Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Những vấn đề môi trường ven biển nổi bật ở Việt Nam và định hướng bảo vệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.83 KB, 21 trang )

Trần Đức Thạnh, 2007. Những vấn đề môi trường ven biển nổi bật ở Việt Nam và định hướng bảo vệ.
Trong: PN Hồng (Chủ biên): “Vai trò của hệ sinh thái rừng ngập mặn và rạn san hô trong việc giảm
nhẹ thiên tai và cải thiện cuộc sống ở vùng ven biển”. Nxb. Nông nghiệp. Hà Nội Tr. 119 – 134.

NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG VEN BIỂN NỔI BẬT Ở VIỆT NAM VÀ
ĐỊNH HƯỚNG BẢO VỆ
Trần Đức Thạnh
Viện Tài nguyên và Môi trường biển

Mở đầu
Quá trình tương tác và trao đổi vật chất giữa lục địa và đại dương ở dải ven biển
(DVB) tạo nên thế cân bằng động về môi trường, sinh thái và cơ cấu tài nguyên thiên nhiên.
Do tác động nhân tác và biến đổi khí hậu, cân bằng này bị phá vỡ và dẫn đến nhiều hậu quả
tiêu cực (Permetta & Milliman 1995). DVB Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa
nơi các con sông lớn có lưu vực nằm trên sáu nước đổ vào và vùng biển phía ngoài có quan
hệ về sinh thái và môi trường với vùng biển của nhiều nước trong khu vực. Đây là khu vực rất
nhạy cảm và các hệ sinh thái, đặc biệt là rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển,v.v. rất dễ
bị tổn thương do các tác động môi trường. Cùng với sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số,
hoạt động nhân tác đã tác động lớn lên môi trường ven biển. Con người, môi trường và hệ
sinh thái ven biển còn chịu ảnh hưởng của những biến động bất thường về khí hậu, thủy văn
có xu hướng gia tăng gần đây. Đó là chưa kể nguy cơ các thiên tai, kể cả núi lửa, động đất và
sóng thần chưa được đánh giá đầy đủ. Áp lực môi trường và các tai biến ven biển không chỉ
phát sinh tại chỗ mà còn nguồn từ lục và từ đại dương. Vì vậy, chiến lược bảo vệ môi trường
ven biển cần phải được nhìn nhận từ những mối quan hệ vĩ mô của tương tác lục địa-đại
dương ở DVB. Nghiên cứu này nhận được sự hỗ trợ của Hội đồng Khoa học Tự nhiên.
1. Tổng quan về dải ven biển Việt Nam
Bờ biển Việt Nam trải dài trên 3200 km với 114 cửa sông lớn nhỏ và có thể được chia
làm 4 vùng tự nhiên là Vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Vịnh Thái Lan. Hàng năm,

