Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong Bộ luật Hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 93 trang )

B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

O TH THY THNH

TộI Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH
HOặC GÂY TổN HạI CHO SứC KHỏE CủA NGƯờI KHáC
TRONG Bộ LUậT HìNH Sự NĂM 2015

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO
B T PHP
TRNG I HC LUT H NI

O TH THY THNH

TộI Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH
HOặC GÂY TổN HạI CHO SứC KHỏE CủA NGƯờI KHáC
TRONG Bộ LUậT HìNH Sự NĂM 2015

LUN VN THC S LUT HC

Chuyờn ngnh : Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s



: 8 38 01 04

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Trng Quang Vinh

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đào Thị Thúy Thành


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY HƢƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƢỜI KHÁC


7

1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác

7

1.2. Lịch sử lập pháp hình Việt Nam về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong giai đoạn
từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 2015
1.3

11

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác được quy định trong Bộ luật hình sự của một số
quốc gia trên thế giới

1.4

14

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015

17

Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC

GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

40

2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ
năm 2013 đến năm 2017 trên phạm vi cả nước

40

2.2. Một số giải pháp hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015 đối với tội Cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác

66

KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự


BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

: Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của TAND
các cấp trong giai đoạn 05 năm (2013- 2017)


2.2

40

Số vụ án và số bị cáo đã thụ lý giải quyết về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trên địa bàn cả nước trong giai đoạn 05 năm (2013- 2017)

2.3

41

Tỷ lệ số vụ và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên tổng số vụ
án và tổng số bị cáo trên cả nước đã thụ lý giải quyết trong
giai đoạn 05 năm (2013- 2017)

2.4

42

Kết quả xét xử đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác của TAND các cấp
trong giai đoạn 05 năm (từ 2013- 2017)

43


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người cần có sức khỏe để sống, làm việc và tham gia bình thường
vào các quan hệ xã hội. Đối với cá nhân mỗi người, cùng với các giá trị như
tính mạng, danh dự, nhân phẩm thì sức khỏe cũng được ví như một loại tài
sản vô cùng quý giá. Trong xã hội có nhiều con người mạnh khỏe thì xã hội,
đất nước đó sẽ phát triển bền vững, vì con người chính là lực lượng cơ bản
nhất tạo ra của cải vật chất và là nguồn lực vô giá của đất nước. Quyền được
bảo vệ về sức khỏe được bảo đảm về mặt pháp lý bởi Hiến pháp và hệ thống
văn bản pháp luật về hành chính, dân sự, hình sự và tố tụng hình sự, trong đó
Bộ luật hình sự (BLHS) được xem là văn bản pháp lý đồng bộ và có hệ thống
nhất, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ, xử lý các hành vi phạm
tội xâm phạm một cách cố ý hoặc vô ý đến quyền được bảo vệ về sức khỏe
của con người.
Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và BLHS năm
2015 về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác cơ bản đã đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn xét xử, góp phần có hiệu quả trong công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo đảm xử lý trách nhiệm hình sự (TNHS) đúng
người, đúng tội và đúng pháp luật, tạo niềm tin vào công lý, pháp chế xã hội
chủ nghĩa cho nhân dân. Mặc dù vậy, công tác đấu tranh chống các tội phạm
này có lúc, có nơi vẫn còn tồn tại một số hạn chế, đặc biệt là tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Theo thống kê của
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), trung bình từ năm 2013 đến nay, tổng số
vụ và số bị cáo đã bị xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác là 28.778 vụ và 45.791 bị cáo, chiếm tỷ lệ đáng kể
trong tổng số các tội về xâm phạm sức khỏe của người khác 1. Từ đó có thể
khẳng định rằng tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
1. Báo cáo thống kê các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017 của TANDTC.



