Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Pháp luật về tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn và thực tiễn giải quyết tại tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 88 trang )

B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

NễNG M THNH

Pháp luật về tranh chấp quyền sử dụng đất
của vợ chồng khi ly hôn và thực tiễn giải quyết
tại tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO
B T PHP
TRNG I HC LUT H NI

NễNG M THNH

Pháp luật về tranh chấp quyền sử dụng đất
của vợ chồng khi ly hôn và thực tiễn giải quyết
tại tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC

Chuyờn ngnh : Lut kinh t
Mó s



: 8 38 01 07

Ngi hng dn khoa hc: TS. Phm Thu Thy

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nông Đàm Thành


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN VÀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI LY HÔN


8

1.1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn

8

1.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất của vợ chồng khi ly hôn

22

Chƣơng 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN HAI CẤP TỈNH LẠNG SƠN

36

2.1. Tổng quan tình hình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Lạng
Sơn giai đoạn 2015 - 2017

36

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn qua một số vụ án tranh chấp cụ thể

40

2.3. Đánh giá chung về tình hình giải quyết tranh chấp quyền sử

dụng đất của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh Lạng Sơn
Chƣơng 3:

49

CÁC GIẢI PHÁP NH M HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
TẠI TỈNH LẠNG SƠN

3.1. Kiến nghị về hoàn thiện quy phạm pháp luật

54
54

3.2. Kiến nghị về tổ chức thực hiện giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

58
60
67


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình cho thấy
gắn liền với việc giải quyết các quan hệ nhân thân là các quan hệ về tài sản
của vợ chồng mà cụ thể là việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng… Trong trường hợp ly hôn có yêu cầu chia tài sản là quyền sử dụng
đất thường xảy ra tranh chấp gay gắt, bởi vì đối với người Việt Nam, quyền
sử dụng đất có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ về mặt giá trị mà đó là nơi cư
trú, an cư lạc nghiệp, nguồn kinh tế cơ bản, chủ yếu của bản thân và gia đình.
Ngoài ra, việc phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn không chỉ đụng chạm
đến quyền lợi sát sườn của các bên đương sự về mặt vật chất mà còn liên
quan đến quyền lợi của người thứ ba, thậm chí của Nhà nước. Cho nên nếu
giải quyết vấn đề này không hợp tình, hợp lý sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến lợi
ích của cá nhân, gây nên tình trạng mất đoàn kết giữa các bên đương sự, đồng
thời ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội.
Do đó muốn giải quyết đúng đắn vấn đề tranh chấp quyền sử dụng đất
khi ly hôn, Tòa án phải tiến hành điều tra, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của
các bên đương sự, phải nắm vững nguồn gốc nhà và đất, hoàn cảnh sống của
con cái, tình trạng sinh sống cụ thể của gia đình đương sự mới có thể ra quyết
định đúng đắn trong mỗi bản án của mình. Ngoài ra, trong việc áp dụng pháp
luật, Tòa án cũng phải xem xét kỹ lưỡng, vận dụng nhiều văn bản quy phạm
pháp luật không chỉ là Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai mà còn phải
xem xét Bộ luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật Cư trú… và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết đúng đắn các vụ kiện ly
hôn về tranh chấp quyền sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt to lớn, giải quyết
tranh chấp về bất động sản khi ly hôn phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của
Luật Hôn nhân và gia đình như: Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng,
nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người vợ và con chưa thành niên, nguyên


