Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm nghệ thuật của việt nam trong môi trường kỹ thuật số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.69 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH

BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
CÁC TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT CỦA VIỆT NAM
TRONG MÔI TRƢỜNG KỸ THUẬT SỐ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng
theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Thị Hồng Hạnh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐHQG



: Đại học Quốc gia

ISP

: Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (Internet Service Providers)

SHTT

: Sở hữu trí tuệ

WCT

: Hiệp

ước của

WIPO

về

Quyền

tác

giả

(The

WIPO


Copyright Treaty)
WIPO

: Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property
Organization)

TRIPs

: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (The Agreement on Trade-Related Aspects of
Intellectual Property Rights)

WTO

: Tổ chức thương mại Thế giới (World Trade Organization)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1.

Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 1

2.

Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 2

3.


Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài............................... 4

4.

Mục đích nghiên cứu của đề tài .................................................................. 4

5.

Phương pháp nghiên cứu đề tài .................................................................. 5

6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.................................................... 5

7.

Bố cục của luận văn .................................................................................... 6

CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ BẢO
HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT TRONG
MÔI TRƢỜNG KỸ THUẬT SỐ ......................................................................... 7
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm nghệ thuật .................................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả ........................................................................ 7
1.1.2. Nội dung quyền tác giả ....................................................................... 10
1.1.3. Đặc điểm của quyền tác giả ................................................................ 13
1.1.4. Khái niệm tác phẩm nghệ thuật........................................................... 15
1.1.5. Khái niệm, mục đích của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
nghệ thuật ...................................................................................................... 16

1.1.6. Đặc điểm của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật17
1.2. Môi trường kỹ thuật số và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ
thuật trong môi trường kỹ thuật số .................................................................... 18


1.2.1 Khái quát về môi trường kỹ thuật số .................................................... 18
1.2.2. Thách thức của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật
trong môi trường kỹ thuật số. ........................................................................ 20
1.3. Các điều ước quốc tế có liên quan về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số ................................................. 21
1.3.1. Công ước Berne bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật ............ 21
1.3.2. Hiệp ước của WIPO về Quyền tác giả (WCT) (1996) ........................ 21
1.3.3. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs) ....................................................................... 22
1.4. Sự phát triển của pháp luật việt nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số ................................................. 23
1.4.1 Trước khi Luật Sở hữu trí tuệ 2005 ban hành ...................................... 23
1.4.2 Từ khi Luật Sở hữu trí tuệ 2005 ban hành ........................................... 24
CHƢƠNG 2 PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT
TRONG MÔI TRƢỜNG KỸ THUẬT SỐ - THỰC TIỄN ÁP DỤNG .......... 27
2.1. Những bộ phận cấu thành của quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số
theo các điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam............................................. 27
2.1.1. Đối tượng bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ........... 27
2.1.2. Chủ thể của quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số .................... 30
2.1.3. Cơ chế bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ................ 34
2.1.4. Nội dung quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ........................ 35
2.1.5. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ............. 40



2.2. Các biện pháp bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật trong môi
trường kỹ thuật số theo điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam .................... 42
2.2.1. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật trong
môi trường kỹ thuật số theo điều ước quốc tế ............................................... 42
2.2.2. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật trong
môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam .......................................... 45
CHƢƠNG 3 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ
ĐỐI VỚI TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT TRONG MÔI TRƢỜNG KỸ
THUẬT SỐ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CÁC BIỆN PHÁP
BẢO VỆ ................................................................................................................ 56
3.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
nghệ thuật của Việt Nam trong môi trường kỹ thuật số.................................... 56
3.1.1. Thực tiễn bảo vệ tại Việt Nam ............................................................ 56
3.1.2. Thực tiễn bảo vệ trên thế giới ............................................................. 62
3.2. Nhu cầu cần hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số ........................................................... 65
3.2.1. Xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế................................................ 65
3.2.2. Xuất phát từ nhu cầu nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số ....................................... 66
3.3. Tiêu chí đánh giá tính hiệu quả của các biện pháp nâng cao hiệu quả thực
thi các biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật trong môi
trường kỹ thuật số.............................................................................................. 68
3.4. Các kiến nghị đối với việc hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số ..................................... 69


3.4.1. Ban hành một văn bản pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi
trường kỹ thuật số.......................................................................................... 69
3.4.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về quyền tác giả trong
môi trường kỹ thuật số .................................................................................. 70

3.5. Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các biện pháp bảo vệ
quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số ........ 71
3.5.1. Nâng cao năng lực kiểm tra, xử lý hành chính các hành vi xâm phạm
quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số .................................................. 71
3.5.2. Nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật của người sử dụng............. 72
3.5.3. Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo hộ và bảo vệ quyền tác giả
trong môi trường kỹ thuật số ......................................................................... 72
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền tác giả nói riêng trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng trở nên đặc biệt quan trọng
và bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Trí tuệ vốn là tài sản của
công dân, vì vậy, bản thân các quan hệ của quyền tác giả, quyền tác giả quyết định nội
dung pháp luật bảo hộ nó. Chưa bao giờ các vấn đề liên quan đến việc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ (SHTT) lại đặt ra gay gắt, cấp bách như hiện nay. Trong tiến trình hội
nhập về kinh tế, Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế cả song phương lẫn đa
phương có nội dung liên quan đến vấn đề SHTT. Có thể thấy, bên cạnh Hiệp định
TRIPs, Công ước Berne, Hiệp ước WCT, hầu hết các hiệp định thương mại tự do cả
song phương lẫn đa phương đều có nội dung điều chỉnh vấn đề quyền sở hữu trí tuệ.
Hơn nữa, với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển của khoa học công nghệ
sẽ chuyển hóa toàn bộ thế giới thực của chúng ta sang thế giới số, nơi mà mạng
Internet sẽ kết nối vạn vật. Chính phương thức kết nối này thay đổi cách tiếp cận của
con người ở hầu hết tất cả các lĩnh vực, bao gồm cả các quan hệ sở hữu trí tuệ. Trong
môi trường kỹ thuật số, với sự trợ giúp của các thiết bị công nghệ, các chủ thể có thể
dễ dàng xác lập và thực thi quyền tác giả. Mặt khác, tính chất “lan truyền” nhanh dữ
liệu kỹ thuật số thông qua kết nối mạng máy tính đã tạo cơ hội cho người dùng mạng
vừa tiếp cận quyền tác giả một cách nhanh nhất, và là mảnh đất màu mỡ cho hành vi

xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực này. Trong thời gian khoảng hơn mười năm
trở lại đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo hộ, nhưng thực
tiễn áp dụng chưa mang lại hiệu quả cao. Thực tế cho thấy, hiện nay, tình trạng vi
phạm quyền tác giả diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực với các hình thức và mức độ khác
nhau, nhất là trong lĩnh vực điện ảnh, âm nhạc, ấn phẩm điện tử (sách, báo điện tử) và
phầm mềm máy tính… Ví dụ, tại Việt Nam đang có khoảng 400 website phim vi
phạm bản quyền1; trong lĩnh vực bản quyền truyền hình, theo thống kê của Cục phát
thanh, truyền hình và thông tin điện tử, có tới 83 website có dấu hiệu vi phạm bản

1

Mai Phương, Website phim lậu lấn át phim có bản quyền, Báo điện tử VTV News ngày 29/07/2017
/>1


quyền truyền hình trên mạng Internet2. Đáng chú ý, những hành vi xâm phạm quyền
tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật cũng khá phổ biến, được thực hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau. Tình trạng này gây thiệt hại và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động sáng tạo, môi trường phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước và tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn: "Bảo hộ quyền tác giả đối với các
tác phẩm nghệ thuật của Việt Nam trong môi trường kỹ thuật số" để làm đề tài cho
luận văn cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne vào cuối năm 2004, rồi trở thành
thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2005, sở
hữu trí tuệ mới trở thành một vấn đề hàn lâm thực sự nóng hổi. Nhiều công trình
nghiên cứu, hội thảo bảo hộ quyền tác giả đã được Bộ Văn hóa thông tin và Cục bản
quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam thời điểm đó tổ chức, chủ trì. Tiêu biểu
như Hội thảo WIPO về vai trò quyền tác giả trong ngành công nghiệp xuất bản được

tổ chức vào năm 20053. Thành quả của những nghiên cứu đó chính là sự ra đời của
các quy định về bảo hộ quyền tác giả trong các văn bản luật ra đời sau đó như Luật
xuất bản, Luật báo chí và đặc biệt là Luật sở hữu trí tuệ.
Vấn đề Bảo hộ quyền tác giả trước những xâm phạm trong môi trường kỹ thuật số
vẫn còn là lĩnh vực còn mới mẻ đối với Việt Nam nên việc nghiên cứu nhằm giải
quyết vấn đề vẫn chưa có những dấu ấn rõ rệt. Trong phạm vi khoa học pháp lý, mới
chỉ có một số công trình nghiên cứu trong nước về bảo hộ quyền tác giả trên môi
trường kỹ thuật số đến từ các cơ sở đào tạo luật như tại Đại học Luật Hà Nội, Khoa
Luật – ĐHQG Hà Nội. Cách tiếp cận của đa số các công trình nghiên cứu nói trên
thường là dưới góc nhìn của chuyên ngành luật dân sự. Có thể kể đến một số công
trình như sau:
- Quản Tuấn An, Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường kỹ
thuật số, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học – chuyên
ngành luật dân sự tại Đại học Luật Hà Nội, năm 2009.
2

/>3
/>2


- Lê Hải, Nguyên nhân vi phạm quyền tác giả trong môi trường internet, bảo vệ
tốt nghiệp cử nhân năm 2012 tại Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội chuyên ngành
luật dân sự.
- Phạm Hồng Hải, Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn thạc sỹ - Hà Nội, 2003.
Do phạm vi nghiên cứu của luận văn không chỉ giới hạn trong phạm vi pháp luật
bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam mà còn phân tích các quy định về bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật theo các Điều ước quốc tế và pháp luật nước
ngoài. Do vậy trước khi đi sâu nghiên cứu, cần phải xem xét một số công trình nghiên
cứu từ một số quốc gia trên thế giới với nội dung gần với chủ đề của luận văn. Trong

đó có thể kể đến các công trình nghiên cứu như:
- Công trình nghiên cứu của Robert A. Cinque, Making Cybcrspace Safe for
Copyright: The Protection of Electronic Works in a Protocol to the Berne
Convention, 18 Fordham Intternational Law Joumal (1995), tr. 1275
- Báo cáo của Trung tâm nghiên cứu chính sách châu Âu tại Bỉ với tiêu đề:
“Quyền tác giả trong thị trường kỹ thuật số chung châu Âu”
- Công trình nghiên cứu của Cục công nghiệp và thương mại Hồng Kông về
“Bảo vệ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số”
- Công trình nghiên cứu của Mihály Ficsor, báo cáo tại Hội nghị quốc tế về
quyền tác giả và quyền con người trong thời đại thông tin: Xung đột hay hài
hòa cùng tồn tại? với tiêu đề: “Cân bằng quyền tác giả với tư cách một quyền
con người với các quyền con người khác”
- Công trình nghiên cứu của Primavera De Filippi, “Quyền tác giả trong môi
trường kỹ thuật số: Từ sở hữu trí tuệ đến tài sản vô hình”
Trong các công trình nêu trên, việc bảo vệ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật
số, cụ thể là môi trường Internet, thường được coi là một vấn đề còn tương đối mới
mẻ và vẫn chưa dành được sự quan tâm đúng mức của xã hội, đặc biệt là ở Việt Nam.
Trong phạm vi nghiên cứu của các đề tài nêu trên, các vấn đề về cơ sở lý luận, cơ sở
pháp lý và thực tiễn thực thi cũng như kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật đã lần
lượt được nêu lên dưới góc độ nhận thức của các tác giả trên cơ sở tham khảo một số
quan điểm chung hiện nay về vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật
số. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập chuyên sâu, tập trung