2
người khác diễn ra trong những năm gần đây đã gây bức xúc cho nhân dân,
tạo dư luận không tốt cho xã hội và làm ảnh hưởng tới an ninh chính trị, trật
tự và, an toàn xã hội cũng như tâm lý bất an trong cư dân.
Hiện nay, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 đã khắc phục được
một số bất cập cơ bản, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội phạm như: Sửa đổi cụm từ " thương tật" thành " tổn thương cơ thể"; hoàn
thiện tình tiết định khung hình phạt; cụ thể hóa các dấu hiệu định lượng sửa
đổi hình phạt chính và hình phạt bổ sung; quy định về chuẩn bị phạm tội...
Tuy nhiên, thực tiễn nghiên cứu hoạt động xét xử đối với loại tội
phạm này trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017 cho thấy, việc áp dụng
quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác còn gặp một số trường hợp chưa chính xác, dẫn đến định tội danh và
quyết định hình phạt không đúng, làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm qua đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong Bộ luật hình sự năm 2015"
để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác theo pháp luật hình sự Việt Nam là một trong các vấn đề nóng trong xã
hội nên đã được nhiều nhà khoa học Luật gia đề cập, nghiên cứu ở nhiều hình
thức, mức độ, khía cạnh khác nhau.
Dưới góc độ Luật hình sự hiện nay, theo khảo sát của tác giả, đã có
nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm), của Giáo sư, tiến sĩ Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2003; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần tội phạm),
của PGS.TS Đỗ Đình Hòa (chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009;



3
Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người,
của PGS.TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự, Tập 1, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người: Bình luận chuyên sâu, của ThS. Đinh
Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, trong đó có đề cập đến tội
phạm này. Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu về những vấn đề lý luận
cũng như làm rõ các đặc trưng pháp lý, phân biệt tội phạm này với một số tội
phạm khác theo quy định của BLHS, nghiên cứu những vấn đề, các tình tiết
còn có nhận thức khác nhau của BLHS.
Về luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ có các công trình nghiên cứu
khoa học như: Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác trong luật hình sự Việt Nam, của Lê Đình Tĩnh, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh trong luật hình sự Việt Nam, của Đặng Thị Hương Dung,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; Luận
án tiến sĩ luật học: Đặc điểm tội phạm học của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở Việt Nam hiện nay và các giải
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, của Nguyễn Hữu Cầu, Học viện Cảnh
sát nhân dân, 2003; Luận án tiến sĩ luật học: Đấu tranh phòng, chống tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trên địa bàn
tỉnh Thái Bình, của Phạm Thị Mỹ Hương, Học viện Khoa học Xã hội, 2016...
Cùng với đó, một số bài viết trên tạp chí khoa học đề cập đến việc
phòng ngừa chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác như: Nguyễn Thanh Bình: "Một số giải pháp, kiến nghị nhằm
phòng, chống tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Cai Lậy, tỉnh Kiên
Giang, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2010 2; Huỳnh Ngọc Ánh: Giải pháp nâng cao

2. Nguyễn Thanh Bình, Một số giải pháp nhằm phòng chống tội có ý gây thương tích, Tạp chí Kiểm sát, số
7/2010, tr. 18.


4
hiệu quả hoạt động phòng chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí
Thanh tra, số 8/20143; Một số vấn đề về tình tiết: Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thuộc trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng, của ThS. Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), kỳ I,
tháng 9/2010.
Tuy nhiên, các công trình này chưa đi sâu, làm rõ những quy định về
các tình tiết cụ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác, chưa đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của luật
về tội phạm cũng như chưa có nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội phạm này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu toàn diện, sâu sắc và hệ thống về
mặt lý luận, tổng kết, đánh giá xác đáng, khách quan những quy định về tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS
năm 2015 và thực tiễn hoạt động xét xử của tòa án. Trên cơ sở đó xác định
những yêu cầu, đề xuất, các giải pháp tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả áp dụng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong BLHS hiện hành của nước ta.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS
năm 2015. Luận văn cũng nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe cho người khác quy định trong BLHS của một số nước trên
thế giới, đặc biệt là nghiên quy định của BLHS hiện hành về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người và thực tiễn xét xử về
tội phạm này trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017.
3. Huỳnh Ngọc Ánh - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống tội cố ý gây thương tích, Tạp chí
thanh tra số 08 /2014.


5
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong giai đoạn từ năm 2013 đến
năm 2017.
Địa bàn nghiên cứu là trên phạm vi cả nước.
6. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về
cải cách tư pháp, quan điểm, đường lối xử lý của nhà nước đối với nhóm các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói
chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác nói riêng.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tôi sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp nghiên cứu, phân tích để làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
+ Phương pháp thống kê, khảo sát án điển hình, để xử lý các tài liệu,
số liệu của TANDTC và các cấp địa phương để làm sáng tỏ thực tiễn xét xử
trong giai đoạn 05 năm từ (2013 đến 2017) đối với tội này, qua đó đánh giá
những tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản.
+ Phương pháp tổng hợp đề xuất, kiến nghị, tiếp tục hoàn thiện quy

