Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản theo pháp luật dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.77 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN LÊ HÀ GIANG

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU VÀ CÁC QUYỀN KHÁC
ĐỐI VỚI TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
(Định hướng nghiên cứu)

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN LÊ HÀ GIANG

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU VÀ CÁC QUYỀN KHÁC
ĐỐI VỚI TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự


Mã số

: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
(Định hướng nghiên cứu)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Oanh

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Lê Hà Giang


MỤC LỤC

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
VÀ CÁC QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN


10

1.1. Khái niệm quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản .......................... 10
1.1.1. Định nghĩa quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản ...................... 10
1.1.2. Đặc điểm của quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản .................. 11
1.2. Khái niệm biện pháp bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài
sản ................................................................................................................... 15
1.2.1. Định nghĩa bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản ....... 15
1.2.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản .................................................................................................. 16
1.3. Phân loại các phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối
với tài sản theo pháp luật dân sự...................................................................... 17
1.3.1 Căn cứ vào chủ thể sử dụng phương thức bảo vệ .................................... 18
1.3.2. Căn cứ vào thời điểm áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản ......................................................................... 19
1.3.3 Căn cứ vào mục đích áp dụng phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản ............................................................................... 20
1.4. Ý nghĩa của của bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
theo pháp luật dân sự....................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
VÀ CÁC QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN

23


2.1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản tự bảo vệ quyền của
mình ................................................................................................................ 23
2.1.1 Khái niệm phương thức tự bảo vệ ........................................................... 24

2.1.2 Chủ thể thực hiện phương thức tự bảo vệ ............................................... 24
2.1.3 Điều kiện thực hiện phương thức tự bảo vệ ............................................ 25
2.1.4 Hậu quả pháp lý của thực hiện phương thức tự bảo vệ ............................ 26
2.2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản yêu cầu Tòa án, cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ ..................................................... 27
2.2.1. Kiện đòi lại tài sản ................................................................................. 28
2.2.2 Kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực
hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản................................................. 37
2.2.3 Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ........................................................... 39
2.2.4 Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ ................................... 42
2.3. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu và
quyền khác đối với tài sản ............................................................................... 45
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ PHƯƠNG
THỨC BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU VÀ CÁC QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI
TÀI SẢN

51

3.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về phương thức
bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản ................................... 51
3.1.1 Tranh chấp điển hình về đòi quyền sở hữu nhà ....................................... 51
3.1.2. Tranh chấp điển hình về bảo vệ quyền đối với bất động sản liền kề ....... 58


3.1.3 Tranh chấp điển hình về yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền sở hữu ................................................................................................... 63
3.2 Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp
luật về bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản ........................ 68
3.3 Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về phương thức bảo

vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản .......................................... 69


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã ghi nhận và phát triển chế định
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trở thành chế định trọng tâm,
cốt lõi nhằm ghi nhận và bảo vệ quyền của chủ thể đối với tài sản trong giao
lưu dân sự, thương mại, làm tiền đề cho các quan hệ kinh tế khác phát triển.
Trong chế định này thì nội dung về bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản là một trong những nội dung có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn
sâu sắc. Bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản luôn là vấn đề
nhận được sự quan tâm của nhiều chủ thể trong xã hội bởi nó gắn liền với
thực thi quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản của các tổ chức, cá
nhân trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản là cơ sở thúc đẩy quá
trình tạo ra của cải, vật chất cho xã hội và bảo vệ của cải, vật chất đó cũng
như người tạo ra chúng trước mọi hành vi gây hại. Bảo vệ quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản theo pháp luật dân sự là vấn đề diễn ra hàng
ngày, thể hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, tác động trực tiếp đến quyền và
lợi ích của các bên trong đời sống. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề bảo vệ
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản theo pháp luật dân sự Việt
Nam sẽ đóng góp thêm các vấn đề lý luận quanh đề tài này cũng như đánh giá
được những khác biệt của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản theo pháp luật dân sự làm cơ sở cho các chủ thể lựa chọn
phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trên thực
tế.

Chính vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản theo Pháp luật dân sự Việt Nam” làm đề tài cho
luận văn cao học của mình.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản vừa là hoạt
động thực tế, vừa là sản phẩm của quá trình thiết lập cơ chế đảm bảo sự thừa
nhận quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trong đời sống xã hội.
Do đó, bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản theo quy định
của pháp luật dân sự là phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản được nhiều người quan tâm, nghiên cứu từ phía các nhà làm
luật, người giảng dạy cho đến các nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh
viên chuyên ngành Luật.
Tính đến thời điểm hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu về bảo
vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản với các hướng tiếp cận
khác nhau làm cơ sở cho việc tiếp cận và nghiên cứu của đề tài. Có thể kể đến
các công trình như:
Luận văn, Luận án, đề tài nghiên cứu khoa học
1. Nguyễn Minh Oanh (chủ biên), Vật quyền trong pháp luật dân sự
Việt Nam hiện đại, NXB Công an nhân dân, 2018.
Công trình là cái nhìn tổng quát về chế định vật quyền trong pháp luật
Việt Nam hiện đại. Công trình đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
vật quyền như khái niệm, đặc điểm, các loại vật quyền và nguyên tắc của vật
quyền. Công trình đã khái quát được quá trình phát triển của pháp luật dân sự
Việt Nam về vật quyền, trên cơ sở đó chỉ ra được những điểm tiến bộ của
pháp luật làm cơ sở kế thừa và hoàn thiện pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại.
Những nghiên cứu của công trình và tập thể tác giả tiếp cận sâu, toàn diện các

