặt khác, với quy
mô lớn về vốn nên các NHTM có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn lớn ở các quy mô
khác nhau với các thời hạn khác nhau: ngắn hạn, trung và dài hạn.
Thứ ba, TDNH khác với tín dụng thương mại về hình thức, quy mô và thời
gian hoạt động, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho
nhau. TDNH giúp khắc phục một số hạn chế của tín dụng thương mại về mặt
không gian và địa lý, về quy mô tín dụng, về trường hợp khi đến hạn trả tiền nếu vì
một lý do nào đó mà người mua không có hoặc không đủ tiền trả. Mối quan hệ gắn
bó này là nhờ thông qua việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu
thương phiếu tại các ngân hàng khi đối tác có thương phiếu và có nhu cầu về tiền
của mình.
Sự phát triển của các hình thức tín dụng, nhất là TDNH nhiều thập kỷ qua và
cho đến nay trên thế giới đã có nhiều thay đổi và phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu. Qúa trình vận động và phát triển của TDNH gắn liền với sự vận động và
phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, TDNH
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong vai trò là trung gian điều phối luồng tiền
tệ để nền kinh tế hoạt động một cách ổn định và phát triển.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện qua những mặt sau:
1.2.2.1. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, không phải lúc nào
doanh nghiệp cũng có đủ vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của mình, nên để đảm
bảo cho sản xuất kinh doanh bình thường, họ tìm đến ngân hàng hay các định chế
tài chính để nhận được sự tài trợ về nguồn vốn. Như vậy thông qua việc cung cấp
vốn cho các doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng đã góp phần giúp các doanh nghiệp
không những đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn có thể mở rộng quy
mô sản xuất, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học – kĩ thuật và công nghệ
mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo khả năng và khuyến khích đầu tư vào các
ngành,các lĩnh vực các công trình lớn có ý nghĩa đối với quốc kế dân sinh.

Hơn nữa hoạt động tín dụng ngân hàng còn tạo điều kiện để duy trì mối liên
hệ hữu cơ giữa sản xuất, lưu thông hàng hoá và tiêu dùng xã hội. Nó làm cho lưu
thông hàng hoá mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
Hiện nay, khoa học – kĩ thuật và công nghệ phát triển, bùng nổ như vũ bão,
chu kì sản phẩm ngày càng rút ngắn lại thì tín dụng ngân hàng càng trở nên quan
trọng hơn. Nhờ nguồn vốn tín dụng của ngân hàng mà doanh nghiệp có thể tiếp cận
được với những công nghệ tiên tiến, hiện đại, từ đó giúp các nước đang và chậm
phát triển có thể thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước với chiến lược đi tắt đón đầu.
Như vậy, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển nhanh chóng là điều không thể phủ nhận.
1.2.2.2. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất.
Trong nền kinh tế mở, các doanh nghiệp phải đối đầu với sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt. Họ không chỉ cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà còn
phải cạnh tranh với đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạn tranh, các doanh
nghiệp phải có tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như đổi mới
dây chuyền công nghệ, mua sắm nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành sản phẩm…Do vậy các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính thường có
nhiều lợi thé hơn, và họ có nguồn vốn lớn nên có thể dễ dang mở rộng sản xuất
kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường. Kết quả là các công ty lớn càng lớn mạnh
hơn,và các doanh nghiệp nhỏ do không đủ khả năng cạnh tranh nên có thể bị phá
sản hoặc bị các công ty lớn mua lại. Để tồn tại thì các doanh nghiệp nhỏ đã tự
nguyện liên doanh, liên kết hay sáp nhập lại với nhau hoặc cùng với các công ty
lơn thành lập nên các công ty cổ phần, hùn vốn lại với nhau để tạo ra lượng vốn
lớn. Như vậy do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sáp nhập này, và tín dụng
ngân hàng là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, thúc
đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
Mặt khác, để mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải trích một
phần lợi nhuận để thành lập quỹ dự phòng, quỹ đầu tư phát triển, tái sản xuất kinh