định của BLHS, đề ra những giải pháp đảm bảo để phục vụ yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa lý luận
Trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân hiện


6
nay, cũng như bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người,
một giá trị cao quý của hệ thống các quyền con người, thì việc nghiên cứu để
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác và thực tiễn áp dụng tại TAND các cấp xét xử
trên địa bàn cả nước trong giai đoạn 05 năm từ năm 2013 đến năm 2017 là rất
cần thiết, nhằm nâng cao nhận thức của các cơ quan, người tiến hành tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, qua đó đảm bảo áp dụng quy định về
tội phạm này được chính xác, xử lý tội phạm và người phạm tội công bằng và
đúng pháp luật.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở những vấn đề đã nghiên cứu, luận văn có một số đề xuất
nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và những giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử loại tội này trong thời gian tới đây.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và

một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015.


7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC
1.1. Khái niệm tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của ngƣời khác
Trong các BLHS Việt Nam, chưa có định nghĩa cụ thể về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nên sẽ có nhiều
cách hiểu khác nhau. Có định nghĩa cho rằng: "Tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe
cho người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác", có định nghĩa
cho rằng: "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn
hại đến sức khỏe" 4.
Trong các quan điểm trên không có quan điểm nào mang tính toàn
diện, đầy đủ mà chỉ mang tính tương đối, chưa thể hiện hết bản chất, cũng
như nội hàm vốn có của khái niệm "Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác".
Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác cần phải làm sáng tỏ "sức khỏe" và "gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe".
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: "Sức khỏe là trạng thái không có bệnh
tật, cảm thấy thoải mái về thể chất, thư thái về tinh thần"5.
Như vậy, điều này có nghĩa, con người hoàn toàn thoải mái về mặt thể
chất (hoạt động thể lực, hình dáng... tất cả các hoạt động sống trên đều ở trạng
thái tốt nhất, phù hợp với từng lứa tuổi) và hoàn toàn thoải mái về mặt tâm

thần, cũng như thoải mái về mặt xã hội và không có bệnh tật hay tàn phế. Cơ
4. Đỗ Đức Hồng Hà, Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích, Tạp chí TAND.
5. Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. 878.


8
sở của sức khỏe xã hội là sự thăng bằng giữa hoạt động và quyền lợi cá nhân
với hoạt động và quyền lợi của xã hội của những người khác, là sự hòa nhập
giữa cá nhân, gia đình và xã hội. Vì vậy: Sức khỏe của con người là tình trạng
sức lực của con người đang sống trong điều kiện bình thường, ổn định, là
trạng thái tâm - sinh lý, sự hoạt động hài hòa trong cơ thể cả về tinh thần và
cơ bắp, tạo nên khả năng chống lại bệnh tật 6.
Trên cơ sở này, hành vi "xâm phạm sức khỏe" của người khác được
hiểu là hành vi dùng tác động ngoại lực hoặc bất kỳ hình thức nào gây ra
những tổn thương ở các bộ phận trong cơ thể, gây bệnh tật, làm ảnh hưởng
đến hoạt động bình thường của người đó, làm cho người đó yếu đi và làm tổn
hại đến khả năng suy nghĩ, học tập, hoạt động, sáng tạo của họ (hoạt động
bình thường của con người).
Như vậy, hành vi "xâm phạm sức khỏe" của người khác được hiểu là
hành vi của một người đã dùng tác động ngoại lực hoặc bất kỳ hình thức nào
gây ra những tổn thương ở các bộ phận trong cơ thể và người bị hại phải chịu
đựng một thiệt thòi nào đó ảnh hưởng đến sự hoàn thiện đối với thân thể, đối
với sức khỏe của mình (tỷ lệ thương tật về sức khỏe), từ đó làm ảnh hưởng
đến hoạt động bình thường của người đó, làm cho người đó yếu đi, và làm tổn
hại đến khả năng suy nghĩ, học tập, sáng tạo của họ. Do đó, tùy từng mức độ
hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác mà người có hành vi xâm phạm
có thể bị truy cứu TNHS hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính.
Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi cố ý xâm hại đến sức khỏe của con người, đến quyền được
bảo vệ về sức khỏe của con người. Trong đó, hành vi gây thương tích cho

người khác được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể
của con người, làm cho con người có những thương tích nhất định như: Vết
bỏng, mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay, cánh tay,
bàn chân,... để lại trạng thái bất thường. Còn hành vi gây tổn hại cho sức khỏe
6. Tại địa chỉ: Http/suckhoe.vn/suc-khoe/suc-khoe-la-gi-dinh-nghia-suc-khoe-toan-dien. tr. 1