quy định chung về vật quyền như xác lập, thực hiện, chấm dứt vật quyền, bảo
vệ vật quyền… mà trước đây chưa có công trình nào nghiên cứu. Ngoài ra,
công trình đánh giá được những điểm tiến bộ và hạn chế của BLDS Việt Nam
về vật quyền trong sự so sánh đối chiếu với lý luận và pháp luật các nước,


3

cũng như đã đưa ra được những kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về chế định vật quyền.
2. Đinh Thị Tâm (2012), Kiện đòi lại tài sản- Một số vấn đề Lý luận và
thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, ĐH Luật Hà Nội.
Công trình này nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu bằng phương
thức kiện đòi lại tài sản. Trong đó, công trình này tập trung nghiên cứu quy
định trong BLDS năm 2005 về các vấn đề như chủ thể kiện đòi tài sản, đối
tượng kiện đòi, các trường hợp kiện đòi, các trường hợp không kiện đòi được.
Qua đó, công trình cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng và chỉ ra một số
phương hướng hoàn thiện pháp luật. So sánh với phạm vi nghiên cứu của đề
tài mà chúng tôi thực hiện, công trình này mới chỉ nghiên cứu một nội dung
nhỏ trong các phương thức bảo vệ quyền sở hữu (phương thức kiện đòi tài
sản) chứ không nghiên cứu các phương thức khác (tự bảo vệ, kiện bồi thường,
kiện yêu cầu ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm). Hơn nữa, công trình
này được thực hiện khi Bộ luật dân sự năm 2015 chưa được thông qua, nên
chưa có những phân tích, đánh giá để bảo đảm việc thực thi có hiệu quả
những quy định trong Bộ luật này. Thực tế này cho thấy, việc nghiên cứu đề
tài khoa học này là cần thiết.
3. Lê Hồng Hạnh (2015), “Nghiên cứu so sánh chế định sở hữu, hợp
đồng trong pháp luật dân sự Việt Nam và Trung Quốc”, Đề tài cấp Bộ.
Công trình này tập trung vào việc nghiên cứu những điểm tương đồng
và khác biệt về chế định sở hữu, hợp đồng giữa pháp luật dân sự Việt Nam và

Trung Quốc. Về chế định sở hữu, công trình này đã nghiên cứu một cách khái
lược về sở hữu và quan hệ sở hữu ở Việt Nam từ thời kỳ phong kiến cho đến
nay. Ngoài ra, công trình này cũng nghiên cứu về quyền sở hữu đối với bất
động sản, về hình thức sở hữu, về nội dung quyền sở hữu, về căn cứ xác lập
quyền sở hữu, về bảo vệ quyền sở hữu theo phương thức dân sự. Tuy nhiên,
mục đích nghiên cứu của công trình là so sánh những điểm tương đồng và


4

khác biệt giữa pháp luật dân sự Việt Nam và Trung Quốc, nên công trình này
không đi sâu nghiên cứu những ưu điểm và hạn chế trong quy định của pháp
luật dân sự Việt Nam về bảo vệ quyền sở hữu, nên việc hoàn thiện mới chỉ
dừng lại ở mức định hướng chứ chưa có kiến nghị hoàn thiện cụ thể đối với
từng chương, điều có liên quan. Đồng thời, công trình này được thực hiện tại
thời điểm Bộ luật dân sự năm 2015 chưa được thông qua, nên cũng chưa có
những phân tích, đánh giá nhằm hoàn thiện các quy định về vật quyền trong
Bộ luật này.
Bài báo, tạp chí
1. Bùi Thị Thanh Hằng, Đề xuất nội dung chế định quyền sở hữu cho
Bộ luật dân sự Việt Nam tương lai, Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và
Pháp luật, Số 1/2015, tr. 59 - 67.
Trong bài viết này, tác giả tập trung vào phân tích để chỉ ra những bất
cập của BLDS năm 2005 về nội dung quyền sở hữu, trong đó đặc biệt là bất
cập khi chỉ ghi nhận quyền chiếm hữu là một quyền năng của chủ sở hữu.
Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra những bất cập của Dự thảo BLDS ngày 05 tháng
01 năm 2015. Qua đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện Dự
thảo Bộ luật dân sự này theo hướng: cần phải ghi nhận chiếm hữu là một vật
quyền; cần phải xây dựng khái niệm chiếm hữu theo một học thuyết chủ đạo;
cần chỉ rõ thứ tự ưu tiên về vị thế giữa người chiếm hữu trước và người đang