3


vào những đặc điểm khác biệt của quyền tác giả đối với các tác phẩm nghệ thuật và
biện pháp bảo vệ những quyền đó trong môi trường kỹ thuật số.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam, quy
định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia cũng như quy định của pháp
luật một số nước khác về vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm nghệ thuật
trong môi trường kỹ thuật số.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm nghệ thuật của Việt Nam trong môi trường kỹ thuật số:
Phương diện lý luận: quy định của pháp luật liên quan đến các việc bảo hộ quyền
tác giả tại Việt Nam qua các thời kỳ; các quy phạm điều chỉnh điều kiện về bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật của Việt Nam trong môi trường kỹ thuật số
trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia;
Phương diện thực tiễn: việc vận dụng các quy định pháp luật trong giải quyết
những trường hợp cụ thể liên quan đến bảo hộ quyền tác giả; tác động những quy
phạm hiện hành đối với các chủ thể kinh tế, người dụng mạng Internet, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong hiện tại và tương lai.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu, phân tích các trường hợp, vụ việc trên thực tế, từ đó rút ra
những hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật trong việc bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số và đánh giá
việc áp dụng pháp luật về vấn đề bảo hộ nói trên, từ đó xác định nguyên nhân của
những hạn chế nêu trên để đề xuất các biện pháp kiến giải nhằm nâng cao hiệu quả
công tác thực thi pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật trong
môi trường kỹ thuật số.
Để đạt được những mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau
đây:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
nghệ thuật
+ Đánh giá toàn diện về thực trạng hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số ở nước ta hiện nay;
4



+ Tìm ra những hạn chế, bất cập trong các quy định về bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số hiện nay ở nước ta;
+ Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện vào hệ thống pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số nói
riêng nhằm đáp ứng yêu cầu bảo hộ quyền tác giả và nhu cầu phát triển kinh tế, nhu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Khóa luận được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ đối với quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số. Tác giả đã sử dụng
các phương pháp chủ yếu là phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử kết hợp phương pháp phân tích tổng hợp, các phương pháp đối
chiếu so sánh, thống kê, quy nạp để rút ra bản chất của các sự vật, hiện tượng thuộc
đối tượng nghiên cứu. Cụ thể như sau:
Phương pháp tập hợp, nghiên cứu tài liệu, bao gồm cả việc nghiên cứu các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành, các văn bản pháp luật liên quan quan trọng qua các
thời kỳ để làm rõ nội hàm khái niệm quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số. Để đánh giá từng biện pháp bảo hộ
quyền tác giả, phương pháp phân tích, so sánh được tác giả sử dụng.
Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu và khảo sát thực tiễn được vận dụng nhằm
tìm ra những vụ việc thể hiện rõ bất cập, hạn chế của quy định pháp luật khi được áp
dụng trên thực tế. Từ đó, tác giả đánh giá nguyên nhân và đề ra giải pháp cho những
hạn chế nêu trên.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số và vấn đề còn tương đối mới
mẻ ở Việt Nam và vẫn chưa dành được sự quan tâm của xã hội đúng như tầm quan
trọng của nó. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, các vấn đề về cơ sở lý luận, cơ sở
pháp lý và thực tiễn thực thi cũng như kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật đã lần

lượt được nêu lên dưới góc độ nhận thức của cá nhân tác giả trên cơ sở tham khảo một
số quan điểm chung hiện nay về vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ
thuật số. Trước hết, luận văn nêu và phân tích đặc điểm của các khái niệm mới như
“tác phẩm nghệ thuật” hay “môi trường kỹ thuật số”. Đồng thời dựa trên cơ sở lý luận
về những vấn đề cơ bản về bảo hộ quyền tác giả đó, những vấn đề pháp lý sẽ lần lượt
5


được đề cập trong luận văn, đưa ra một góc nhìn khái quát về thực trạng bảo hộ quyền
tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở nước ta cũng như trên thế giới.
Về phương diện thực tiễn, luận văn nghiên cứu cách thức vận dụng pháp luật của
các chủ thể quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số, đặc biệt là việc áp dụng những
biện pháp giải quyết tranh chấp, các biện pháp công nghệ kỹ thuật để đảm bảo các
quyền và nghĩa vụ hợp pháp được đảm bảo thực thi. Từ đó, đưa ra các kiến nghị, đề
xuất nhằm hoàn thiện khung pháp lý về quyền tác giả và quyền tác giả trong môi
trường kỹ thuật số.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số
Chương 2: Pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm nghệ thuật trong môi trường kỹ thuật số - thực tiễn áp dụng
Chương 3: Giải pháp bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật trong môi

trường kỹ thuật số và nâng cao hiệu quả thực thi các biện pháp bảo vệ

6


CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ BẢO HỘ QUYỀN
TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT TRONG MÔI TRƢỜNG
KỸ THUẬT SỐ

1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả
Việc bảo hộ quyền tác giả luôn hướng tới mục đích khuyến khích các hoạt
động sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và khoa học, để tạo ra thành quả là
những tác phẩm có giá trị trong những lĩnh vực trên, từ đó làm giàu và phong phú nền
tảng văn hóa quốc gia, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế, thương mại, văn
hóa, giáo dục của đất nước. Thực tế chứng minh là tại các quốc gia phát triển, nền
công nghiệp bản quyền thường có đóng góp rất lớn vào nên kinh tế quốc dân, có khi
chiếm tỉ trọng tới 10% GDP4. Vì vậy, hoạt động bảo hộ quyền tác giả là một điều kiện
thiết yếu đối với quá trình phát triển kinh tế, và phải đảm bảo được tiến hành một cách
có hiệu quả.
Pháp luật có vai trò quan trọng trong hoạt động bảo hộ quyền tác giả. Trong
khoa học pháp lý, hoạt động bảo hộ quyền tác giả được hiểu là việc thông qua các quy
định pháp luật, nhà nước trao cho các chủ thể quyền hoặc ngăn cấm các chủ thể thực
hiện những hành vi cụ thể. Tất cả những biện pháp đó không chỉ đảm bảo hướng tới
lợi ích của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, mà còn tạo điều kiện cho cộng đồng có
thể tiếp cận được tác phẩm một cách hợp pháp. Để làm được điều đó, trước hết, pháp
luật phải có quy định chung và thống nhất về khái niệm quyền tác giả.
Quyền tác giả là một khái niệm tương đối phức tạp. Dưới góc độ tự nhiên,
quyền là những đòi hỏi tất yếu, đương nhiên hay quyền tự thân của chủ thể. Theo từ
điển tiếng Việt, “quyền” là điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng,
được làm, được đòi hỏi5, còn “tác giả” là người sáng tạo ra một tác phẩm văn học,
nghệ thuật hoặc khoa học nào đó. Điều đó có nghĩa “quyền” của một cá nhân, một chủ
thể nhất định được hình thành một cách tự nhiên cùng với sự xuất hiện của chủ thể đó
4