9
của người khác thì được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên
thân thể của con người làm cho sức khỏe của nạn nhân yếu đi không còn
nguyên vẹn như trước mặc dù không để lại dấu vết trên thân thể họ hoặc làm
mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân làm giảm chức
năng hoạt động của bộ phận đó.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác là hành vi cố ý làm cho người khác bị thương, xâm phạm quyền được
bảo hộ về sức khỏe của con người. Hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác bị coi là tội phạm, tội phạm đó được quy
định tại Điều 134 BLHS năm 2015. Theo điều luật này thì tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là hành vi cố ý
gây thương tích cho người khác. Thương tích khác với thương tật. Thương
tích là tình trạng vết thương do hành vi phạm tội gây nên. Thương tật là do
hội đồng giám định y khoa xác định sau khi vết thương đã được điều trị. Tội
phạm này xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người. Bất kỳ ai
đang sinh sống, cư trú trên lãnh thổ Việt Nam và đang làm bất cứ điều gì đều
được pháp luật Việt Nam bảo hộ về tính mạng, sức khỏe. Gây thương tích
được hiểu là hành vi tác động của người này vào cơ thể của người khác và
làm người đó bị thương. Hành vi gây thương tích có thể được thực hiện với sự
hỗ trợ của công cụ, phương tiện hoặc dùng sự tác động bằng thực thể. Hậu
quả của tội phạm này là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc

một trong các trường hợp sau: Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm
hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người (điểm a khoản 1
Điều 134 BLHS), dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm (điểm b
khoản 1 Điều 134 BLHS), đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có
thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ (điểm c
khoản 1 Điều 134 BLHS), đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình,
người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình (điểm d khoản 1 Điều 134 BLHS); Có


10
tổ chức (điểm đ khoản 1 Điều 134 BLHS); Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
(điểm e khoản 1 Điều 134 BLHS); Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm
giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục
tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành
chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (điểm g khoản 1 Điều 134 BLHS); Thuê gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê (điểm h
khoản 1 Điều 134 BLHS); Có tính chất côn đồ (điểm i khoản 1 Điều 134
BLHS); Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân (điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS). Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết người (khoản 4 Điều 134
BLHS) được hiểu rằng, hành vi mà về mặt chủ quan, người phạm tội chỉ
muốn gây thương tích, chứ không mong muốn cho nạn nhân chết. Khi thực
hiện tội phạm, người phạm tội không nhận thức được hoặc chưa nhận thức
được là hậu quả chết người có thể xảy ra. Trong trường hợp này, người phạm
tội chỉ cố ý đối với việc gây thương tích, không cố ý giết chết người. Thương
tích dẫn đến chết người, trước hết là thương tích nặng, làm cho nạn nhân chết,
nghĩa là giữa thương tích và cái chết của nạn nhân có mối quan hệ nhân quả
với nhau. Tuy nhiên có trường hợp cũng được coi là cố ý gây thương tích dẫn

đến chết người, tuy không phải là gây thương tích nặng cho nạn nhân, nhưng
vì nạn nhân là người quá già yếu hoặc đang có bệnh nặng, bệnh hiểm nghèo,
việc gây thương tích đối với nạn nhân, làm cho nạn nhân chết sớm hơn 7.
Trên cơ sở các quan điểm trên, cũng như các quy định của BLHS hiện
hành, tác giả đưa ra khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác như sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe cho người khác là hành vi cố ý tác động trái pháp luật đến
7. Nguyễn Nông (2005), Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trường hợp dẫn đến chết người, Tạp chí Kiểm sát, số 21.


11
thân thể của người khác, gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ
tổn thương cơ thể theo quy định của Bộ luật hình sự, do người đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự theo luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
1.2. Lịch sử lập pháp hình Việt Nam về tội cố ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác trong giai đoạn từ sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 2015
1.2.1. Giai đoạn trước Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực thi hành
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, đã khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Do vừa trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp hao tốn cả sức người, sức của nên Nhà nước ta phải đối mặt với vô vàn
khó khăn…, các đạo luật hình sự là một trong những đạo luật đầu tiên cùng
với các sắc lệnh trên các lĩnh vực như trừng trị phản động, âm mưu hành động
phản quốc, sắc lệnh quy định về trốn tránh nghĩa vụ, sắc lệnh về phòng, chống
các tội phạm cụ thể như hành vi trộm cắp… tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp
tội phạm, bảo vệ nhà nước non trẻ. Tuy nhiên, trong tình hình cấp bách, các
văn bản pháp luật nói chung cũng như các văn bản pháp luật Hình sự nói
riêng mới ban hành không đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng. Vì