chiếm hữu vật.
2. Bùi Thị Thanh Hằng, Đỗ Giang Nam, Thứ tự quyền ưu tiên giữa các
vật quyền bảo đảm trong bối cảnh sửa đổi Bộ luật dân sự, Nghiên cứu lập
pháp- Văn phòng Quốc hội, Số 1/2014, tr. 25 - 33.
Bài viết này chỉ tập trung vào việc đưa ra những kiến nghị sửa đổi
BLDS năm 2005 về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các vật quyền bảo đảm mà
chưa nghiên cứu toàn diện về nội dung các vấn đề có liên quan đến vật quyền
bảo đảm như: thời điểm xác lập vật quyền bảo đảm; đăng ký bảo đảm; vấn đề


5

xử lý tài sản bảo đảm. Do đó, bài viết chưa giải quyết vấn đề liên quan đến
bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
3. Dương Đăng Huệ, Nên sử dụng khái niệm vật quyền trong Bộ luật
Dân sự, Nghiên cứu lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp, Số 13/2015, tr. 4 - 9,
54.
Bài viết được thực hiện trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung BLDS năm
2005. Trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề như: tại sao
lại có khái niệm vật quyền trong khoa học pháp lý dân sự của các nước
Phương Tây; các cách hiểu khác nhau của vật quyền; các loại vật quyền và tại
sao Việt Nam phải áp dụng lý thuyết vật quyền vào việc sửa đổi, bổ sung
BLDS. Mặc dù bài viết là cơ sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu, xây
dựng chế định vật quyền ở Việt Nam, nhưng tác giả chỉ tập trung vào các vấn
đề liên quan đến khái niệm vật quyền mà chưa giải quyết được các nội dung
liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
4. Lê Hồng Hạnh, Sử dụng khái niệm quyền tài sản thay cho vật quyền
trong Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Nhà nước và Pháp luật- Viện Nhà
nước và Pháp luật, Số 4/2015, tr. 3 - 10.
Bài viết này tập trung giải quyết vấn đề cần sử dụng khái niệm quyền

tài sản thay cho khái niệm vật quyền. Trong đó, tác giả tập trung chỉ ra những
mâu thuẫn, bất cập của dự thảo BLDS liên quan đến khái niệm vật quyền. Tác
giả cho rằng, tên gọi của phần II không sử dụng khái niệm vật quyền nhưng
nội dung của 20 điều trong Dự thảo vẫn sử dụng khái niệm vật quyền là
không nhất quán. Ngoài ra, tác giả cũng đi vào nghiên cứu khái niệm vật và
vật quyền trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Từ những phân tích
của mình, tác giả cho rằng BLDS nên sử dụng khái niệm quyền tài sản chứ
không nên sử dụng khái niệm vật quyền.


6

5. Nguyễn Ngọc Điện, Lợi ích của việc xây dựng chế định vật quyền đối
với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tài sản, Nghiên cứu lập pháp- Văn
phòng Quốc hội, Số 2 + 3/2011, tr. 92 – 96.
Bài viết tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản như: chủ thể của vật
quyền có lợi hơn chủ thể của trái quyền; đưa ra định hướng xây dựng lại khái
niệm tài sản; cần xây dựng lại quan niệm về địa dịch; một số quan điểm về
vật quyền và bảo đảm nghĩa vụ. Nhìn chung, bài viết chỉ đưa ra một số quan
điểm thể hiện những lợi ích của việc ghi nhận và xây dựng chế định (mà thực
chất là khái niệm) vật quyền. Bài viết chưa giải quyết các vấn đề liên quan
đến bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
6. Nguyễn Ngọc Điện, Sự cần thiết của việc vận dụng lý thuyết về vật
quyền bảo đảm vào quá trình sửa đổi Bộ luật dân sự, Nghiên cứu lập phápVăn phòng Quốc hội, Số 2 + 3/2014, tr. 39 - 46.
Trong bài viết này, tác giả tập trung vào việc phân tích, đánh giá và sự
cần thiết của việc công nhận vật quyền bảo đảm, cụ thể: trên cơ sở sự hình
thành lý thuyết về vật quyền trong luật Latinh, tác giả cho rằng vật quyền bảo
đảm là hệ quả tất yếu của sự phát triển lý thuyết vật quyền; tác giả đưa ra
những đặc điểm của vật quyền bảo đảm; tác giả cho rằng sự thiếu vắng lý
thuyết vật quyền trong quan hệ bảo đảm dẫn đến những khó khăn, bế tắc

trong việc xử lý tài sản bảo đảm khi người bảo đảm không chịu hợp tác để xử
lý tài sản bảo đảm, điều đó cũng dẫn đến những kiểu ứng xử phi chuẩn mực
trong quá trình xử lý nợ. Như vậy, nội dung bài viết chỉ hướng tới xác định
vai trò của lý thuyết vật quyền trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự chứ chưa quan tâm tới các phương thức bảo vệ vật quyền.
7. Phạm Văn Tuyết, Quyền sở hữu và các vật quyền khác trong Dự thảo
Bộ luật dân sự (sửa đổi), Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số
đặc biệt: Góp ý hoàn thiện Dự thảo BLDS (sửa đổi)/2015, tr. 92 - 96.