1



các dòng sông đổ vào DVB Việt Nam khoảng 880 tỷ m 3 nước và 200-250 triệu tấn bùn cát ,
chủ yếu tập trung ở cửa sông Hồng và Mê Kông. Lưu vực sông Mê Kông nằm trên địa phận 6
nước, gồm Trung Quốc, Mianma, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. DVB Việt Nam
nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, có nhiệt độ trung bình năm 22,6–27,2 0C, tăng dần về phía
nam, lượng mưa trung bình năm khoảng 1000–2400 mm. Hàng năm (1975 - 1994), có 2,52
cơn bão và 2,2 áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào. Thiệt hại do bão khá lớn, ví dụ tới 600 triệu USD
vào năm 1997. Mực nước biển dâng cao được ghi nhận ở một số trạm ven biển, ví dụ,
2,24mm/năm ở Hòn Dấu trong 1957–1989 (Thuỵ & Khước, 1994).
Các hệ sinh thái ven biển như cửa sông, đầm phá, vũng vịnh, rừng ngập mặn, rạn san
hô, thảm cỏ biển v.v. có năng suất và đa dạng sinh học cao. Có tới 11 nghìn loài thủy sinh và
trên 1300 loài sinh vật trên đảo có mặt ở biển và ven biển Việt Nam, trong đó có nhiều loài
qúy hiếm. Trữ lượng cá biển khoảng 3,0 – 3,5 triệu tấn và sản lượng đánh bắt thuỷ sản cho
phép trên triệu tấn năm (Bộ thủy sản, 1996), sản lượng khai thác năm 2002 khoảng 1,2 triệu
tấn (Phạm Văn Ninh và nnk, 2005 ). Tài nguyên phi sinh vật biển và ven biển khá phong phú,
đặc biệt là dầu khí với trữ lượng khoảng 3 tỷ tấn và trữ lượng công nghiệp được xác định
khoảng 1,2 tỉ tấn, sản lượng khai thác 2004 khoảng 20 triệu tấn. ở vùng ven biển có tới
khoảng 100 mỏ khoáng sản. Mỏ than Quảng Ninh, trữ lượng 3,59 tỉ tấn và sản lượng khai
thác năm 2003 đạt 18,3 triệu tấn. Mỏ sắt Thạch Khê, Hà Tĩnh có chất lượng tốt , đủ cho sản
lượng 5–6 triệu tấn gang mỗi năm.
DVB là nơi phát triển kinh tế năng động, có mật độ, tốc độ phát triển dân số cao. Năm
2003, dải ven biển (tính đến huyện, quận) có dân số 21,4 triệu người, bằng 26,7% của cả
nước. Tốc độ tăng dân số dải ven biển trung bình 1,8-2%, tốc độ tăng trưởng GDP
9,9%/năm , gấp 1,4 lần tăng trưởng GDP cả nước trong 1996 - 2003. Dọc bờ biển có tới 12
đô thị lớn, 90 cảng và bến, hàng trăm bến cá, khoảng 238.600 cơ sở sản xuất công nghiệp.
Hoạt động du lịch, dịch vụ và quá trình đô thị hoá đang tăng mạnh (Vịnh & Tuyên, 2004).
2. ảnh hưởng của nhân tác và biến động khí hậu đến môi trường bờ
2.1. Hoạt động nhân tác
Hàng năm, có hơn 1 triệu tấn sản lượng cá biển đã được khai thác (1,5 triệu tấn năm
2003), vượt số lượng khai thác cho phép từ năm 1996 và đáng chú ý đến 80% sản lượng khai

thác từ vùng nước ven biển. Nuôi trồng thuỷ sản tăng rất nhanh diện tích từ 230 nghìn ha
đầm nuôi mặn lợ vào năm 1998 đến 592 nghìn ha năm 2003, phần lớn được xây dựng trên
vùng rừng ngập mặn. Một diện tích đáng kể là bãi bồi ngập triều, kể cả các bãi sú vẹt đã được
khai hoang làm đất nông nghiệp. Riêng ở ven biển châu thổ sông Hồng, có đến 24 nghìn ha

2


đất bồi ven biển được khai hoang trong thời gian 1958–1995. Hoạt động nuôi trồng và chế
biến thuỷ sản đã thải ra một lượng lớn các chất gây ô nhiễm (Lý và nnk, 2005).
Sản lượng dầu khai thác trên biển không ngừng tăng, từ năm 2000 vượt trên 15 triệu
tấn mỗi năm. Tính toán cho thấy vào năm 1995 có 47 nghìn tấn dầu thải xuống vùng biển Việt
Nam, trong đó, từ dàn khoan dầu 3%, từ lục địa 12,8%, tràn dầu 1,2 %, từ tuyến hàng hải
quốc tế 81,9 % và hoạt động tàu thuyền trong nước 1,1% (Minh, 1996). Khai thác khoáng sản
ven biển, ví dụ than, vật liệu xây dựng, sa khoáng làm biến dạng cảnh quan bờ, đổ thải các
chất thải rắn, lỏng, làm tăng xói lở bờ biển. Mỏ than Quảng Ninh có sản lượng khai thác 10 15 triệu tấn than/ năm, mỗi năm cũng đổ thải ra khoảng 13 -19 triệu m3 đất đá và khoảng 3060 triệu m3 chất thải lỏng.
Rừng bị tàn phá nặng nề do chiến tranh, làm nương rẫy, cháy rừng và khai thác gỗ, để
lại hậu quả lâu dài. Độ phủ rừng 43% vào năm 1943 chỉ còn 28% vào năm 1995 (Cuong,
1997). Gần đây do tích cực trồng rừng và đóng cửa rừng, diện tích rừng có tăng nhưng chưa
nhiều (30% vào năm 1999). Cháy rừng thường xảy ra, đặc biệt vào những năm El-Nino khô
nóng. Vào năm El-Nino 1998, gần 20 nghìn ha rừng bị huỷ hoại trong 1.685 vụ cháy rừng.
Trong thời gian 1998-2000 có 2.035 vụ cháy thiêu mất 22.400 ha rừng (Hưng, 2001).
Suốt nghìn năm qua, một hệ thống đê điều được xây dựng để bảo vệ đồng bằng và
các khu dân cư khỏi ngập nước biển và sông. Cả nước có tới 5700 km đê sông và 2100 km đê
biển, trong đó riêng châu thổ sông Hồng có 3000km đê sông và 1500 km đê biển. Mấy chục
năm qua, ở ĐBSCL đã hình thành 12 nghìn km đê bao kín 1.200 vùng với 1,3 triệu ha lúa.
Hệ thống đập chứa trên lưu vực làm thay đổi sâu sắc lượng tải, phân bố nước và trầm
tích ven biển, gây xói lở, sa bồi và xâm nhập mặn (WCD, 2000). ở Việt Nam có trên trên 650
hồ, đập chứa cỡ lớn và vừa hơn 3500 hồ, đập chứa cỡ nhỏ (ADB, 1993.; WB et all, 1996).
Tổng khối của 5 đập thủy điện lớn nhất về sức chứa gồm Hoà Bình, Thác Bà, Trị An, Thác