5

WIPO - Guide ON Surveying the Economic Contribution of the Copyright Industries - 2015 Revised Edition, tr. 14
Trung tâm từ điển học-Viện ngôn ngữ học - Từ điển tiếng Việt – NXB Đà Nẵng năm 2003, tr. 814
7


mà không nhờ vào bất kỳ sự ban phát nào. Ví dụ như khi con người sinh ra có quyền
được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc. Theo cách hiểu nói trên, quyền là một
thuộc tính gắn liền với một chủ thể nhất định.
Tuy nhiên, do quyền tác giả là một khái niệm pháp lý, nên việc phân tích khái
niệm quyền tác giả cần phải được xem xét dưới góc nhìn của khoa học pháp lý, tức là
theo quy định của pháp luật. Do đó, để đưa ra một định nghĩa chính xác nhất cho thuật
ngữ này, ta phải xem xét và đánh giá nguồn gốc pháp lý của nó. Thực tế, thuật ngữ
“quyền tác giả” xuất phát từ sự biên dịch của thuật ngữ “copyright”, vốn đã tồn tại từ
cách đây hàng trăm năm.
Thuật ngữ “copyright” được cho là xuất hiện lần đầu vào thế kỷ XVIII tại Anh,
khi mà các nhà in sử dụng cụm từ “copy” gắn lên các bản sao sách mà họ được quyền
phân phối để thể hiện rằng bản sao của họ là hoàn toàn giống bản gốc và họ là những
nhà in được tác giả cho phép tạo ra các bản sao đó6. Thuật ngữ “copyright” đã được ra
đời như một sự khẳng định về quyền được sao chép các tác phẩm. Quyền này được
thừa nhận và thi hành bởi các nhà in tại Anh Quốc như một quy định nội bộ giữa các
công ty hoạt động trong ngành công nghiệp này7. Đến năm 17098, Nghị viện Anh ban
hành Đạo luật Anne (Statue of Anne) quy định rằng các tác giả được quyền sao chép
tác phẩm của mình, và được trao quyền đó cho công ty in ấn trong một thời gian nhất
định9. Kể từ thời điểm đó, “copyright” mới được xuất hiện dưới hình thức là một khái
niệm pháp lý. Như vậy, quyền tác giả, dưới dạng sơ khai nhất, chính là quyền được
sao chép ấn phẩm.
Bên cạnh thuật ngữ “copyright”, thuật ngữ “Author’s rights” cũng được sử
dụng để chỉ quyền của tác giả10. Nếu dịch ra tiếng Việt, thì “copyright” là “bản

quyền”, còn “author’s rights” là “quyền tác giả”. Hai khái niệm copyright và author’s
rights tại Việt Nam đều có chung nghĩa, đó là quyền tác giả. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến
cho rằng, “author’s rights” hướng tới quyền nhân thân, còn “copyright” nhấn mạnh
vào quyền tài sản của quyền tác giả.
Trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau
đây gọi là “Luật SHTT”), khái niệm quyền tác giả được quy định là: “quyền của tổ
6

Patterson, L. R., Copyright in Historic Perspective – Overview, Vanderbilt University, 1968, tr. 2
Patterson, L. R., Copyright in Historic Perspective – Overview, Vanderbilt University, 1968, tr.4
8
Do tại thời điểm đó, hệ thống lịch của Anh không giống thời nay, nên nhiều nhà sử học cho rằng, xét theo hệ thống
ngày tháng hiện đại, thì năm ban hành và năm có hiệu lực của Statue of Anne đều là 1710.
9
Ronan, Deazley (2006). Rethinking copyright: history, theory, language. Edward Elgar Publishing. tr. 13.
10
Xem Điều 1, Chỉ thị số 2006/116/EC của Nghị viện Châu Âu và Hội đồng châu Âu ngày 12/12/2006
7

8


chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.11 Căn cứ vào quy
định trên, thì quyền tác giả được hiểu theo hai phương diện:
Về phương diện khách quan: Quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật
về những điều mà tác giả, chủ sở hữu được làm đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra
hoặc sở hữu. Các quy phạm này nhằm xác lập và bảo vệ quyền của tác giả, của chủ sở
hữu quyền tác giả, xác định các nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử
dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Quy định trình tự thực hiện và bảo
vệ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm.

Về phương diện chủ quan: Quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể, bao gồm
quyền tài sản và quyền nhân thân của chủ thể với tư cách là tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả đối với một tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học và quyền khởi
kiện, khiếu nại, tố cáo khi quyền của mình bị xâm phạm12.
Ngoài ra, quyền tác giả còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự giữa tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả với các chủ thể khác trong xã hội thông qua tác phẩm,
dưới sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật, quan hệ giữa các chủ thể nêu trên có
thể hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt. Với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự,
quan hệ pháp luật về quyền tác giả được xác định bởi các yếu tố sau đây:
Chủ thể của quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật bao gồm
tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hay
một phần tác phẩm13. Bên cạnh tác giả, ta còn có khái niệm đồng tác giả. Đó là những
người cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Bên cạnh tác giả, ta còn có khái niệm đồng
tác giả. Đó là những người cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. “Sáng tạo” trong quan
hệ pháp luật dân sự về quyền tác giả được coi là việc “sử dụng sức lao động và khả
năng suy xét” để tạo ra tác phẩm. Đáng chú ý, Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp
tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả hoặc
đồng tác giả14. Như vậy, tác giả (đồng tác giả) là người tạo ra tác phẩm từ lao động trí
óc.