7

Đây là công trình nghiên cứu, đánh giá một số nội dung về quyền sở
hữu và các vật quyền khác trong dự thảo sửa đổi BLDS. Tuy nhiên, thời điểm
công trình này được thực hiện, có nhiều dự thảo khác nhau đã được ban hành,
và đặc biệt BLDS 2015 được thông qua đã có nhiều thay đổi rõ rệt so với các
nội dung được phân tích trong công trình này.
8. Vũ Thị Hồng Yến, Áp dụng nguyên tắc vật quyền nhằm khắc phục
những hạn chế của chế định tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự,
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số đặc biệt: Góp ý hoàn thiện Dự
thảo BLDS (sửa đổi)/2015, tr. 82 - 91.
Công trình này được thực hiện trước khi BLDS năm 2015 được thông
qua. Trong đó tác giả tập trung vào việc nghiên cứu các vấn đề cơ bản như:
các nguyên tắc cơ bản của chủ thuyết vật quyền; hệ quả pháp lý của học
thuyết vật quyền; hạn chế của chế định tài sản và quyền sở hữu trong BLDS
năm 2005, trong dự thảo và những kiến nghị.
3. Mục đích, đối tượng, giới hạn phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích nghiên cứu đề tài
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản theo Pháp luật dân sự Việt Nam.

+ Đưa ra những luận điểm, luận cứ về các phương thức bảo vệ quyền sở
hữu và các quyền khác đối với tài sản theo Pháp luật dân sự Việt Nam.
+ Đánh giá được những những nội dung tiến bộ và chưa phù hợp của
các quy định về bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản trong
hệ thống pháp luật Việt Nam.
+ Nghiên cứu được thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền sở
hữu và các quyền khác đối với tài sản.


8

+ Đưa ra những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
điều chỉnh quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản theo Pháp luật dân
sự Việt Nam.
Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam về bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với
tài sản, cụ thể:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản như khái niệm, đặc điểm, các phương thức bảo vệ
quyền sở hữu.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam về bảo vệ
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản để làm nổi bật những ưu điểm
và hạn chế cũng để đưa ra được những khuyến nghị phù hợp nhằm hoàn thiện
pháp luật về nội dung này.
- Nghiên cứu một số bản án điển hình về quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản từ đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết các
tranh chấp có liên quan đến áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thiện đề tài này, tác giả dựa vào cơ sở nền tảng của chủ nghĩa

Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, cùng với
việc sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lê nin khi đưa ra nhận xét, đánh giá về một vấn đề. Các phương pháp
mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp so sánh và phương pháp đánh
giá ….


9

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn “Bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
theo pháp luật dân sự Việt Nam” tiếp cận vấn đề bảo vệ quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản theo cách khái quát, giúp người nghiên cứu và
người đọc có được hiểu biết tổng quát về những vấn đề lý luận, quy định cụ
thể của Pháp luật Dân sự Việt Nam hiện đại về bảo vệ quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản. Luận văn cũng là tài liệu có giá trị cho các các cơ
quan thi hành pháp luật trong việc giúp các cán bộ thi hành pháp luật hiểu sâu
sắc về bảo vệ quyền sở hữu và các quyền tài sản khác làm cơ sở cho việc vận
dụng pháp luật vào thực tiễn. Đồng thời, đây cũng là tài liệu có giá trị giúp cơ
quan có thẩm quyền cân nhắc trong việc hoàn thiện và sửa đổi pháp luật về
chế định này trong tương lai.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu và 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền
sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện pháp luật dân sự
Việt Nam về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản



10

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU VÀ CÁC
QUYỀN KHÁC ĐỐI VỚI TÀI SẢN

1.1. Khái niệm quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản
1.1.1. Định nghĩa quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản
Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là chế định quan trọng
trong Bộ luật dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu
tài sản, bảo đảm trật tự xã hội trong giao lưu dân sự. Pháp luật các nước
Romano-Germanic và khoa học pháp lý hiện đại cho rằng “quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản” là việc pháp luật thừa nhận và cho phép chủ
thể trực tiếp thực hiện các quyền năng của mình đối với tài sản1, cho phép chủ
thể trực tiếp thực hiện các quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với một
2
tài sản . Với cách hiểu này, khái niệm tài sản được mở rộng, có tính khái quát

cao bao gồm cả tài sản cố định và tài sản lưu động, hữu hình và vô hình, tài
sản đã hình thành hoặc chưa hình thành, vấn đề nhượng quyền, địa dịch… Hệ
thống pháp luật một số nước đã phát triển khái niệm này thành các loại quyền
đối với tài sản.
Như vậy, theo quan điểm pháp lý hiện đại, thuật ngữ “quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản” được hiểu như sau:3
Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản là toàn bộ các quy
phạm pháp luật quy định về các loại quyền sở hữu và các quyền khác đối với