thế ngày 10/10/1945, nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ
lại các luật lệ cũ không mâu thuẫn với chế độ mới, không trái với nguyên tắc
độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong đó có Luật hình An Nam,
Hoàng Việt hình luật và Hình luật pháp tư chính. Sau ngày miền nam hoàn
toàn được giải phóng, chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam
Việt Nam đã ban hành sắc luật số 03/SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội
phạm và hình phạt với 07 loại tội phạm, trong đó có quy định về tội cố ý gây
thương tích. Tại điểm b Điều 5 Sắc luật số 03/SL/76 quy định: " Phạm tội cố
ý gây thương tích thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm, trường hợp nghiêm
trọng thì bị phạt tù đến 20 năm". Ngày 02/7/1976 Quốc hội chính thức đổi tên
nước ta thành Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật được áp


12
dụng chung cho cả nước. Do vậy, để giải quyết các vụ án cố ý gây thương
tích, chúng ta chủ yếu áp dụng điểm b Điều 5 Sắc luật số 03-SL/76 nói trên
cho đến khi BLHS năm 1985 ra đời. Từ năm 1986, đất nước ta tiến hành đổi
mới nhiệm vụ toàn diện, đưa kinh tế và xã hội thoát khỏi khủng hoảng, thực
hiện kết hợp mở cửa và hội nhập. Thực hiện chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với Luật hình sự, giai đoạn này được đánh dấu
bởi việc ban hành BLHS năm 1985, Bộ luật đầu tiên của nước ta. Đây là thời
điểm đánh dấu bước chuyển biến mang tính chất lịch sử, đánh dấu thời điểm
quan trọng trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. Trong BLHS năm 1985,
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được
quy định tại Điều 109 bao gồm 04 khung hình phạt và trong mỗi khung thì có
mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của từng hành vi
phạm tội, trong đó mức cao nhất của hình phạt đối với tội này là 20 năm tù.
1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực thi hành
Ngày 27/6/1985, Quốc hội Việt Nam đã thông qua BLHS đầu tiên của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dấu mốc quan trọng trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện quy phạm pháp luật về hình sự nói chung và quy
định pháp luật về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng trong
đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Trong BLHS năm 1985, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 109. Tuy nhiên, Điều 109
chỉ nêu tội danh mà không mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm,
các điểm khoản quy định còn chung chung, trừu tượng, ví dụ như điểm a
khoản 2 Điều 109 quy định "Gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức
khỏe của người khác" mà không giải thích rõ thế nào là thương tích nặng, tổn
hại nặng… Do vậy, việc áp dụng pháp luật cho các cơ quan tố tụng gặp nhiều
khó khăn. Để hướng dẫn thi hành Điều luật này, TANDTC đã có nhiều văn
bản hướng dẫn như:


13
- Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của HĐTP-TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định phần các tội phạm của BLHS.
- Công văn số 03-TATC ngày 22/10/1987 của TANDTC hướng dẫn
thực hiện Điều 109.
- Công văn số 311/HS ngày 04/4/1989 của TANDTC về việc xác định
tỷ lệ thương tật của người bị thương tích.
- Nghị quyết số 01-89/HĐTP ngày 12/4/1989 của TANDTC hướng
dẫn việc bổ sung áp dụng một số quy định của BLHS.
- Công văn số 140/1989/KHXX của TANGTC về việc hướng dẫn áp
dụng Điều 109.
Do phải đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình
hình đất nước phát triển, BLHS năm 1985 có 04 lần sửa đổi vào các năm
1989, 1991, 1992, 1997. Trong các lần sửa đổi này tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác không sửa đổi.