11

Khoản 2 Điều 4 Luật SHTT
Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam – NXB Công an nhân dân – Hà Nội, 2008,
tr. 34
13
Khoản 1 Điều 13 Luật SHTT; Khoản 1 Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP của chính phủ ngày 23/02/2018 (Nghị
định 22/2018/NĐ-CP)
14
Khoản 1 Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP

12

9


Chủ sở hữu quyền tác giả là người độc quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm15.
Trong đa số các trường hợp, tác giả sẽ đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy
nhiên, nếu tác phẩm được hình thành do có các tổ chức, cá nhân thuê, giao nhiệm vụ
cho tác giả thì các tổ chức, cá nhân này sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả. Ngoài ra,
người được chuyển giao quyền tác giả, hay người thừa kế của tác giả đồng thời là chủ
sở hữu quyền tác giả cũng là chủ sở hữu quyền tác giả. Có nhiều trường hợp tác giả
không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả và ngược lại. Việc phân biệt giữa tác giả
và chủ sở hữu quyền tác giả là quan trọng, vì chủ sở hữu quyền tác giả mới chính là
người có quyền sử dụng định đoạt tác phẩm.
Khách thể của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình
khoa học do tác giả sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ. Theo quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ, các sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, dù được thể
hiện bằng hình thức nào, đều được coi là tác phẩm.16
1.1.2. Nội dung quyền tác giả
Nội dung quyền tác giả là tổng hợp các quyền cụ thể của các chủ thể được
hưởng quyền này. Như đã phân tích ở phần trước, chủ thể của quyền tác giả là tác giả
và chủ sở hữu quyền tác giả. Như vậy quyền tác giả không chỉ đơn thuần là quyền của
người sáng tạo ra tác phẩm mà còn là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả. Hiện nay,
theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền tác giả bao gồm hai nhóm quyền lớn
sau: quyền nhân thân và quyền tài sản.17
- Quyền nhân thân
Dựa trên quy định của pháp luật dân sự, có thể cho rằng quyền nhân thân bao
gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản18. Các
quyền nhân thân không gắn với tài sản là những quyền gắn liền với nhân thân của tác
giả và không thể chuyển giao, bao gồm ba quyền: quyền được đặt tên tác phẩm, đứng

tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của nội dung tác phẩm. Nếu chúng ta ví tác phẩm
là đứa con tinh thần của tác giả, thì các quyền nhân thân này cũng tương tự quyền của
cha mẹ được đặt tên cho con, nhận con và bảo vệ chăm sóc con cái19. Vì những quyền
15

Theo quy định tại Điều 36 Luật SHTT, những quyền cụ thể mà chủ sở hữu quyền tác giả có thể nắm giữ là những
quyền tài sản, được quy định tại Điều 20 của Luật này
16
Khoản 7 Điều 4 Luật SHTT
17
Điều 18 Luật SHTT;
18
Khoản 1 Điều 17 Bộ luật dân sự năm 2015, ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2015 (Sau đây gọi là “BLDS 2015)
19
Phạm Hồng Hải - Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam – Luận văn thạc sỹ
- Hà Nội, 2003, tr. 8
10


nhân thân nói trên gắn với nhân thân của tác giả nên nó chỉ dành cho tác giả (cho dù
đồng thời hay không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả) và ảnh hưởng trực tiếp
đến uy tín và danh dự của tác giả. Nói cách khác, các quyền này tồn tại một cách độc
lập đối với quyền tài sản, gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác
phẩm đã được chuyển giao. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được bảo hộ
vô thời hạn, khác với những quyền khác được bảo hộ có thời hạn20.
Bên cạnh quyền nhân thân không gắn với tài sản, tác giả còn có quyền nhân
thân gắn với tài sản. Đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm
của mình. Nhiều ý kiến cho rằng, trước kia khi chưa có quyền tác giả, những người
sáng tạo ra các tác phẩm vẫn có quyền đặt tên, đứng tên, bảo vệ sự toàn vẹn của tác
phẩm của mình, sử dụng tác phẩm hay nhận thù lao, giải thưởng. Do đó việc ghi nhận

quyền tác giả, ở góc độ quyền nhân thân, không mang lại cho các chủ thể nhiều quyền
hơn so với trước đây. Tuy nhiên, quyền nhân thân của tác giả/chủ sở hữu quyền tác
giả, đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác phẩm, vì thế nó chỉ dành
cho chủ sở hữu quyền tác giả và tác giả nếu như tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu
quyền tác giả. Chính điều này này làm phát sinh bản chất độc quyền của quyền tác
giả.
- Quyền tài sản
Theo pháp luật dân sự Việt Nam, quyền tài sản là những quyền có thể trị giá
được bằng tiền21. Quyền tài sản với đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các
quyền được liệt kê tại Điều 20 Luật SHTT. Theo đó, những chủ thể mang quyền có
quyền sử dụng và quyền được khai thác tác phẩm dưới các hình thức do pháp luật quy
định và chuyển giao các quyền này cho những người khác. Quyền tài sản bao gồm
quyền làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao chép tác
phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; Truyền đạt tác phẩm đến
công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ
phương tiện kỹ thuật nào khác; Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh,
chương trình máy tính22. Cụ thể như sau:

20

Lê Nết, Quyền sở hữu trí tuệ-Tập bài giảng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2005
Điều 115 BLDS 2015
22
Khoản 1 Điều 20 Luật SHTT
21