1


Gullifer (L.) (ed), Goode on Legal Problems of Credit and Security, Sweet & Maxwell, 4th edn, 2008, paras.
1-06 and 107 and 1-17 and seq.
2

Xem: F. Terré và Ph. Théry, Droit civil- Les biens, Dalloz, Paris, 1992, tr. 30 ; Ph. Malaurie và Laurent
Aynès, Droit civil-Les biens, Cujas, Paris, 1998, tr 87
Nguyễn Minh Oanh (chủ biên), Vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại, NXB Công an nhân
dân, 2018.
3


11

tài sản và nội dung của từng loại quyền, về căn cứ phát sinh, chấm dứt các
loại quyền đó, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ, về các hạn chế mà người có
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tàn sản phải tuân thủ khi thực hiện
các quyền năng của mình.
Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản bao gồm:
(i) Thứ nhất, quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng là quyền chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu. Quyền sở hữu là loại quyền trung tâm,
là quyền đối với tài sản đầu tiên và có tính tuyệt đối, trọn vẹn. Chủ thể mang
quyền sở hữu có toàn quyền đối với tài sản của mình từ nắm giữ, kiểm soát về
phương diện vật chất, cho đến khai thác công năng kinh tế và quyết định số
phận vật chất, pháp lý của tài sản đó.
(ii) Thứ hai, các quyền khác đối với tài sản của người khác (một số
quyền của người không phải là chủ sở hữu) bao gồm quyền hưởng dụng,
quyền sử dụng, quyền ngụ cư, quyền thuê dài hạn, quyền bề mặt (superficies),
quyền khai thác kinh tế và quyền quản lý nghiệp vụ, quyền địa dịch và các
quyền khác đối với tài sản bảo đảm...

1.1.2. Đặc điểm của quyền sở hữu, các quyền khác đối với tài sản
Với tính chất là các quyền tuyệt đối, áp dụng đối với tất cả mọi người,
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản có những đặc điểm pháp lý
như sau4:
Thứ nhất, quyền chi phối trực tiếp với tài sản

Xem thêm: Nguyễn Ngọc Điện, Góp ý sửa đổi BLDS – Vận dụng lý thuyết quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản vào việc hoàn thiện pháp luật về tài sản, tại website:
4

/>ds/Lists/TinTuc&ListId=8993ced7-82ed-4a34-80e9-465099dbf170&SiteId=5a26f722-7f89-4244ba6d-c2d0d7ad02da&ItemID=36&OptionLogo=0&SiteRootID=63d81917-c1c4-48e4-bebbf2afcd9691e5


12

Chủ thể có quyền được tác động trực tiếp hay chi phối trực tiếp đối với
tài sản đó thông qua quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản. Quyền
sở hữu và các quyền khác đối với tài sản thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa
người có quyền đối với tài sản. Thông qua những hành vi cụ thể như nắm giữ,
khai thác công dụng, sử dụng, bảo quản, giữ gìn tài sản, tài sản được tác động
lên bởi chủ thể thực hiện quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản. Chủ
thể cũng hình thành mối liên hệ trực tiếp với tài sản thể hiện thông qua việc
trực tiếp tác động lên tài sản của mình hay tài sản của người khác mà không
cần vai trò của người thứ ba. Đối với chủ sở hữu, chủ sở hữu có thể trực tiếp
tác động lên tài sản của người bằng cách nắm giữ, chi phối tài sản, tự mình
khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản,... thể hiện cụ thể ở các
quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền địa dịch,...
Thứ hai, tính tuyệt đối (có hiệu lực đối với tất cả mọi người)
Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản có hiệu lực đối với tất
cả mọi người và phải được mọi người tôn trọng. Quyền sở hữu và các quyền

khác đối với tài sản được bảo vệ một cách tuyệt đối, không bị xâm phạm bởi
bất kỳ chủ thể nào khác. Tất nhiên, để đối kháng được với người thứ ba, thì
điều cần thiết là quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản phải được
người thứ ba nhận biết rõ ràng. Khi quyền sở hữu và các quyền khác đối với
tài sản có hiệu lực thì mọi người khác trong xã hội đều phải có nghĩa vụ tôn
trọng người có quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, không được
xâm phạm đến quyền của người có quyền sở hữu và các quyền khác đối với
tài sản. Để bảo đảm quyền của người có quyền sở hữu và các quyền khác đối
với tài sản, pháp luật dân sự quy định cho người có quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản được quyền tự mình sử dụng mọi biện pháp không
trái với quy định của pháp luật nhằm bảo vệ, ngăn chặn người khác có hành vi
xâm phạm quyền của mình. Đồng thời, họ cũng được quyền khởi kiện chống
lại mọi hành vi xâm phạm từ phía chủ thể khác.