Như vậy, BLHS 1985 ra đời, là một bước ngoặt pháp lý quan trọng
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Từ ngày được ban hành,
BLHS năm 1985 đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn mang tính
chắp vá, chưa theo kịp tình hình kinh tế, xã hội trong nước cũng như tình hình
quốc tế có những biến đổi to lớn, ảnh hưởng sâu, rộng đến đời sống nhân dân,
trật tự an toàn xã hội, một số hành vi quy định là tội phạm đã không còn phù
hợp nữa, một số hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội cần phải được hình sự
hóa hoặc tội phạm hóa. Do đó, BLHS mới đã được Quốc hội thông qua ngày
21/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/7/2000. Đến năm 2009, Bộ luật này đã
được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc Hội khóa X, kỳ họp thứ 6 thông
qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực từ ngày 01/7/2000 đã thể chế hóa những
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong giai đoạn


14
mới, đặc trưng cơ bản của pháp luật hình sự trong giai đoạn này đã thể hiện
trong BLHS năm 1999 là: Điều chỉnh tối đa về mặt lập pháp những chế định
cơ bản, quan trọng của luật hình sự, phân hóa triệt để TNHS và hình phạt, nêu
cao tinh thần nhân đạo của luật hình sự. BLHS năm 1999 có nhiều nội dung
mới so với BLHS năm 1985 được thể hiện cả ở phần chung và phần các tội
phạm, thể hiện rõ những điểm mới trong chính sách hình sự của nhà nước ta
nói chung, đối với tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm
của con người nói riêng. BLHS đã tách tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 109 BLHS năm 1985
thành 03 tội và được quy định thành 03 điều luật khác nhau.
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác quy định tại Điều 104.

- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 105.
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 106.
Với việc tách biệt ba tội danh khác nhau, nhà làm luật đã xây dựng
chính xác các cấu thành tội phạm cơ bản, bổ sung các tình tiết định khung
hình phạt, phân định rõ TNHS và xác định chính xác mức hình phạt tương
ứng tính chất và mức độ nguy hiểm cho từng hành vi.
1.3. Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngƣời khác đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự của một số quốc gia trên
thế giới
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga
Bộ luật hình sự Liên bang Nga được Đuma Quốc gia Nga thông qua
ngày 24/5/1996 và có hiệu lực từ ngày 01/1/1997. Bộ luật được sửa đổi, bổ
sung nhiều lần, lần mới nhất là vào ngày 01/7/2010. BLHS Liên bang Nga có
34 chương, 361 điều, chia thành 2 phần là phần chung và phần riêng. Đối với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được


15
quy định tại các điều 111, 112, 115 thuộc phần riêng, chương 16 các tội xâm
phạm tính mạng và sức khỏe của BLHS Liên bang Nga cụ thể như sau:
- Điều 111: Tội cố ý gây tổn hại nặng cho sức khỏe, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 08 năm và khoản 3 là đến 15 năm 8;
- Điều 112: Tội cố ý gây tổn hại nặng vừa cho sức khỏe, thì bị phạt tù
đến 03 năm và khoản 2 là đến 05 năm 9;
- Điều 115: Tội cố ý gây tổn hại nhẹ cho sức khỏe thì bị phạt tù giam
giữ đến 04 tháng và khoản 2 là đến 02 năm 10.
So sánh với BLHS năm 1999 của Việt Nam ta thấy được TNHS mà
người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu được quy định trong BLHS Liên

bang Nga thấp hơn ở nước ta. Bên cạnh đó, điểm đáng chú ý của BLHS Liên
bang Nga là Bộ luật này chia tội cố ý gây tổn hại cho sức khỏe thành ba mức
thiệt hại khác nhau: Tổn hại nặng cho sức khỏe (Điều 111), tổn hại nặng vừa
cho sức khỏe (Điều 112) và gây tổn hại nhẹ cho sức khỏe (Điều 115). Trong
mỗi điều luật lại có sự giải thích chi tiết, như thế nào là cố ý gây tổn hại nặng,
thế nào là cố ý gây tổn hại nặng vừa và thế nào được coi là tổn hại nhẹ. Việc
quy định như thế này tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật xác định TNHS
mà hành vi phạm tội này phải chịu.
1.3.2. Bộ luật hình sự của Trung Quốc
Bộ luật hình sự Trung Quốc thông qua ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ
ngày 01/01/1980. Luật sửa đổi, bổ sung BLHS này được sửa đổi vào năm
1997, có hiệu lực từ ngày 01/10/1997. Sau đó từ năm 1997. BLHS Trung
Quốc được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1999, 2001, 2002 và gần đây nhất là
2005, gồm hai phần: Phần chung và phần các tội phạm với 12 chương và 192
điều. Tội cố ý gây thương tích cho người khác được quy định tại Điều 234
chương 4 tội xâm phạm quyền tự do thân thể, quyền dân chủ của công dân.
8. Trường đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Liên bang Nga. Nxb Công an nhân dân, tr. 166.
9. Trường đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Liên bang Nga. Nxb Công an nhân dân, tr. 168.
10. Trường đại học Luật Hà Nội (2011), BLHS Liên bang Nga. Nxb Công an nhân dân, tr. 172.