11


Làm tác phẩm phái sinh được hiểu là hành động dịch, phóng tác, cải biên,

chuyển thể, tuyển tập, chú giải (còn gọi là làm tác phẩm phái sinh)23. Khi một người
muốn dịch, cải biên, chuyển thể một tác phẩm, họ phải xin phép chủ sở hữu quyền tác
giả gốc, nếu thực hiện các hành vi nêu trên mà không có sự đồng ý của tác giả, thì sẽ
bị coi là xâm phạm quyền tác giả24.
Sao chép là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho
phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay
hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử. Sao chép khác
với trích dẫn. Trích dẫn là việc sử dụng một phần tác phẩm (không đáng kể) của
người khác để phục vụ mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được
đề cập trong tác phẩm của người trích dẫn25. Việc trích dẫn phải đảm bảo hợp lý,
không làm sai ý tác giả26, không “gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm
được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm
được sử dụng để trích dẫn”27 và phải nêu nguồn gốc tác phẩm. Các hành vi sử dụng
không phải là trích dẫn đều có thể bị coi là sao chép và phải được sự đồng ý của chủ
sở hữu quyền tác giả. Sao chép có thể tiến hành dưới dạng trực tiếp (chẳng hạn như
photocopy, sao chép bản thể hiện dưới dạng dữ liệu kỹ thuật số của tác phẩm) hay
dưới dạng gián tiếp (như dùng máy máy quay phim, chụp ảnh để quay phim chụp ảnh
lại nội dung sách).
Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là quyền của chủ sở hữu
quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất kỳ
hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho
thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm28.
Công bố, phổ biến, phát thanh, truyền hình: quyền này còn được gọi là quyền
"truyền thông đến công chúng" bao gồm các hành vi trình diễn, phân phối tác phẩm
đến một số lượng đáng kể người sử dụng. Như bao gồm trình diễn một vở kịch hay
một buổi hoà nhạc, phát hành một đĩa nhạc. Việc đưa một tác phẩm lên mạng ngày
nay cũng được coi là truyền thông đến công chúng.
23

Dựa trên định nghĩa về tác phẩm phái sinh tại Khoản 8 Điều 4 Luật SHTT: “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch

từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn.”
24
Khoản 7 Điều 28 Luật SHTT
25
Khoản 1 Điều 23 Nghị định 22/2018/NĐ-CP
26
Điểm b Khoản 1 Diều 25 Luật SHTT
27
Khoản 2 Điều 23 Nghị định 22/2018/NĐ-CP
28
Khoản 3 Điều 23 Nghị định 22/2018/NĐ-CP
12


Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác là quyền của
chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện
việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến công chúng mà công chúng có thể tiếp
cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn29.
Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy
tính quy định tại điểm e khoản 1 Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ là quyền của chủ sở
hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc cho
thuê để khai thác, sử dụng có thời hạn30.
Quyền cho thuê đối với chương trình máy tính không áp dụng trong trường hợp
bản thân chương trình đó không phải là đối tượng chủ yếu để cho thuê như chương
trình máy tính gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao thông
hoặc các máy móc, thiết bị kỹ thuật khác31.
Các quyền nêu trên do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện
hoặc cho phép người khác thực hiện32. Mọi hành vi khai thác, sử dụng một, một số
hoặc toàn bộ các quyền nêu trên đều phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các

quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả33.
Quyền nhân thân chính là tiền đề, là cơ sở để chủ thể hưởng quyền tài sản. Nói
cách khác, quyền tài sản chính là hệ quả pháp lý của quyền nhân thân. Thật vậy, nếu
tác giả không sáng tạo ra tác phẩm của mình, không có các quyền nhân thân đối với
tác phẩm như quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền cho phép hay không cho phép người
khác sử dụng tác phẩm của mình... thì tác giả không thể có quyền hưởng nhuận bút,
hưởng các lợi ích vật chất từ việc khai thác, sử dụng tác phẩm.
1.1.3. Đặc điểm của quyền tác giả
Quyền tác giả, dưới góc độ là một quan hệ pháp luật dân sự, có những đặc điểm
chính sau đây:
Thứ nhất, quyền tác giả có đối tượng là những tác phẩm mang tính sáng tạo, được
bảo hộ không phụ thuộc vào giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Theo quy định hiện
hành, đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối
29

Khoản 4 Điều 20 Luật SHTT
Khoản 5 Điều 20 Luật SHTT
31
Khoản 6 Điều 20 Luật SHTT
32
Khoản 2 Điều 20 Luật SHTT
33
Khoản 3 Điều 20 Luật SHTT
30

13


tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá34. Như

phân tích tại phần khái niệm quyền tác giả, tác phẩm là thành quả lao động sáng tạo
của tác giả và được thể hiện dưới hình thức nhất định. Như vậy, mọi cá nhân đều có
quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học, họ sẽ đương nhiên có quyền tác giả đối
với sản phẩm đó, bất kể nó được thể hiện dưới hình thức nào, nội dung là gì, có giá trị
hay không. Chỉ cần tác phẩm được tạo nên trực tiếp từ lao động trí tuệ của tác giả,
không phải sao chép từ người khác, thì sẽ phát sinh quyền tác giả. Về cơ bản, thì hầu
hết quyền tác giả đều được bảo hộ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng quyền tác giả cũng được
bảo hộ theo nguyên tắc chung đó là “không đi ngược lại lợi ích dân tộc, bôi nhọ vĩ
nhân, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác, vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã
hội…” 35.
Thứ hai, quyền tác giả tập trung bảo hộ hình thức thể hiện của tác phẩm. Quyền
tác giả chỉ được giới hạn trong phạm vi thể hiện cụ thể của tác phẩm. Điều đó có
nghĩa là, quyền tác giả chỉ phát sinh đối với những tác phẩm có tồn tại và có thể cảm
nhận được bằng cách này hay cách khác. Quyền tác giả loại không bao gồm ý tưởng
của tác giả khi sáng tạo tác phẩm bởi không ai có thể biết được suy nghĩ của người
khác nếu họ không thể hiện chúng. Những ý tưởng, kể cả cách sắp xếp, trình bày đã
có trong suy nghĩ của tác giả những chưa được thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức
nhất định thì không có căn cứ để công nhận và bảo hộ những điều chưa được bộc lộ ra
bên ngoài đó. Sự sáng tạo của tác giả không chỉ đem lại cho tác giả quyền mà còn
nhằm chống lại sự sao chép và sử dụng trái phép.
Thứ ba, quyền tác giả có cơ chế xác lập tự động. Hay nói cách khác, việc xác lập
quyền tác giả không yêu cầu chủ thể mang quyền thực hiện bất kỳ thủ tục đăng ký,
thông báo hay phải đáp ứng thể thức nhất định. Ngay từ khi tác phẩm dược sáng tạo ra
bằng hoạt động lao động trí óc, tác giả được bảo hộ về mặt pháp lý và có các quyền
của người sáng tạo mà không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục đăng ký nào. Do quyền
tác giả phát sinh dựa trên hoạt động sáng tạo, nên nó được xác lập một cách mặc
nhiên ngay khi mà tác phẩm được thể hiện dưới hình thức khách quan mà người khác
có thể nhận biết được. Việc đăng ký quyền tác giả, do đó, không phải là căn cứ phát
34