13

Thứ ba, tính đeo đuổi vật
Vật quyền cho phép người có quyền thực hiện quyền của mình đối với
tài sản bất kể vật đang nằm trong tay bất kỳ người nào, trong bất kỳ hoàn
cảnh nào. Đặc tính này được hiểu là người có quyền đối vật có thể thực hiện
quyền của mình đối với tài sản, bất kể tài sản đang nằm trong tay người nào
và trong bất kỳ hoàn cảnh nào5. Tính đeo đuổi vật được thể hiện trong các
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản như sau chủ thể có quyền sở
hữu và các quyền khác đối với tài sản có quyền được tác động lên tài sản của
mình dù cho tài sản đã được chuyển dịch hay thuộc sự kiểm soát của chủ thể
khác.
Tính đeo đuổi vật của quyền sở hữu, kể cả khi chủ sở hữu tài sản bị
thay đổi tức là quyền sở hữu tài sản được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ
thể khác thì quyền sở hữu đối với tài sản đều không bị ảnh hưởng. Chủ sở hữu

có quyền đòi lại tài sản của mình bằng các phương thức khác nhau để đòi lại
tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình, bất kể cho tài sản đó đã được chuyển
giao qua những chủ thể nào.Tính đeo đuổi vật cũng có nghĩa quan trọng với
các quyền khác đối với tài sản bởi lẽ nó thể hiện sự tồn tại độc lập của các
quyền khác đối với tài sản, tách nó khỏi sự lệ thuộc vào quyền sở hữu. Chủ sở
hữu của địa dịch hưởng quyền vẫn được thực hiện quyền của mình trên bất
động sản chịu địa dịch dù bất động sản chịu địa dịch đó được chuyển nhượng
lần lượt cho nhiều người. Như thế, các quyền khác đối với tài sản khác ngoài
quyền sở hữu vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển
giao. Sự độc lập giữa quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản khác so
với quyền sở hữu cũng là để khẳng định tính chất tuyệt đối của các quyền sở
hữu và các quyền khác đối với tài sản.
Thứ tư, việc thực hiện quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
không làm chấm dứt quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Nguyễn Ngọc Điện (2000), nghiên cứu về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh,
2000, tr. 124.
5


14

Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản có thể đồng thời tồn tại
song song. Các chủ thể có quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản sẽ
cùng thực hiện các hành vi khai thác tài sản theo nội dung của quyền sở hữu
và các quyền khác đối với tài sản đó (ví dụ như sử dụng ngôi nhà, dùng lối đi,
hưởng hoa lợi từ khai thác bề mặt đất…). Và điểm đáng lưu ý ở đây là khi các
chủ thể này đồng thời thực hiện quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài
sản không làm chấm dứt quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản. Ví
dụ: khi một chủ thể có quyền địa dịch về lối đi trên đất nhà hàng xóm thì việc
thực hiện quyền về lối đi này liên tục, lâu dài và không mất đi. Quyền sở hữu

và các quyền khác đối với tài sản sẽ tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của tài
sản.
Thứ năm, tính dịch chuyển được
Đặc điểm này thể hiện rằng quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài
sản có thể được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. Tính dịch
chuyển được và tính độc lập là căn cứ cho các quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản không hề bị phụ thuộc vào điều kiện nào khi tài sản bị di
chuyển. Nếu chủ thể có quyền khác đối với tài sản (ví dụ như quyền bề mặt,
quyền địa dịch hoặc quyền hưởng dụng) muốn dịch chuyển quyền năng này
cho chủ thể khác thì chủ thể có quyền khác đối với tài sản không cần chủ sở
hữu cho phép.
Thứ sáu, quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản cho phép
người có quyền được ưu tiên thực hiện quyền của mình đối với tài sản
Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản cho phép người có
quyền thực hiện quyền của mình đối với tài sản nhằm thỏa mãn lợi ích theo
đuổi trước những người khác, đặc biệt là những người theo đuổi có cùng lợi
ích đó. Quyền này gọi là quyền ưu tiên 6. Người có quyền đối vật có thể loại
Lê Thị Hoàng Thanh và Đỗ Thị Thúy Hằng, Giới thiệu nội dung cơ bản của chế định vật quyền và vấn đề
hoàn thiện Bộ luật Dân sự Việt Nam, Tạp chíThông tin Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp, số 5/2015, tr. 7.
6