Mơ và Đa Nhim là 18,5km3. Đập Hoà Bình trên sông Đà lớn nhất cả nước khởi công năm
1979, bắt đầu vận hành từ ngày 30/12/1988. Khi đập Sơn La phía trên Hoà Bình và đập Đại
Thị trên sông Gâm được hoàn thành thì tổng sức chứa các đập thuỷ điện trên hệ thống sông
Hồng bằng 20% tổng lượng chảy năm của hệ thống này. Hiện nay, trên thượng lưu sông Mê
Kông, Trung Quốc đang phát triển mạnh các đập chứa, trong đó có đập Xiaowan (khởi công
từ năm 2001) lớn thứ hai ở Trung Quốc. Dự kiến đến 2010, sẽ có 8 đập của Trung Quốc trên
thượng lưu sông Mê Kông với tổng lượng chứa trên 40km3 và các công trình này sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến ven biển châu thổ của Vệt Nam (Kumma M. et al., 2004).

3


Mỗi năm có 57,3 triệu m3 bùn cát sa lắng dưới đáy đập Hoà Bình (Dũng, 1999). Trước
đắp đập Hoà Bình, tổng lượng bùn cát lơ lửng của sông Hồng tại Sơn Tây là 114 triệu tấn,
sau đắp đập chỉ còn 79,4 triệu tấn/năm (HM. Hùng, 2001). Thiệt hại và tác động tiêu cực của
các đập lớn trên lưu vực rất lớn (NT. Hùng và nnk, 1995; Niêm và nnk. 1995), nhưng tác động
của chúng đến vùng biển cũng rất đáng kể (Thạnh & Chiến, 2002). Sự mất đi một lượng lớn
nước ngọt, trầm tích và dinh dưỡng do sông đưa ra DVB gây ra những hậu quả môi trường
sinh thái và tai biến nghiêm trọng như xói lở bờ biển, xâm nhập mặn, thay đổi chế độ thủy
văn, mất nơi cư trú và bãi giống, bãi đẻ của sinh vật, suy giảm dinh dưỡng và sức sản xuất
của vùng biển ven biển, gây thiệt hại về đa dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản đánh bắt và
nuôi trồng. Thiệt hại lớn về tài nguyên và môi trường ven biển châu thổ Hoàng Hà (Trung
Quốc) liên quan tới tải lượng nước và bùn cát sông giảm mạnh từ mhững năm 50 (Yang et
al., 2001). Đập Tam Hiệp làm dòng chảy Trường Giang giảm 10% thì sản lượng cá vùng biển
ven biển giảm 9% (Chen , 2000).
Việt Nam có diện tích nông nghiệp trên 7 triệu ha, trong đó 60 % là đất lúa. Hàng
năm, một khối lượng lớn nước cần cho nông nghiệp, ví dụ, 7 tỉ m 3 nước vào năm 1990. Tải
lượng nước sông giảm đi, lượng phân bón và hoá chất tăng lên làm tăng nồng độ chất thải ở
nước sông đổ ra biển. Năm 1993, có 2,1 triệu tấn phân hoá học, trong đó có 1,2 triệu tấn U rê,
793 nghìn tấn phốt phát và 22 nghìn tấn lân được dùng cho nông nghiệp. Lượng thuốc bảo vệ