16
- Điều 234 quy định về hành vi cố ý gây thương tích cho người khác,
thì bị phạt tù đến 03 năm, cải tạo lao động hoặc quản chế

11

. Ngoài ra còn

hình phạt cao nhất là tử hình.

So với quy định của BLHS Việt Nam ta thấy: Quy định về TNHS phải
chịu đối với người phạm tội cố ý gây thương tích của BLHS Trung Quốc là
nặng và nghiêm khắc hơn BLHS Việt Nam (hình phạt tử hình). Bên cạnh đó,
quy định trong điều luật còn chung chung, giản đơn, chưa khái quát, không
quy định rõ các điểm trong điều khoản, không quy định cụ thể về hậu quả
thương tích,vấn đề này dễ dẫn đến lạm dụng luật theo ý chủ quan, cũng như
gặp khó khăn trong xác định TNHS tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm mà hành vi phạm tội gây ra. Bên cạnh đó, phải nói đến quy định mở
trong BLHS Trung Quốc là "Nếu bộ luật này có quy định riêng thì xử theo
quy định đó". Điều này giúp cho việc vận dụng linh hoạt pháp luật khi có sự
thay đổi về chính sách pháp luật.
1.3.3. Bộ luật hình sự của Nhật Bản
Bộ luật hình sự Nhật Bản được ban hành năm 1908, đã được sửa đổi,
bổ sung nhiều lần, lần gần đây nhất là năm 2011, BLHS Nhật Bản bao gồm
40 chương và 264 điều, Tội cố ý gây thương tích được quy định ở nhiều điều
luật khác nhau, tại chương 27 từ Điều 204 đến Điều 208 của Bộ luật. Cụ thể:
- Điều 204: Tội gây thương tích, thì bị phạt tù dưới 15 năm hoặc phạt
tiền dưới 50 vạn Yên12.
- Tội gây ra thương tích dẫn đến chết người, thì bị phạt tù có thời hạn
trên 03 năm 13.
Trong BLHS Nhật Bản quy định về trách nhiệm đối với hành vi phạm
tội cố ý gây thương tích không quá cao, có sự phân định rõ về TNHS đối với
từng hành vi, nhưng về mặt lập pháp còn mang tính rời rạc, trong đó vẫn chưa
11. Đinh Bích Hà (2007), Bộ luật hình sự nước CHDCND Trung Hoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 156.
12. Trần Thị Hiển (2011), Bộ luật hình sự Nhật Bản, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 158.
13. Trần Thị Hiển (2011), Bộ luật hình sự Nhật Bản, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội, tr. 158.


17
làm rõ được tính chất, mức độ nguy hiểm (tỷ lệ thương tật) mà hành vi phạm

tội gây ra để làm cơ sở cho việc xác định TNHS đối với người phạm tội.
Bên cạnh đó, BLHS Nhật Bản lại có một số ưu điểm sau:
Điều 206 quy định về việc khuyến khích việc gây thương tích: "Người
nào có mặt tại nơi xảy ra tội phạm quy định tại Điều 204 và 205 trên đây mà
khuyến khích người phạm tội thực hiện tội đó thì bị phạt tù có lao động bắt
buộc đến một năm hoặc bị phạt tiền đến một trăm ngàn yên hoặc bị phạt tiền
về tội hình sự nhỏ, thậm chí, bản thân người đó không gây thương tích nào
cho ai cả".
Điều 208 BLHS Nhật Bản quy định về việc dùng vũ lực, biện pháp xử
lý và trường hợp tụ tập chuẩn bị hung khí nhằm mục đích gây thương tích cho
người khác, tương ứng với quy định về chuẩn bị phạm tội trong BLHS Việt
Nam. Điều này cho thấy quyền được bảo vệ về sức khỏe, tính mạng của con
người rất được quan tâm, bảo vệ.
Bộ luật hình sự Nhật Bản thể hiện được sự phân hóa về TNHS đối với
từng trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích nhưng chưa đầy đủ, cũng như
chưa hoàn thiện về kỹ thuật lập pháp, còn mang tính chung chung, chưa rõ về
tình tiết định khung hình phạt.
So với BLHS Việt Nam, BLHS Nhật Bản đã tách tội gây thương tích
và tội gây thương tích dẫn đến chết người thành hai điều, không quy định
trong một điều như BLHS Việt Nam. Ngoài ra, BLHS Nhật Bản còn có một
điều luật riêng quy định về đồng phạm gây thương tích cho người khác và tội
tuy không trực tiếp tham gia gây thương tích nhưng có hành vi vào hùa cũng
sẽ bị cấu thành tội phạm. Đặc biệt còn quy định tội hành hung (Điều 208) mà
BLHS nước ta không quy định và hành vi tập hợp và tụ tập chuẩn bị hung khí
(Điều 208) thì tương tự như chuẩn bị phạm tội trong BLHS Việt Nam.
1.4. Tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngƣời khác theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
Bên cạnh công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm thì việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống là vấn đề rất quan trọng.