doanh. Nhưng do đặc điểm của chu chuyển vốn, vốn của doanh nghiệp luôn được
luân chuyển liên tục để tạo ra lợi nhuận , nên khi một cơ hội kinh doanh xuất hiện,
mà chờ có nguồn vốn đủ lớn để thực hiện tái sản xuất thì sẽ mất nhiều thời gian, và
có khi bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh. Trong khi đó doanh nghiệp có thể sử dụng vốn
tín dụng của ngân hàng. Như vậy, tín dụng ngân hàng đóng vai trò tích tụ vốn
trước một bước giúp cho doanhnghiệp tiết kiệm thời gian trong sản xuất kinh
doanh, nắm bắt kịp các cơ hội kinh doanh.
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình tiết kiệm chi phí lưu
thông của xã hội.
Với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của các giao dịch quốc tế, và các yêu
cầu ngày càng cao về đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro đối với các bên tham gia
giao dịch thì các hoạt động thanh toán quốc tế cũng ngày càng phát triển với các
phương thức, phương tiện thanh toán đa dạng, nhanh chóng và tiện lợi hơn.Nhờ
đó, thông qua cơ chế thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng làm giảm giao dịch tiền
mặt nên có thể thực hiện được một khoản chi phí cho việc lưu thông tiền mặt.
Đồng thời nhờ vào các phương tiện thanh toán khác như là:séc, thương phiếu, hối
phiếu nên có thể mở rộng được quy mô lưu thông hàng hoá; tiết kiệm tiền mặt
trong lưu thông, bảo quản tiền, ghi chép sổ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn, tài
sản xã hội được đảm bảo an toàn hơn. Đây là bước tiết kiệm quan trọng nhất mà tín
dụng đã đạt được thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng thực hiện điều hoà nguồn vốn, phân phối lại
vốn trong xã hội. Đây chính là chức năng phân phối của tín dụng ngân hàng. Nó
biểu hiện ở cơ chế “ hút ” và “đẩy ” được thực hiện thông qua nhiệm vụ huy động
vốn cho vay (thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán trong xã hội ) và nhiệm vụ
cho vay (để đẩy vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ) hoặc thông
qua thị trường liên ngân hàng. Dù dưới hình thức nào thì việc điều hoà vốn của tín
dụng ngân hàng làm cho xã hội bớt được thừa vốn ở nhiều nơi thừa vốn và giảm
khó khăn ở những nơi thiếu vốn, đồng thời làm cho phát triển tốc độ luân chuyển
hàng hoá và tiền vốn, giảm tình trạng phải phát hành thêm tiền, khắc phục tình
trạng lạm phát tiền tệ, từ đó góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả. Tất

cả những tác động đó của tín dụng ngân hàng đều giúp tiết kiệm một lượng lớn lưu
thông trong xã hôi.
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần thực hiện chính sách xã hội và là phương tiện
để Nhà Nước thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Thông qua tín dụng ngân hàng , Nhà nước tài trợ cho các đối tượng chính
sách xã hội như học sinh, sinh viên, các hộ nông dân nghèo, các hộ sản xuất, các
ngành nghề thủ công truyền thống bằng quỹ. Tính dụng ngân hàng là công cụ quan
trọng trong việc tổ chức đời sống dân cư. Dân cư sử dụng tín dụng để tiết kiệm,
tăng dự trữ của cải và cũng thông qua tín dụng để cải thiện nâng cao mức sống.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng là công cụ để cân đối thu chi ngân sách của
Nhà Nước và góp phần điều chỉnh lượng tiền cung ứng trong lưu thông, bảo đảm
sự cân đối tiền hàng, giữ cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và kiểm soát
thị trường giá cả và sức mua của đồng tiền. Nó cũng là phương tiện được dùng để
tài trợ cho các ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn vươn ra thị trường nước ngoài,
nâng cao mức độ cạnh tranh của nền kinh tế.
1.3. Tổng quan về hoạt động tín dụng ngân hàng tài trợ xuất
khẩu(TDTTXK ).
1.3.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng tài trợ xuất khẩu.
Ngày nay, xuất khẩu luôn được các quốc gia ( dù ở bất cứ trình độ phát triển
nào) coi trọng như “động lực ”của nền kinh tế quốc dân. Khi cạnh tranh xuất khẩu
ngày càng trở nên quyết liệt, các nhà xuất khẩu cần tới sự tài trợ của các cơ cấu tài
chính hiện đại và mạnh để thắng thế cạnh tranh trong điều kiện ngày càng nhiều
biến cố rủi ro. Mà ngân hàng chính là một trung gian tài chính uy tín và hoạt động
có hiệu quả cho nên đã dẫn đến quan hệ vay mượn giữa một bên là ngân hàng với
một bên là doanh nghiệp có nhu cầu về vốn.
Cho đến nay trên thế giới vẫn chưa có quan điểm thống nhất về TDTTXK
dẫu cho rằng chỉ ở mặt khái niệm. Điều này đương nhiên sẽ rất khó cho việc sử
dụng khái niệm TDTTXK. Các nhà nghiên cứu cũng đưa ra các khái niệm
TDTTXK tuỳ thuộc vào các chuyên đề, nội dung phản ánh. Tuy nhiên, có thể hiểu
TDTTXK là hoạt động tài trợ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp trong lĩnh