thực vật, có cả DDT, Lindan, Monitor, Wafatox v.v. dùng cho nông nghiệp không ngừng tăng,
20 nghìn tấn vào năm 1988, tăng lên 30 nghìn tấn vào năm 1994 (Sandoz, 1996). Một phần
đáng kể dư lượng các loại hoá chất này được nước sông tải ra ven biển.
Tăng dân số, đô thị hoá, hoạt động công nghiệp và giao thông đã phát thải lượng lớn
các chất gây ô nhiễm ra vùng ven biển, chủ yếu chưa được xử lý (Diệu và nnk, 2001). Hàng
năm, lượng nước cần cho sinh hoạt và công nghiệp cũng cần đến trên 4 tỉ m 3 . Khu công
nghiệp Hà Nội -Việt Trì - Hải Phòng đổ ra 657-820 nghìn m 3 nước thải mỗi ngày và khu vực
thành phố Hồ Chí Minh đổ ra 550 nghìn m3 mỗi ngày. Tính toán cho thấy vào năm 1995 có 47
nghìn tấn dầu thải xuống vùng biển Việt Nam, trong đó từ lục địa 12,8% (Minh, 1996). Hoạt
động du lịch cũng phát thải một lượng lớn chất thải. Năm 2003 có 4,2 triệu lượt khách Quốc
tế và 11,4 triệu khách nội địa, với ước tính 70% tổng lượng khách cả nước đến du lịch ven
biển. Năm 2003, toàn bộ các hoạt động du lich toàn DVB đã thải ra 32.273 tấn rác và
4.817.000 m3 nước thải (Ninh và nnk, 2005).
2.2. Biến động khí hậu và hải văn

4


Trái đất ấm lên và mực nước biển dâng cao là một nguy cơ đối với các vùng đất thấp
đông dân ven biển như ở Việt Nam, dẫn tới ngập lụt, nhiễm mặn, xói lở, sa bồi, đảo lộn cân
bằng tự nhiên và sinh thái ven biển. Mực biển dâng cao được ghi nhận ở một số trạm ven
biển, ví dụ, tốc độ 2,24mm/năm ở Hòn Dấu trong 1957–1989 (Thuỵ & Khước, 1994).
El-Nino xuất hiện khoảng 4-10 năm một lần, làm tăng xâm nhập mặn, nghèo dinh
dưỡng, bồi lấp các cửa sông, cửa đầm phá, làm nhiệt độ nước biển dâng cao, gây chết nhiều
loài sinh vật trong đó có san hô. Trong El-Nino 1997-1998, nhiệt độ nước biển tăng trung
bình 1,8oC (Diệu và nnk, 2000) . Kể từ năm 1982 đến nay, có 12 năm El- Nino, trong đó ElNino 1982-1983 và 1997-1998 được coi là mạnh nhất thế kỷ. La Nina, thường xảy ra ngay
sau El Nino, gây mưa lũ lớn làm ngập lụt, đục hoá, ngọt hoá nước ven biển, xói sạt bờ biển và
cửa sông mạnh. Từ đầu thập kỷ 70 đến nay, La Nina xuất hiện 5 lần (Hiền, 2001), thường kèm
theo nhiều bão hơn, đổ bộ nhiều vào Nam Trung Bộ vào các tháng cuối năm.
Xu thế chung số lượng bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) đổ bộ vào vùng bờ Việt Nam