2


tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em… khẳng định quyền sở hữu của cá nhân trong Bộ
luật Dân sự, đồng thời đảm bảo sự công bằng về lợi ích của các bên đương sự,
góp phần bình ổn xã hội dân sự, đảm bảo thống nhất quản lý đất đai của nhà
nước. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất trong các vụ án ly hôn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Một
phần do quy định chồng chéo của các văn bản pháp luật, một phần do trình độ
yếu kém, chưa đồng đều của các cán bộ Tòa án. Điều đó, dẫn đến tình trạng
các đương sự không đồng ý với bản án sơ thẩm và nộp đơn phúc thẩm tạo nên
sự quá tải của tòa cấp phúc thẩm, từ đó kéo theo một số hệ lụy khác như: Việc
giải quyết án chậm, kém chất lượng, gây tốn kém tiền của, công sức…
Nhận thấy việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất trong các
vụ án ly hôn có vai trò quan trọng, là một đề tài phong phú, có ý nghĩa thiết
thực trong đời sống nên tôi đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về tranh chấp
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn và thực tiễn giải quyết tại tỉnh
Lạng Sơn" làm luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn góp phần hoàn
thiện pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu (bao gồm: Luận án tiến
sỹ, Luận văn thạc sĩ, cử nhân, và các tài liệu khác) đề cập đến một số khía
cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài như: Tác giả Nguyễn Văn Cừ:
"Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam",
Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005; tác giả
Trần Hoàng Châu: "Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa
án", Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002;
Tác giả Phạm Đức Thắng: "Các vấn đề về giải quyết tranh chấp đất đai hiện
nay", Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001... Những luận văn này tuy đã được nghiên cứu từ cách đây khá lâu
nhưng những vấn đề lý luận của luận văn vẫn mang ý nghĩa sâu sắc và có tính



3

kế thừa cao cho những công trình nghiên cứu về sau.
Vấn đề giải quyết tranh chấp về đất đai luôn là chủ đề được xã hội
quan tâm, đặc biệt những năm gần đây rất nhiều tác giả nghiên cứu và viết về
vấn đề này như: Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan (2008), "Giải quyết tranh
chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000", Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; TS.
Doãn Hồng Nhung (2009), "Pháp luật đất đai và vấn đề bảo vệ quyền lợi
chính đáng của phụ nữ", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 23(160) tháng
12/2009, tr. 48-50; Tác giả Hạnh Nguyên (2013), "Quyền về đất đai của phụ
nữ sau ly hôn: vẫn thiệt đơn, thiệt kép", Phụ nữ Việt Nam, 44(3779); Tác giả
Hoàng Thị Thái Hoa (2005), "Vấn đề ly hôn - nhìn từ sự tác động của yếu tố
văn hóa truyền thống", Thông tin khoa học, Phân viện nghiên cứu văn hóa
thông tin tại Huế, số tháng 9/2005, trang 59-71; Tác giả Lê Thị Tuyết Chinh
(2010), "Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn", Luận
văn cử nhân, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và gần đây nhất là luận
văn của tác giả Trịnh Huỳnh Quân (2017): "Tranh chấp về chia tài sản là
quyền sử dụng đất khi ly hôn từ thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân
huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội ...
Các công trình nghiên cứu trên đều tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác
nhau liên quan đến quyền sử dụng đất của vợ, chồng cũng như cách giải quyết
các tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn và trên những
địa bàn cụ thể. Các công trình, bài viết đều mang ý nghĩa, giá trị tham khảo
sâu sắc và có tính kế thừa cao cho công trình nghiên cứu về sau. Luận văn
"Pháp luật về tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn và thực
tiễn giải quyết tại tỉnh Lạng Sơn" sẽ mang lại cái nhìn chi tiết, cụ thể hơn từ
thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn



4

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật hiện
hành trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
và việc vận dụng các quy định đó thông qua nghiên cứu một số án trong thực
tiễn xét xử của Tòa án: Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi ly hôn
thực chất là xác định và chia tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly
hôn, cũng như xác định tài sản là quyền sử dụng đất của người thứ ba có liên
quan trong các giao dịch về tài sản với vợ chồng khi giải quyết ly hôn.
Trong phạm vi là luận văn thạc sĩ ứng dụng thuộc chuyên ngành luật
kinh tế, luận văn này bao gồm những quy định về lý luận, thực tiễn có liên
quan đến áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ
chồng ly hôn tại tỉnh Lạng Sơn với tư cách là một hình thức cụ thể, chủ yếu
và sinh động của hoạt động áp dụng pháp luật. Luận văn khái quát những vấn
đề chung trong việc áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất khi vợ chồng ly hôn tại địa bàn tỉnh Lạng Sơn để thấy được những khó
khăn, bất cập đang tồn tại. Từ đó đưa ra những đánh giá, nhận xét cũng như
đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập ấy.
Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình áp dụng pháp luật giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn trong khoảng thời gian từ
năm 2015 đến năm 2017 tại tỉnh Lạng Sơn theo các quy định có liên quan đến
tài sản là bất động sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Đất đai năm 2013....
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về tranh chấp chia tài sản là quyền sử dụng đất khi vợ chồng
ly hôn tại Tòa án. Từ việc phân tích các quy định của Luật Đất đai năm 2013,
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015 cùng các văn