vực xuất khẩu nhằm giúp các doanh nghiệp này thu mua, chế biến, sản xuất và tiêu
thụ hàng hoá xuất khẩu trên cơ sở hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đây là một
cách nhìn chung về TDTTXK, tuy nhiên ở cụ thể ở mỗi nước lại có cách phương
thức thực hiện riêng, nhưng theo xu thế ngày một hội nhập như hiện nay thì hoạt
động TDTTXK của các nước đang ngày càng đi theo nhiều tiêu chuẩn chung của
thế giới.
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế thì TDTTXK cũng
ngày càng đa dạng và phong phú. Hình thức đơn giản đầu tiên là ngân hàng cho
vay trực tiếp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu như cho vay để bổ sung vốn lưu
động, thu mua, chế biến, sản xuất hàng hoá xuất khẩu theo các hợp đồng đã kí kết;
cho vay thanh toán nguyên liệu…Ngân hàng mở rộng hình thức cho vay trung và
dài hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Ngân hàng cho vay để mua
sắm thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tram trên thị trường quốc
tế.
Ngân hàng còn thực hiện đứng ra bảo lãnh các đơn vị xuất khẩu để giúp cho
họ có thể thực hiện các hợp đồng thương mại quốc tế lớn. Với sự bảo lãnh của
ngân hàng các doanh nghiệp nhập khẩu nước ngoài loại bỏ được những lo ngại đối
với doanh nghiệp xuất khẩu ( về uy tín, khả năng thực hiện hợp đồng ), và doanh
nghiệp xuất khẩu sẽ không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt. Nếu doanh nghiệp có hối
phiếu hay các chứng từ có giá trong tay có thể đưa đến ngân hàng để chiết khấu .
Ngân hàng sẽ mua lại bộ chứng từ và có quyền đòi nhà nhập khẩu theo hối phiếu
và các giấy tờ đó.
Như vậy, do trình độ kỹ thuật nghiệp vụ ngày càng phát triển, các phương
thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng thì hoạt động TDTTXK cũng phát triển
mạnh với sự ra đời của nhiều hình thức, phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt
động xuất khẩu.
1.3.2. Vai trò của tín dụng tài trợ xuất khẩu.
Nếu xét hoạt động TDTTXK trên từng giác độ của ngân hàng, của doanh
nghiệp và của nền kinh tế thì chúng ta sẽ thấy vai trò quan trọng của nó được biểu

hiện rõ nét.
1.3.2.1. Đối với nền kinh tế đất nước.
TDTTXK góp phần làm tăng trưởng kinh tế đất nước cả về mặt lượng và
chất. Thông qua việc huy động vốn và cho vay, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói
chung và TDTTXK nói riêng tác động trực tiếp đến quan hệ tích luỹ - tiêu dùng và
đầu tư - tiết kiệm, góp phần quan trọng vào khai thác các nguồn lực xã hội nhằm
thực hiện GDP thực tế cân bằng GDP tiềm năng, từ đó tác động đến tăng trưởng
kinh tế. Đối với các nước đang phát triển thì tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá
phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Đặc biệt là đối với các dự án, chương trình lớn
phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, cần nhập khẩu thiết bị công nghệ mới, hiện
đại, nguồn vốn tài trợ xuất khẩu thường chiếm từ 70% - 80% tổng mức vốn đầu tư.
Bằng cơ chế lãi suất ưu đãi và nguồn trung – dài hạn, ngân hàng có thể tập trung
cho các dự án này nhằm đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Chúng ta cũng biết khi một nước tham gia vào phân công lao động quốc tế
thì cơ chế ngoại thương sẽ tạo ra hiệu quả cho các bên tham gia. Cơ chế đó sinh ra
từ lợi thế so sánh dựa trên cơ sở khác biệt giữa chi phí cơ hội một mặt hàng của các
nước tham gia. TDTTXK góp phần khai thác lợi thế so sánh và làm tăng kim
ngạch xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường,
quá trình lưu thông hàng hoá xuất khẩu diênc ra trôi chảy hơn, từ đó tăng tính năng
động của nền kinh tế. Với nguồn vốn tài trợ xuất khẩu của ngân hàng, doanh
nghiệp có điều kiện đổi mới dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị sản xuất
hàng xuất khẩu nên chất lượng sản phẩm hàng hoá được nâng cao, giá thành sản
phẩm hạ, tạo khả năng cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác và kinh doanh
có lãi. Sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng đã tác động đến sự phát triển của
nền kinh tế nói chung.
1.3.2.2 Đối với doanh nghiệp.
Trong các giao dịch ngoại thương, có những hợp đồng ngoại thương được
ký kết với giá trị lô hàng lớn, và có thể được thực hiện trong thời gian tương đối
lâu. Điều đó đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có nguồn vốn tương đối lớn và ổn định
để đáp ứng các yêu cầu từ quá trình thu mua nguyên vật liệu đầu vào, chế biến, sản

xuất, vận chuyển đến người nhập khẩu – quá trình này có thể kéo dài hàng năm, có
khi nhiều hơn. Doanh nghiệp không thể tập trung hết toàn bộ nguồn lực của mình
vào một hoạt động, mà doanh nghiệp cũng cần phải phân bố nguồn vốn vào các

×