18
Trong nhiều năm qua cho thấy một số quy định của BLHS liên quan đến tội
phạm này còn bất hợp lý và thiếu cụ thể. Do vậy đã ảnh hưởng không nhỏ tới
áp dụng pháp luật vào hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. BLHS nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và
chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 là một trong những đổi mới lớn
nhất mà Nhà nước đã thực hiện nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 với
một số thay đổi là bổ sung thêm tình tiết "Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất
nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác" để xử lý hình sự hành vi này trong trường hợp thương tích của nạn nhân
dưới 11%. Thực tiễn trong thời gian qua, nhiều vụ việc người phạm tội gây
thương tích cho nạn nhân bằng cách tạt axit. Qua giám định thương tích, có tỷ
lệ tổn thương cơ thể không lớn nhưng hậu quả là rất nghiêm trọng vì gây nên
những cố tật về thẩm mĩ trên cơ thể, đặc biệt là khuôn mặt người bị hại, ảnh
hưởng tới cả thể xác và tinh thần của họ trong suốt phần đời còn lại. Những
hành vi này gây bức xúc, bất bình lớn trong dư luận. Do đó, việc quy định
thêm tình tiết này là hoàn toàn hợp lý. Bên cạnh đó là bổ sung hình phạt trong
trường hợp chuẩn bị phạm tội. Đây cũng là một điểm mới mà cần áp dụng rất
nhiều trong thực tiễn. Tuy nhiên để việc áp dụng pháp luật một cách chính
xác và thống nhất thì cần ban hành các văn bản hướng dẫn áp để thực hiện.
1.4.1. Dấu hiệu pháp lý của tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong Bộ luật hình sự năm 2015
Các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm mang tính chất đặc trưng
của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cho
phép xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác. Đồng thời nó còn là cơ sở để
truy cứu TNHS, xác định TNHS và định tội danh một cách chính xác, đúng pháp

luật, tòa án dựa vào đó để đưa ra bản án phù hợp với hành vi phạm tội này.


19
1.4.1.1. Khách thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác
Trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn, các ý kiến đều thống
nhất khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác, người phạm tội đã xâm hại quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, quyền được bảo vệ sức khỏe của người khác. Bởi vì con người là chủ
thể của hầu hết mọi quan hệ xã hội, khi quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức
khỏe của con người bị xâm phạm, nó phá vỡ sự ổn định của các quan hệ xã
hội. Như vậy khách thể của tội phạm này là sức khỏe của người khác.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người thông qua sự tác
động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, cụ thể là nó
gây ra tổn hại về sức khỏe của con người ở một dạng nhất định nào đó (tỷ lệ
thương tật, mạng sống). Đối tượng tác động là sức khỏe của trẻ em, người già,
phụ nữ có thai, người không có khả năng tự vệ, thì TNHS đặt ra đối với người
phạm tội sẽ nặng hơn. Việc xác định đúng đối tượng tác động của tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là vô cùng quan
trọng trong việc truy cứu TNHS. Bởi lẽ, nếu đối tượng tác động không phải là
sức khỏe của người khác, không phải tác động lên người còn sống thì hành vi
đó không xâm phạm quyền được bảo vệ về sức khỏe, nên không phạm tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, hoặc có
trường hợp, một người tự gây thương tích cho chính bản thân mình vì một lý
do nào đó (ví dụ: để trốn tránh nghĩa vụ quân sự) thì không thuộc đối tượng điều
chỉnh của điều 134 BLHS và không bị truy cứu TNHS theo Điều 134 BLHS.
1.4.1.2. Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác
Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm mang ý nghĩa quan
trọng trong việc định tội, định khung hình phạt, xác định các tình tiết tăng


×