bản pháp luật có liên quan để tìm hiểu những quy định của pháp luật liên quan
đến giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi ly hôn của vợ chồng và từ
thực tiễn giải quyết tranh chấp đó tại Tòa án hai cấp tỉnh Lạng Sơn để đưa ra


5

những khó khăn, vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật trong quá
trình áp dụng giải quyết tranh chấp để đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Thứ nhất, nghiên cứu và chỉ ra những vấn đề lý luận về tranh chấp và
giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
Thứ hai, phân tích thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Lạng Sơn
Thứ ba, kiến nghị và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn
đề liên quan đến pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được
nghiên cứu trong luận văn;
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu qui định của
pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam, cũng như
sự áp dụng pháp luật giữa Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Lạng Sơn về giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi ly hôn. Qua đó, nêu lên ý nghĩa của
việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn đối với

gia đình và xã hội;
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực
tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án, với các số liệu cụ thể giải quyết các
tranh chấp từ quan hệ hôn nhân và gia đình liên quan đến tài sản giữa vợ và
chồng đặc biệt là quyền sử dụng đất. Tìm ra mối liên hệ giữa các qui định của


6

pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa, đưa ra các lý do để từ
đó xem xét nội dung qui định của pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, với thực tiễn của đời sống xã hội nhằm
nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
- Phương pháp nghiên cứu, thu thập thông tin trong khóa luận này,
phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tìm kiếm thông tin qua các tài liệu được
lưu trữ trong thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội và các tài liệu trên mạng
internet và các phương tiện thông tin đại chúng…
Ngoài ra, luận văn còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
như: phương pháp thu thập số liệu, xử lý thông tin, phân tích,… nhằm đưa ra
được những thông tin, số liệu chính xác, những biện pháp tối ưu phục vụ cho
công tác nghiên cứu bám sát với thực tiễn đời sống.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn tại tỉnh Lạng Sơn thông
qua hoạt động hòa giải, xét xử của Tòa án. Qua đó thấy được những nguyên
nhân chủ yếu (chủ quan và khách quan) dẫn đến những tranh chấp này, từ đó
đưa ra những phương pháp giải quyết khi tranh chấp xảy ra. Trên cơ sở đưa ra
những giải pháp có tính khả thi cao nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn đạt
hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp cũng như đáp

ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng phát triển hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp quyền sử dụng đất của
vợ chồng khi ly hôn và giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất khi ly hôn.


7

Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh lạng sơn.
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn tại tỉnh
lạng sơn.


8

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI LY HÔN
1.1. Những vấn đề lý luận về tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn
1.1.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng trong hôn nhân
Khi trở thành vợ chồng và cùng chung sống với nhau, tạo dựng tài sản
chung, cuộc sống hai người hòa vào làm một, không có sự phân chia rõ ràng tài
sản nào của vợ, tài sản nào của chồng. Để thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và
tinh thần của đời sống gia đình, vợ chồng cùng nhau gánh vác nghĩa vụ kinh tế,

chăm sóc nuôi dưỡng con cái, phát triển công việc. Vì vậy trong thời kỳ hôn nhân
tài sản chung của vợ chồng là rất nhiều, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
đã dự liệu về nguồn gốc, thành phần tài sản chung của vợ chồng như sau:
"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy
định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng
để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản
chung".