tăng theo thời gian. Trong thời gian 1975-1994, trung bình mỗi năm có 2,5 cơn bão và 2,2
ATNĐ đổ bộ vào, năm 1996 có tới 6 cơn bão, 4 ATNĐ đổ bộ vào. Phân bố mưa bão thay đổi
và tính bất thường tăng lên. Hơn mười năm qua, bão đổ bộ vào ven biển Bắc Bộ giảm hẳn,
bão ở Trung Bộ tăng lên và dịch về phía nam. Bão Linda đổ bộ vào Nam Bộ vào cuối năm
1997 lớn bất thường và hiếm gặp trong thế kỷ 20. Riêng tháng 11 năm 1999, có tới 3 cơn bão
đổ bộ liên tiếp vào ven biển Trung Bộ. Lượng mưa ven biển được đánh giá chung là suy
giảm , nhưng lượng mưa ngày ở nhiều khu vực tăng đáng kể. Ví dụ, lượng mưa trung bình
nhiều năm ở Thừa Thiên-Huế 3000mm, riêng năm 1999 là 5642mm, trong đó có lượng mưa
24 giờ ở Huế đạt 1384mm (Việt & Hùng, 2001).
3. Những vấn đề môi trường bờ nổi bật.
3.1. Ô nhiễm môi trường
Chất lượng nước ven biển Việt Nam còn khá tốt, mặc dù nhiễm bẩn một số chất ở
mức khác nhau đã được ghi nhận ở một số nơi (Hồi và nnk, 2001). Ô nhiễm dầu nghiêm trọng
nhất ở các vùng nước sát bờ, hàm lượng thường vượt mức cho phép 0,05 mg/l đối với thủy
sản và không ít nơi vượt mức cho phép 0,3 mg/l cho tắm biển. ở vùng ngoài khơi, hàm lượng
dầu trên 0,05 mg/l, cực đại 0,4 mg/l ghi nhận được ở 10% số trạm vào trước năm 1996, cao
nhất ở khu vực khai thác dầu và trên tuyến hàng hải quốc tế. Hàm lượng dầu trong nước biển
trung bình 0,34 mg/l vào các năm 1997–1998 (Diệu và nnk, 2000), gần đây tiếp tục tăng.
Nhiễm bẩn kim loại nặng như Fe, Cu, Zn, Cd, As, Pb chưa rộng nhưng biểu hiện tập
trung và tăng trong nước, trầm tích và cơ thể sinh vật. Ô nhiễm Fe, Zn, Cu rõ ràng ở một số

5


nơi. Ô nhiễm kẽm khá phổ biến ở vùng biển Việt Nam (Ninh và nnk, 2005), hàm lượng 5,30–
53,80 µg/l vào 1996–1998, (Diệu và nnk, 2000). Nước và trầm tích các khu khai mỏ và chế
biến khoáng sản thường ô nhiễm đồng, thuỷ ngân và chất phóng xạ.
Cyanua trong môi trường biển rất nguy hại do có độc tính rất cao, có thể do tách chiết
vàng ở các mỏ sa khoáng và sử dụng gây mê đánh bắt hải sản. Năm 1999, hàm lượng cyanua
(CN-) trung bình ở các trạm quan trắc ven biển miền Bắc vượt quá giới hạn cho phép 1,1 lần,

ở miền Trung 1,4 lần và ở miền Nam 1,5 lần. Hàm lượng cyanua trong nước biển rất cao với
50% số mẫu ở Cồn Cỏ, 100% số mẫu ở Côn Đảo vượt giới hạn cho phép. Đặc biệt ở Bạch
Long Vỹ, 100% số mẫu vượt giới hạn cho phép từ 8 - 22 lần. Những năm gần đây, hàm lượng
Cyanua trong môi trường ven biển giảm hẳn, phần lớn dưới mức độ cho phép.
Nói chung, dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật còn dưới mức cho phép, mặc dù biểu
hiện tích lũy khá phổ biến và đã vượt qúa giới hạn cho phép tại một số điểm, ví dụ ven biển
châu thổ sông Hồng. (Cự, 1998). ở các trạm quan trắc ven biển miền Bắc, dư lượng hoá chất
bảo vệ thực vật năm 1999, tuy chưa quá giới hạn cho phép nhưng tăng 25 lần so với năm
1998.
Ô nhiễm chất hữu cơ cục bộ, nhưng tập trung khá cao ở một số điểm. Chỉ số Coliform
trong nước ven biển thường cao và vượt mức cho phép ở gần các khu đông dân cư, du lịch
như Cửa Lục, Sầm Sơn, Nha Trang và Vũng Tàu. Hàm lượng các chất dinh dưỡng - phôtphát
(PO4-3 ), amonium ( NH4+), nitrit (NO2-), nitrat (NO3-) đã vượt quá giới hạn cho phép từ một
vài đến vài chục phần trăm số trạm quan trắc. Phú dưỡng là một vấn đề môi trường nổi bật ở
phía nam do chất dinh dưỡng và vật chất hữu cơ phát thải từ nguồn sinh hoạt, nông nghiệp và
nuôi trồng thủy sản. Đã xuất hiện các rủi ro nuôi nước lợ ở phía nam liên quan đến phú dưỡng
và thủy triều đỏ. Năm 1996, nghề nuôi tôm nước lợ ở ven biển châu thổ sông Mê Kông thiệt
hại đến hàng nghìn tỉ đồng do dịch bệnh. Hiện tượng “nở hoa” của loài tảo Silic Skeletonema
costatum ở Đồ Sơn vào tháng 8/1999 là dấu hiệu của hiện tượng phú dưỡng - dư thừa dinh
dưỡng trong nước. Gần đây nhất, vào tháng 11 năm 2002, thuỷ triều đỏ đã bùng phát tại
vùng ven biển Nam Trung Bộ (Khánh Hoà, Bình Thuận) trên diện rộng, gây thiệt hại lớn về
kinh tế và môi trường.
3.2. Mất haibitat và suy giảm tài nguyên sinh học
Các hệ sinh thái ven biển bị suy thoái do ngọt hoá, đục, phú dưỡng, nhiễm bẩn, mất
haibitat, làm giảm năng xuất sinh học và đa dạng sinh học. Biến động khí hậu và nhân tác
làm mất haibitat ven biển như các bãi triều, đầm lầy sú vẹt, bãi biển, thảm cỏ biển và rạn san
hô. Rừng ngập mặn bị hủy hoại nặng nề do chiến tranh, khai hoang nông nghiệp, nuôi trồng