15

tất cả những người có quyền đối nhân và cả những người có quyền đối vật
xếp sau mình theo thứ tự đăng ký ra khỏi cuộc chạy đua nhằm thực hiện các
quyền đối với tài sản liên quan. Người mua tài sản, sau khi quyền sở hữu tài
sản mua đã được chuyển giao mà tài sản chưa được giao, có quyền ưu tiên đối
với tài sản so với các chủ nợ của người bán trong trường hợp người bán lâm
vào tình trạng phá sản. Nếu người mua tuyên bố nhận tài sản, thì các chủ nợ

của người bán không có quyền yêu cầu kê biên tài sản đó7.
1.2. Khái niệm biện pháp bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản
1.2.1. Định nghĩa bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài
sản
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Bảo vệ có nghĩa và giữ gìn cho khỏi hư
hỏng” hay là “chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm để giữ cho được nguyên
vẹn”8. Như vậy, theo cách hiểu thông thường, bảo vệ quyền sở hữu và các
quyền khác đối với tài sản có thể được định nghĩa là việc thực hiện các hành
vi chống lại sự xâm phạm đến tài sản nhằm đạt được mục đích bảo toàn quyền
sở hữu và quyền khác đối với tài sản của chủ thể. Theo lý luận truyền thống
của pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản được
hiểu là những biện pháp trong khuôn khổ pháp luật nhằm thực hiện các hành
vi ngăn ngừa, ngăn chặn hay chống lại những hành vi xâm hại hoặc đe dọa
xâm hại đến quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
Quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản được bảo vệ bằng các
biện pháp hình sự, hành chính hay dân sự, tương ứng với các ngành luật. Mỗi
ngành luật sẽ cho ra đời tương ứng các phương thức khác nhau để bảo vệ loại
quyền năng này. Pháp luật ghi nhận các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản là tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan Nhà
Nguyễn Ngọc Điện (2000), nghiên cứu về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh,
2000, tr. 125 – 126.
8
/>7


16

nước có thẩm quyền khác có thể sử dụng những cách thức, biện pháp nhất
định theo quy định của luật để bảo vệ chủ sở hữu cũng như chủ thể có quyền

khác đối với tài sản khi những quyền này bị xâm phạm.
Do đó, xét một cách tổng quát nhất, phương thức bảo vệ quyền sở hữu
và các quyền khác đối với tài sản có thể được hiểu là những cách thức, biện
pháp không trái với quy định của pháp luật do chủ thể mang quyền, Tòa án,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác sử dụng nhằm ngăn chặn các nguy cơ
xâm phạm đến quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Qua đó, khôi phục
các lợi ích vật chất, những tổn thất đã xảy ra cho chủ thể quyền đối với tài do
các hành vi xâm phạm và các yếu tố khác gây ra. 9
1.2.2. Đặc điểm của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản
Phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
ngoài việc mang tính chất của những phương thức bảo vệ quyền trong các
quan hệ khác của chủ thể (trái quyền) như: Được luật định trên cơ sở tôn
trọng sự thỏa thuận, thương lượng (tự bảo vệ), khởi kiện yêu cầu cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền bảo vệ bằng việc áp dụng các quy định của pháp luật …
còn có những đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, tính đa dạng trong việc bảo vệ khi có sự khác nhau về hành vi
xâm phạm.
Xuất phát từ sự đang dạng của cuộc sống, của lối tư duy, suy nghĩ và
hành động thì hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu và các quyền khác đối với
tài sản cũng đa dạng và phong phú. Do đó, pháp luật dân sự cũng thể hiện tính
đa chiều khi ghi nhận phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác
đối với tài sản để phù hợp với từng diễn biến, tình tiết của các vụ việc khác
nhau, cụ thể là: tự bảo vệ, ngăn chặn bất kì người nào có hành vi xâm phạm
Nguyễn Minh Oanh (2018), Vật quyền trong Pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại, Nxb Công an nhân dân,
TP. Hà Nội, 2018, tr. 53.
9


17


quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật;
buộc người có hành vi xâm phạm trả lại tài sản; yêu cầu chấm dứt hành vi cản
trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu; yêu cầu bồi thường
thiệt hại.
Thứ hai, không bị áp dụng thời hiệu trong quá trình khởi kiện đối với
quyền sở hữu
Khác với các loại quan hệ khác như nghĩa vụ, hợp đồng, bồi thường,
thừa kế… việc khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu được luật quy định
không áp dụng thời hiệu. Cơ sở của việc không quy định thời hiệu khởi kiện
khi quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản bị xâm phạm chính là vì các
quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản mang tính chất tuyệt đối, luôn
tồn tại ở trạng thái tĩnh, có tính lâu dài không bị giới hạn về mặt thời gian.
Bên cạnh đó, việc xâm phạm loại quyền năng này lúc nào, ra sao và do ai
cũng khó xác định hơn các loại quan hệ khác. Do đó, nếu áp dụng thời hiệu
khởi kiện sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới các quyền này của chủ thể. Đặc
điểm này cũng được quy định tại khoản 2 Điều 155 BLDS năm 2015.
Thứ ba, chủ thể bị khởi kiện là bất kỳ ai có hành vi xâm phạm
Vì tính xác định chủ thể trong quan hệ mà khi áp dụng các phương thức
bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, chủ thể bị khởi kiện
có thể là bất kỳ ai có hành vi xâm phạm đến việc thực hiện quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản của chủ thể mang quyền. Cũng chính vì vậy mà
trong quan hệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản, cùng một lúc
chủ thể quyền có thể khởi kiện nhiều người nếu họ đều có hành vi xâm phạm
đến chủ thể mang quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản. Ví dụ, A
có một mảnh đất và bị B xây bịt lối đi, bị C chiếm hữu trái pháp luật không
trả thì đồng thời A có thể khởi kiện cả B và C.
1.3. Phân loại các phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản theo pháp luật dân sự