9

Từ quy định này có thể biết được rằng, ngoài những trường hợp các loại
tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng còn có những tài sản mà vợ chồng có
tranh chấp nhưng các bên không có căn cứ để chứng minh cho việc tài sản tranh
chấp là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình thì được coi là khối tài sản chung của
vợ chồng. Có thể hiểu, quy định này giành cho trường hợp thời kỳ hôn nhân qua
nhiều năm tháng, các tài sản hầu như được sử dụng để đảm bảo cuộc sống gia
đình không có sự phận biệt của vợ, của chồng, khi tranh chấp rất khó để xác định
rõ ràng để giải quyết. Thời kỳ hôn nhân là một trong các căn cứ để xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng, theo quy định tại khoản 13, Điều 3 Luật Hôn

nhân và gia đình năm 2014: "Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ
vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân". Thời
kỳ hôn nhân được tính từ khi hai bên nam, nữ kết hôn, việc kết hôn đó được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo đúng thủ tục và các điều kiện luật
định. Những tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ này (trừ các tài sản riêng của
vợ hoặc chồng) đều thuộc tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ
chồng có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, tài sản chung của vợ chồng có thể do một người tạo ra, hoặc
cũng có thể do cả hai cùng tạo lập.
Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng được tạo ra không phụ thuộc vào
điều kiện vợ chồng ở chung hay ở riêng, sinh sống cùng một địa điểm. Tức là có
thể vì công việc, hai vợ chồng mỗi người sinh sống làm việc ở một địa phương
khác nhau, nhưng số tài sản được tạo ra trong thời kỳ này đều thuộc tài sản chung
của vợ chồng.
Thứ ba, vợ chồng có quyền bình đẳng đối với tài sản chung khi thực hiện
quyền sở hữu bao gồm: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, định đoạt mà không bị
phụ thuộc vào công sức đóng góp của vợ chồng trong quá trình tạo lập, duy trì
khối tài sản chung.


10

Thứ tư, sở hữu chung của vợ chồng về tài sản là sở hữu chung hợp nhất có
thể phân chia được quy định tại Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015.
Căn cứ xác định và phân chia tài sản của vợ, chồng:
Thứ nhất, về căn cứ xác định và phân chia tài sản chung của vợ, chồng.
Một là, về căn cứ xác định tài sản chung của vợ, chồng. Điều 32 Hiến
pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh
nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác". Theo đó, khi công dân có quyền sở

hữu các tài sản thì các tài sản đó được công nhận là tài sản hợp pháp của họ. Vợ,
chồng là những cá nhân và họ đương nhiên có các quyền đó. Khi có quyền sở hữu
tài sản thì mới có thể tạo lập nên khối tài sản dù là tài sản chung hay tài sản riêng
của cá nhân trong xã hội.
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm
2015, Điều 213 quy định về sở hữu chung của vợ chồng:
"1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân
chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền
ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng hoặc
định đoạt tài sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo
quyết định của Tòa án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy
định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp
dụng theo chế độ tài sản này".
Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 lại quy định khá cụ thể về
chế định tài sản chung của vợ chồng:
"Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng


11

và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định
tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho

riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng
để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tà sản
chung".
Luật dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, là tổng hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự nói chung, quan hệ tài sản
mang tính chất hàng hóa - tiền tệ nói riêng và các quan hệ nhân thân khác trên cơ
sở bình đẳng, độc lập của chủ thể khi tham gia các quan hệ đó. Luật Dân sự và
Luật Hôn nhân và gia đình đều có chung một đối tượng điều chỉnh là nhóm quan
hệ nhân thân và tài sản trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong đó, Bộ luật Dân
sự 2015 có một số quy định cụ thể về vấn đề sở hữu, chiếm hữu, định đoạt và thừa
kế tài sản. Qua đó, các quy định được nêu nhằm xác định các trường hợp xác lập
tài sản chung của vợ chồng.
Hai là, về căn cứ phân chia tài sản chung của vợ, chồng.
Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Trong thời kỳ
hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản
chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này, nếu không thỏa thuận
được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu
cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại
Điều 59 của Luật này". Như vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng có thể
được giải quyết theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc thông qua con đường Tòa án.
Bên cạnh đó, thỏa thuận về việc chia tài sản chung của vợ chồng phải được lập


12

thành văn bản, có công chứng theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của
vợ chồng.