Khoản 1 Điều 3 Luật SHTT
Trường Đại học Luật Hà Nội - Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam – NXB Công an nhân dân – Hà Nội, 2008,
tr. 34
35

14


sinh quyền tác giả, mà chỉ được xem là có giá trị chứng minh của chủ sở hữu quyền
tác giả khi có tranh chấp, hoặc khiếu nại, tố cáo.
1.1.4. Khái niệm tác phẩm nghệ thuật
Như đã phân tích tại các phần trước, tác phẩm theo quy định của pháp luật Việt
Nam là các tác phẩm sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa
học. Với cách định nghĩa này, thì nghệ thuật có thể được coi như một lĩnh vực của
hoạt động sáng tạo, và ngang hàng với văn học và khoa học. Hơn nữa, Khoản 1 Điều
14 Luật SHTT đã đưa ra một danh mục gồm có 14 loại hình tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học được bảo hộ quyền tác giả, bao gồm: Tác phẩm văn học, khoa học,
sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký
tự khác; Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; Tác phẩm báo chí; Tác phẩm âm
nhạc; đ) Tác phẩm sân khấu; Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương
pháp tương tự (gọi chung là tác phẩm điện ảnh); Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng
dụng; Tác phẩm nhiếp ảnh; Tác phẩm kiến trúc; Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ
liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học; Tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian; Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu. Việc liệt kê các tác phẩm dựa trên
yếu tố loại hình của nó nhằm tạo điều kiện để pháp luật có những quy định cụ thể hơn,
hiệu quả hơn cho việc bảo hộ từng loại hình tác phẩm. Do đó, pháp luật cũng không
có quy định nào giúp phân loại 14 tác phẩm nêu trên thành các nhóm văn học, nghệ
thuật hay khoa học. Có ý kiến cho rằng, việc phân loại như vậy là không cần thiết, do
một trong những đặc điểm quan trọng của quyền tác giả là bảo hộ không phụ thuộc
vào nội dung của nó thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật hay khoa học. Tuy nhiên, tác

giả nhận thấy cần phải có những cơ chế đặc thù để bảo hộ quyền tác giả trong lĩnh vực
nghệ thuật trong thời đại số hóa. Do đó, việc xác định được loại hình tác phẩm nào là
tác phẩm nghệ thuật là cần thiết.
Theo từ điển Tiếng Việt, nghệ thuật là “hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng
hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ảnh hiện thực và truyền đạt tư tưởng,
tình cảm”36. Ngoài ra, trong công trình nghiên cứu của 3 Tác giả Nguyễn Mạnh Lân,
Trần Duy Hinh và Trần Trung Nhàn với tựa đề “Văn học dân gian và Nghệ thuật tạo
hình điện ảnh” do NXB Văn học xuất bản năm 2002, những học giả này đã liệt kê 7
lĩnh vực nghệ thuật theo danh sách thứ tự như sau: Văn Học, Múa, Âm nhạc, Hội họa,
Kiến trúc, Sân khấu và cuối cùng là Điện ảnh. Đối chiếu với 14 loại hình tác phẩm
36

Trung tâm từ điển học-Viện ngôn ngữ học - Từ điển tiếng Việt – NXB Đà Nẵng năm 2003, tr. 814
15


được bảo hộ trong luật SHTT, có thể cho rằng, những tác phẩm sau đây là tác phẩm
nghệ thuật: Tác phẩm âm nhạc; Tác phẩm sân khấu; Tác phẩm điện ảnh; Tác phẩm
tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; Tác phẩm nhiếp ảnh; Tác phẩm kiến trúc; Tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian.
Ngoài ra, còn một học thuyết khác trong việc định hình các loại hình nghệ
thuật, đó là học thuyết phân loại nghệ thuật thành hai trường phái tĩnh và động được
tác giả M. Kagan thuật lại qua cuốn sách “Sự định hình của nghệ thuật”37. Theo đó,
Nhà mỹ học người Nga M. Kagan đã kể rằng, chính nhà nghiên cứu nghệ thuật người
Đức Max Dessoir đã phát hiện ra vào thời hậu Aristote (Nhà triết học lừng danh thời
Hy lạp cổ đại) người ta đã định hình được 6 loại hình nghệ thuật khác nhau và căn cứ
vào tính chất của từng loại hình mà chia chúng thánh 2 nhóm Tĩnh (Kiến trúc, Điêu
khắc, Hội họa…) và Động (Âm nhạc, Thơ và Múa…).
Trong phạm vi của luận văn này, tác giả đưa ra khái niệm “tác phẩm nghệ
thuật” với phạm vi hẹp, chỉ bao gồm những tác phẩm nghệ thuật thuộc nhóm Tĩnh

theo phân loại của M. Kagan và được bảo hộ theo pháp luật SHTT Việt Nam. Theo
đó, “tác phẩm nghệ thuật” là các tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật sau: Tác phẩm
tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; Tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm kiến trúc. Có thể thấy,
những tác phẩm nêu trên có đặc điểm chung là có thể được lưu trữ trọn vẹn bằng dữ
liệu kỹ thuật số. Việc xác định khái niệm tác phẩm nghệ thuật nhằm mục đích xác
định những đặc thù của cơ chế bảo hộ trong môi trường kỹ thuật số.
1.1.5. Khái niệm, mục đích của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật
Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật là tổng hợp chế định pháp lý
nhằm bảo hộ bằng pháp luật những quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của tác
giả, chủ sở hữu tác phẩm nghệ thuật đối với toàn bộ hoặc một phần tác phẩm của
mình.
Việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật nhằm hai mục đích
chính sau đây:
Thứ nhất, để tạo điều kiện cho công dân phát huy được tài năng trong việc sáng
tạo những tác phẩm nghệ thuật chất lượng. Pháp luật SHTT và pháp luật dân sự đều
có những quy định nhằm khuyến khích, thúc đẩy năng lực sáng tạo trí tuệ của mỗi cá
nhân. Các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, của chủ thể liên quan và của
chủ sở hữu quyền tác giả ở Việt Nam là những khách thể được pháp luật bảo đảm
37