18

Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
trong pháp luật dân sự có thể được phân loại dựa trên một số tiêu chí khác
nhau. Cụ thể như:
1.3.1. Căn cứ vào chủ thể sử dụng phương thức bảo vệ
Dựa vào chủ thể bảo vệ quyền, phương thức nảo vệ quyền sở hữu và
các quyền khác đối với tài sản bao gồm: phương thức tự bảo vệ do chủ thể
mang quyền (chủ sở hữu hoặc chủ thể có quyền khác đối với tài sản) sử dụng
và phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản thông
qua Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
Chủ thể có quyền được hưởng lợi từ quyền năng của mình nên đương
nhiên phải có tinh thần, trách nhiệm cao nhất trong việc sử dụng các phương
thức để tự bảo vệ quyền lợi cho chính bản thân mình. Trong trường hợp
quyền lợi của mình bị xâm phạm, chủ thể mang quyền được quyền yêu cầu
bên có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu bồi
thường. Phương thức tự bảo vệ thể hiện tính chủ động của chủ thể mang
quyền. Ưu điểm của phương thức này là có thể được sử dụng nhanh, linh
hoạt, tiết kiệm chi phí nhưng nhược điểm là hiệu quả không cao bởi không có
sự đảm bảo thi hành bằng quyền lực nhà nước mà phụ thuộc vào sự tự nguyện
chấp hành của chủ thể vi phạm.
Bên cạnh các phương thức tự bảo vệ, chủ thể mang quyền có quyền yêu
cầu Tòa án, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền sở hữu
của mình. Khi đó, Tòa án, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng
các phương thức theo quy định của luật để bảo vệ quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản của chủ thể.
Cách phân loại này cho thấy tính chủ động của chủ sở hữu, chủ thể có
quyền khác đối với tài sản là rất quan trọng bởi họ chính là chủ thể thực hiện
việc bảo vệ quyền năng của mình thông qua việc thực hiện phương thức tự



19

bảo vệ và phương thức vệ quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
thông qua Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
1.3.2. Căn cứ vào thời điểm áp dụng các phương thức bảo vệ quyền
sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Thời điểm áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu và các quyền
khác đối với tài sản là yếu tố quan trọng quyết định đến việc lựa chọn phương
thức bảo vệ quyền sở hữu cho phù hợp. Dựa trên căn cứ này, phương thức
bảo vệ quyền sở hữu bao gồm: phương thức bảo vệ khi quyền của chủ sở hữu
hoặc quyền khác đối với tài sản chưa bị xâm phạm và phương thức bảo vệ khi
quyền của chủ sở hữu hoặc quyền của chủ thể có quyền khác đối với tài sản
đã bị xâm phạm.
Phương thức bảo vệ khi quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản
chưa bị xâm phạm là các phương thức mang tính chất phòng ngừa, ngăn chặn
làm cho các hành vi xâm phạm không xảy ra. Hiệu quả bảo vệ của phương
thức này được đánh giá là rất cao và đây là phương thức cần được chủ sở hữu
và chủ thể có quyền khác đối với tài sản lưu tâm, chú ý thực hiện. Bởi lẽ, nếu
phương thức bảo vệ khi quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản chưa bị
xâm phạm được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật thì quyền lợi của
chủ thể mang quyền sẽ được bảo toàn đầy đủ, nguyên vẹn và chủ thể mang
quyền sẽ tránh được những tranh chấp phát sinh ngoài ý muốn.
Phương thức bảo vệ khi quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
chỉ được áp dụng khi những hành vi xâm phạm đến các quyền này đã xảy ra
trên thực tế (tức là quyền lợi của chủ thể mang quyền đã bị ảnh hưởng). Tùy
vào tình hình thực tế của vụ việc, chủ sở hữu và chủ thể có quyền khác đối
với tài sản có thể lựa chọn phương thức bảo vệ phù hợp như phương thức kiện
đòi tài sản, phương thức yêu cầu bồi thường thiệt hại, phương thức yêu cầu

chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền của chủ
sở hữu và chủ thể quyền khác đối với tài sản. Ở mỗi phương thức bảo vệ này,


×