Tại Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
quy định:
(1) Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các
vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa
thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế
độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ
thể mà Tòa án xử lý như sau: Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ
thể mà Tòa án xử lý như sau: Trường hợp không có văn bản thỏa thuận về chế độ
tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và
văn bản này không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung
của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn
đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô
hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 và các
Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn.
(2) Khi giải quyết ly hôn, nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
(3) Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định
vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người
thứ ba và tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ về tài sản với
người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải quyết khi chia tài
sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà


13


người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Tòa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng
một vụ án khác.
(4) Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc
được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau: (i) "Hoàn cảnh của gia đình và
của vợ, chồng" là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài
sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của
các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân
và tài sản theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn
sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên
nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù
hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng; (ii) "Công sức đóng góp
của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung" là sự đóng
góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong
việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà
chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương
đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều
hơn sẽ được chia nhiều hơn; (iii) "Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản
xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu
nhập" là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang
hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động
sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và
phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích
chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp
không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa
thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự; (iiii) "Lỗi của
mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng" là lỗi của vợ hoặc chồng vi
phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn.



14

1.1.2. Khái niệm tài sản chung là quyền sử dụng đất của vợ chồng trong
hôn nhân
Quyền sử dụng đất là tài sản có giá trị cao, xem xét dựa trên hai khía cạnh
kinh tế và pháp lý thì dưới góc độ kinh tế quyền sử dụng đất là quyền khai thác
các lợi ích từ đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Dưới góc độ
pháp lý thì quyền sử dụng đất là những quyền năng mà Nhà nước thông qua công
cụ pháp lý để quy định, thừa nhận cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (người sử
dụng đất) được hưởng, được làm trong quá trình sử dụng đất (1)
Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng và được pháp luật bảo
vệ, Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phải ghi đầy đủ họ tên của vợ và chồng theo quy định tại khoản
4, Điều 98 Luật Đất đai năm 2013.
Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định:
"Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng".
Từ những quy định trên và dựa vào tính chất tài sản chung của vợ chồng
có thể thấy rằng quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài
sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử
dụng mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản, hay công sức đóng
góp để hình thành nên tài sản chung. Việc quy định quyền sử dụng đất có được
sau khi kết hôn là tài sản chung có ý nghĩa đảm bảo sự bình đẳng giữa vợ chồng,
tuy nhiên trên thực tế Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thường chỉ đứng tên
một người và việc xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay riêng để đảm
bảo lợi ích chính đáng của mỗi người là rất khó khăn. Trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 cũng đã có quy định trường hợp quyền sử dụng đất có được trước
khi kết hôn mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung thì trở thành tài sản chung.
1. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2012), Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất

động sản ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 16.


15

Quy định này tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng
đất khi chia tài sản chung của vợ chồng nhanh chóng, thuận lợi hơn.
Ta có thể hiểu: Tài sản chung là quyền sử dụng đất của vợ chồng là tài
sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân hoặc do vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung.
Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Quyền
sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có
được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng".
Các tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (trong đó có quyền
sử dụng đất) đều được coi là tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền bình
đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà không phụ thuộc vào khả năng
trực tiếp tạo ra tài sản hay công sức đóng góp của mỗi bên.
Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt và có giá trị lớn. Trên thực tế, người
chồng thường nắm giữ toàn bộ tài sản trong gia đình và thường đứng tên trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc quy định quyền sử dụng đất có
được sau khi kết hôn cũng là tài sản chung của vợ chồng có ý nghĩa đảm bảo sự
bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ tài sản.
Những cơ sở xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng:
a. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước giao, giao khoán, cho
thuê sau khi kết hôn
Vợ chồng được Nhà nước giao, giao khoán hay cho thuê quyền sử dụng
đất sau khi kết hôn thì quyền sử dụng đất đó sẽ là tài sản chung của vợ chồng.
Nhưng nếu sau khi kết hôn mà vợ hoặc chồng được Nhà nước giao, giao khoán
hay cho thuê quyền sử dụng đất riêng thì đó là tài sản riêng của mỗi bên vợ,

chồng. Nhà nước có thể giao đất cho vợ chồng theo hình thức có thu tiền sử dụng
đất hay không thu tiền sử dụng đất tùy từng loại đất và mục đích sử dụng chúng
như thế nào theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật Đất đai năm 2013: Nhà nước
giao đất không thu tiền sử dụng đất trong trường hợp "Hộ gia đình, cá nhân trực