Kagan M. Morfologiya iskusstva (Morphology of art) – Leningrad Publishing house - 1971
16


thực hiện. Cơ chế bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật sẽ tạo ra những cơ
hội mới cho những tài năng nghệ thuật phát huy được năng khiếu của mình để cống
hiến cho dân tộc, cho nhân loại những tác phẩm nghệ thuật đậm nét nhân văn, phục vụ
lý tưởng bình đẳng, bác ái và hợp tác vì sự phát triển chung của nhân loại trong thời
kỳ khoa học, công nghệ trên thế giới phát triển không ngừng.
Thứ hai, Luật SHTT và Bộ luật dân sự quy định về quyền tác giả là cơ sở pháp

lý để bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Điều này tạo điều kiện cho các tác giả có ý thức và trách nhiệm hơn trong việc tạo nên
các tác phẩm nghệ thuật mang tính sáng tạo, có chất lượng nội dung cao và đóng góp
cho sự phát triển của nền nghệ thuật, giáo dục của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Những quy định của Luật SHTT, Bộ luật dân sự về quyền tác giả là môi trường pháp
lý để cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật bảo đảm quyền
bình đẳng sáng tạo của các cá nhân, tổ chức và loại trừ những hành động không lành
mạnh, làm tổn hại đến văn hóa, nghệ thuật của dân tộc.
1.1.6. Đặc điểm của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật
Tác phẩm nghệ thuật cũng là một loại hình tác phẩm trong cụm thuật ngữ “tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học”, nên việc bảo hộ tác phẩm nghệ thuật cũng
mang những đặc điểm của bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học nói chung.
Cũng giống như các loại hình khác tác phẩm khác, sự bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm nghệ thuật bình đẳng giữa tất cả các chủ thể. Đặc điểm này xuất phát từ
Hiến pháp năm 1992, bản hiến pháp có hiệu lực vào thời điểm Luật SHTT năm 2005
được ban hành. Hiến pháp 1992 ghi nhận rằng mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật38 và Nhà nước bảo trợ để phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ
thuật39. Đây là đặc điểm và cũng là nguyên tắc của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Như vậy, pháp luật bảo hộ quyền tác giả của mọi chủ thể trong xã hội, không phân
biệt độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tình trạng tài sản hay phương
thức tạo ra tác phẩm nghệ thuật.
Thứ hai, về điều kiện bảo hộ, pháp luật không bảo hộ quyền tác giả tác phẩm
nghệ thuật khi nó mới chỉ là ý tưởng sáng tạo. Như đã phân tích từ phần trước, để
38
39

Điều 52 Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 1992
Điều 32 Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 1992
17



được bảo hộ, ý tưởng sáng tạo đó phải được thể hiện ra ngoài bằng một hình thức cụ
thể, bằng âm thanh, lời nói, chữ viết, hình khối, đường nét, màu sắc, ký hiệu... hoặc
bất kỳ một phương tiện nào khác.
Thứ ba, sự bảo hộ đối với quyền tác giả là có thời hạn. Pháp luật Việt Nam bảo
hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng,
tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được
công bố lần đầu tiên với thời hạn 50 năm kể từ khi được công bố.
Bên cạnh những đặc điểm chung nêu trên, việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm nghệ thuật cũng có những đặc điểm riêng biệt. Ví dụ như theo Công ước Berne,
thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật có sự khác biệt so với các
loại hình khác. Thời hạn bảo hộ của các tác phẩm nói chung là suốt cuộc đời tác giả
và và giới hạn tối đa là 50 năm sau khi tác giả chết40. Đối với tác phẩm điện ảnh, mỹ
thuật ứng dụng, công ước Berne còn quy định thêm thời hạn tối thiểu cho việc bảo hộ
các tác phẩm này là không dưới 25 năm kể từ khi tác phẩm được thực hiện41.
1.2. Môi trƣờng kỹ thuật số và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật
trong môi trƣờng kỹ thuật số
1.2.1 Khái quát về môi trường kỹ thuật số
a. Khái niệm kỹ thuật số
Kỹ thuật số là kiểu tín hiệu và định dạng dữ liệu trong ngành điện tử và khoa
học máy tính, sử dụng các trạng thái rời rạc khác với tương tự, dùng những thay đổi
liên tục của tín hiệu để tạo nên thông tin. Trong xử lý thông tin kỹ thuật số, các dữ
liệu được mã hóa dưới dạng các chuỗi số “0” và “1”, tương ứng với hai trạng thái
“tắt” và “bật” dòng điện. Mỗi dữ liệu sẽ có độ dài và cách sắp xếp các chuỗi “bật-tắt”
khác nhau, và lưu thông giữa các thiết bị trong môi trường kỹ thuật số. Trong môi
trường này, đơn vị đo lường khối lượng thông tin là các bit và các byte42.
Khái niệm môi trường kỹ thuật số còn dùng để chỉ phương pháp lưu trữ dữ liệu
ở dạng số (nhị phân). Ví dụ hình ảnh kỹ thuật số - nghĩa là hình được lưu trữ ở dạng
số, tức các màu sắc và đường nét được mô tả bằng các bit. Do có ưu điểm tính toán

40

Điều 7.1 Công ước Berne
Điều 7.4 Công ước Berne
42
- Bit (viết tắt b) là đơn vị thông tin. Một đơn vị bit bao gồm 1 trong hai giá trị 0 hoặc 1. Nó có thể được biểu diễn
theo nhiều cách khác nhau, ví dụ như là trạng thái đóng hay mở của mạch điện, một vệt khắc bằng tia laser trên bề
mặt đĩa quang, hay trạng thái từ trường trên đĩa từ…
- Byte (viết tắt là B) là đơn vị thông tin. 1 byte = 8bit. Hay 1 bite thông tin là 1 dãy số gồm 8 ký tự bao gồm “0”
và “1” được sắp xếp theo trình tự nhất định.
41

18


×