16

tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được giao
đất nông nghiệp trong hạn mức quy định tại Điều 129 của Luật này".
Theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014
"Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả
hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo
thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết
theo quy định tại Điều 59 của Luật này.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử
dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần
giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng".
Điểm khác biệt trong quy định của pháp luật về việc Nhà nước cho vợ
chồng thuê đất đó là dù giao cho cả hai vợ chồng hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng
trong thời kỳ hôn nhân thì đều là tài sản chung của vợ chồng
b. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được từ thu nhập hợp pháp trong
thời kỳ hôn nhân
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng cùng nhau chung sức tạo lập của cải vật
chất để phục vụ cho nhu cầu sống chung của gia đình. Thông thường tài sản do
vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân đều được xác định là tài sản chung vợ
chồng. Những tài sản đó có thể là do vợ và chồng cùng trực tiếp lao động, hoặc do
một trong hai bên trực tiếp lao động để làm ra sản phẩm, sản phẩm đó để dùng
trong gia đình, còn dư ra, đem bán để có sự tích lũy, cũng có thể toàn bộ sản phẩm

do vợ chồng làm ra đều đem bán, tạo ra thu nhập cho gia đình; tài sản chung cũng
có thể hình thành qua việc được trả công lao động, thuê người khác làm, do tổ
chức sản xuất, kinh doanh mà có v.v… Có thể thấy rằng thông qua sức lao động
của vợ, chồng được thể hiện dưới các hình thức khác nhau để tạo nguồn thu nhập,
tạo ra tài sản trong gia đình, dù các tài sản đó được hình thành dưới bất kỳ hình
thức nào (bao gồm cả quyền sử dụng đất).


17

Do đó, quyền sử dụng đất mà vợ chồng tạo dựng, có được từ nguồn thu
nhập hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ
chồng.
c. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho
chung hoặc vợ chồng nhận thế chấp
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được thừa kế chung, được tặng cho
chung hoặc vợ chồng nhận thế chấp là trường hợp xác lập tài sản chung của vợ
chồng dựa trên quyền định đoạt của chủ sử dụng hoặc theo quy định của pháp luật
về thừa kế.
d. Quyền sử dụng đất mà mỗi bên có được trước khi kết hôn do được
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, nhận thế chấp hoặc quyền sử dụng đất mà
mỗi bên được Nhà nước giao, cho thuê trước khi kết hôn có thỏa thuận là tài sản
chung
Quyền sử dụng đất mà mỗi bên có được trước khi kết hôn hay được thừa
kế riêng là tài sản riêng của mỗi người. Nhưng khi hai vợ chồng thỏa thuận là tài
sản chung, nó sẽ là tài sản chung và khi ly hôn, tài sản này sẽ được chia cho cả hai
vợ chồng. Trong cuộc sống hôn nhân, nhu cầu ăn chung, ở chung, vì lợi ích chung
của gia đình đã khiến một bên vợ hoặc chồng tự nguyện đưa tài sản riêng của
mình vào khối tài sản chung để dễ quản lý, sử dụng, đảm bảo tốt nhất nhu cầu
thiết yếu của gia đình.

Trong thực tế hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng chỉ đồng ý tài sản riêng của
mình là tài sản chung của vợ chồng qua "lời nói", do vậy khi xảy ra tranh chấp,
bên cho rằng tài sản đó thuộc sở hữu chung có nghĩa vụ chứng minh, nếu không
chứng minh được thì nó vẫn là tài sản riêng của bên kia.
e. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước công nhận trong thời
kỳ hôn nhân
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước công nhận trong thời kỳ
hôn nhân là trường hợp mà vợ chồng được Nhà nước công nhận quyền sử dụng
đất từ việc chia tách, sáp nhập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm


18

quyền, từ kết quả của việc giải quyết tranh chấp của Tòa án hay của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một trong những căn cứ xác định
quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng. Có thể nói đây là chứng cứ pháp
lý quan trọng chứng minh quyền của chủ sử dụng đất và là căn cứ pháp lý quan
trọng để giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất.
f. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường trong thời
kỳ hôn nhân
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường khi thu hồi
đất trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Nếu quyền sử dụng đất
Nhà nước thu hồi là tài sản riêng của mỗi bên vợ hoặc chồng, khi Nhà nước thực
hiện chính sách bồi thường thì giá trị quyền sử dụng đất đó được nhà nước bồi
thường là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng.
Theo Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 quy định: "Việc bồi
thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất
thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất
cụ thể của loại đất thu hồi do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm

quyết định thu hồi đất". Qua đó chúng ta có thể thấy rằng, nếu quyền sử dụng đất
mà mỗi bên vợ chồng có được do Nhà nước bồi thường từ quyền sử dụng phần
đất bị thu hồi sẽ là tài sản riêng của mỗi bên nếu phần quyền sử dụng đất bị thu
hồi ban đầu là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng, do đó không phát sinh sở hữu
chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng được Nhà nước bồi thường là tài sản
chung khi một bên vợ hoặc chồng tự nguyện sát nhập tài sản riêng vào khối tài sản
chung của vợ chồng.
1.1.3. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: "Tranh chấp đất đai là
tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên
trong quan hệ đất đai".


19

Qua đó ta có thể thấy được, khái niệm "tranh chấp đất đai" là tranh chấp
một tổng thể những yếu tố hợp nhất chứ không phải là việc tranh chấp từng quyền
và nghĩa vụ đơn lẻ hay tranh chấp về quyền và nghĩa vụ khác của người sử dụng
đất có liên quan đến các quyền và nghĩa vụ nêu trên. Cách hiểu này đặt khái niệm
tranh chấp đất đai trong mối quan hệ không thể tách rời với tất cả các quy định có
liên quan, chứ không phải cô lập nó hoặc đặt nó lên trên tất cả các quy định khác
nhằm phát huy trí tưởng tượng một cách thái quá, dẫn đến những suy diễn không
phù hợp. Có nghĩa là, không thể "trộn lẫn" tranh chấp đất đai với những tranh
chấp dân sự thuần túy có liên quan đến đất đai.
Tranh chấp đất đai là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định
quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát sinh trực
tiếp hoặc gián tiếp trong quản lý và sử dụng đất đai.
Vậy từ đó ta có thể rút ra một định nghĩa như sau: Tranh chấp đất đai là
tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ đất đai về quyền và nghĩa
vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất.

Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xét giải quyết tranh chấp đất đai là
một trong những biện pháp quản lý nhà nước đối với đất đai. Đó là biện pháp vô
cùng quan trọng để pháp luật đất đai phát huy được vai trò của mình trong đời
sống xã hội.
Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng các quy định của
pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của
nhân dân.
Theo quy định tại Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
thì "Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án". Hay nói cách khác, ly hôn là sự chấm dứt quan hệ vợ
chồng trước pháp luật. Sau khi kết hôn vì những lý do nhất định, mục đích hôn
nhân không đạt được, vợ chồng mâu thuẫn, quan điểm sống không thể dung hòa,
đời sống chung không thể kéo dài làm ảnh hưởng đến các thành viên khác trong


20

gia đình và ảnh hưởng đến việc nuôi dạy giáo dục con cái. Vì thế ly hôn là giải
pháp cho cả hai bên để mỗi bên tự tìm hạnh phúc cho mình. Qua đó đảm bảo
quyền tự do, bình đẳng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân mỗi
người theo quy định của pháp luật.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tranh chấp
quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn như sau: Tranh chấp quyền sử dụng đất
khi vợ ly hôn là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng và những người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về đất đai khi quan hệ hôn nhân của họ chấm dứt
và tranh chấp về quyền sử dụng đất đó được Tòa án thụ lý để giải quyết.
1.1.4. Phân loại tranh chấp về Quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn
Quyền sử dụng đất của vợ chồng có thể được tạo ra bằng nhiều hình thức,
từ nhiều nguồn khác nhau, việc phân loại tranh chấp về Quyền sử dụng đất của vợ
chồng khi ly hôn giúp xác định nguồn gốc, cách thức hình thành tài sản là quyền

sử dụng đất, từ đó có cái nhìn đúng đắn về bản chất của tranh chấp và đưa ra
hướng giải quyết chính xác hơn. Tranh chấp về quyền sử dụng đất có thể chia
thành các loại sau đây:
Trường hợp quyền sử dụng đất tạo lập trước thời kỳ hôn nhân nhưng là
tài sản chung của vợ chồng.
Có thể trước khi kết hôn, mỗi cá nhân đã tạo lập được cho mình khối tài
sản riêng là quyền sử dụng đất và sau khi kết hôn, đã góp vào khối tản sản chung
để xây dựng gia đình. Trên thực tế, có trường hợp vợ chồng thỏa thuận và lập
thành văn bản với nội dung rõ ràng là sáp nhập phần tài sản riêng trong đó có
quyền sử dụng đất vào khôi tài sản chung của vợ chồng, có trường hợp cả hai sau
một thời gian chung sống mặc nhiên sử dụng và coi phần tài sản riêng của người
còn lại là tài sản chung, chính điều này dẫn đến khi ly hôn, vấn đề tranh chấp
quyền sử dụng đất mới xảy ra.
Trường hợp quyền sử dụng đất tạo lập trong thời kỳ hôn nhân nhưng Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất lại chỉ đứng tên một người hoặc vợ hoặc chồng


21

Trên thực tế, đa phần các gia đình, đặc biết là ở vùng miền núi, đồng bào
dân tộc vẫn giữ tư tưởng gia trưởng, trong gia đình người chồng là người đứng
tên, giữ hầu hết tài sản trong gia đình, các giao dịch liên quan đến đăng ký Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thường chỉ có một người đứng tên. Vợ và chồng
thỏa thuận đứng tên một người hoặc vợ hoặc chồng trên Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đến khi có tranh chấp xảy ra lại cho rằng: Thỏa thuận đứng tên một
người trên giấy chứng nhận chỉ có ý nghĩa thay mặt đứng tên, còn quyền sử dụng
đất vẫn là tài sản chung của vợ chồng; ngược lại cho rằng thỏa thuận đứng tên một
người trên Giấy chứng nhận thực chất là thỏa thuận tài sản là quyền sử dụng đất
đó là tài sản riêng, người không đứng tên không có quyền đối với quyền sử dụng
đất đó dẫn đến tranh chấp. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định tại

khoản 3, Điều 33: Trường hợp không có căn cứ chứng mình tài sản của vợ, chồng
đang tranh chấp là tài sản riêng thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản cùng tạo lập chung với cha mẹ,
anh chị em con cái của bên vợ hoặc bên chồng và quyền sử dụng đất mang tên hộ
gia đình
Không ít các cặp vợ chồng sau khi kết hôn sống chung với bố mẹ chồng
hoặc bố mẹ vợ và cùng góp tiền, tài sản để thực hiện mua bán nhà đất là điều phổ
biến. Trong trường hợp này, khi góp tiền với bố mẹ, anh chị em ruột thịt thường
không thể hiện bằng văn bản hoặc giấy tờ chứng minh số tiền góp hoặc tài sản cụ
thể là bao nhiêu. Vợ, chồng cùng các thành viên trong gia đình có công sức tôn
tạo, xây dựng các công trình trên đất và khi kê khai cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình.
Khi ly hôn, tất yếu sẽ xảy ra tranh chấp, vấn đề quan tâm ở đây là xác định các
phần tài sản của vợ chồng đã đóng góp trong khối tài sản chung được tạo lập cùng
cha mẹ, anh em...
Trường hợp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất không cùng chủ sở hữu
và sử dụng hợp pháp của vợ chồng trong hôn nhân


×