6



thủy sản, xây dựng các khu định cư và do cả xói lở bờ biển như ở Đông bắc Bắc Bộ và Đông
nam bán đảo Cà Mâu. Năm 1943, cả nước có khoảng 400 nghìn ha rừng ngập mặn, riêng ở
châu thổ Mê Kông 250 nghìn ha (Hong and San, 1993), năm 2000 chỉ còn khoảng 155 nghìn
ha (P. V. Ninh và nnk, 2005). Diện tích bãi triều giảm mạnh do xói lở và khai thác cát. Các rạn
san hô và thảm cỏ biển bị hủy hoại do bùn đục, ngọt hoá, sóng bão, nhiễm bẩn và các hoạt
động khai thác huỷ diệt như cào xới nền đáy, dùng thuốc nổ, hoá chất khai thác thuỷ sản. Cả
nước hiện có khoảng trên 1000 km2 rạn san hô, tập trung ở ven biển Trung Bộ và vùng biển
Trường Sa, Hoàng Sa. Thời gian qua độ phủ các rạn giảm rất nhanh. Trong El–Nino 1997–
1998, san hô chết trắng đã xuất hiện ở một số nơi, điển hình ở Bạch Long Vỹ. Tại đây, độ
phủ san hô lớn nhất giảm từ 90% xuống 50% trong thời gian 1993-1998. Thảm cỏ biển năm
2003 giảm mất 6774ha (63%) so với 1997. DVB, đặc biệt là các cửa sông, vũng vịnh, đầm
phá có mặt các bãi giống, bãi đẻ duy trì sản lượng nghề cá, nhiễm bẩn và mất haibitat đã làm
giảm tài nguyên sinh học, ảnh hưởng đến cả nghề cá ven biển và ngoài khơi (Bộ thủy sản,
1996).
Tác động của hiện tượng ENSO ở Việt Nam còn ít hiểu biết đối với môi trường biển.
Chẳng hạn, san hô chết trắng hàng loạt ở Bạch Long Vỹ vào năm 1997-1998 do El Nino hay
do ô nhiễm Cyanua? Có thể san hô vùng Cát Bà - Hạ Long chết nhiều vào năm 1998-1999 do
cả đục hoá và ngọt hoá vào thời gian La Nina sau El Nino. Khoảng 14% san hô ở Côn Đảo bị
chết trẵng có thể cũng liên quan đến El Nino năm 1998. Khi có El Nino khô nóng và mưa ít,
dòng nước ngọt từ sông ra giảm hẳn và lượng cá đánh bắt cũng giảm theo. ở biển Đông
Trung Hoa, sau El- Nino 1982-1983, sản lượng cá thương phẩm Navodon sepient giảm trên
60%, tương ứng lượng mưa ven biển giảm 50% (Chen , 2000).
Nguồn lợi nghề cá vùng biển ven biển có xu hướng giảm rõ rệt do khai thác quá mức và
huỷ diệt, mất nơi cư trú, bãi giống, bãi đẻ và ô nhiễm. Năng xuất sản lượng/ cường lực khai
thác (tấn/cv) liên tục giảm từ 0,92tấn/cv vào năm 1990, chỉ còn 0,35tấn/cv vào năm 2003
(Khương & Hồi, 2005). Phát triển mạnh đập chứa trên thượng nguồn cũng là một nguyên
nhân quan trọng giảm nguồn lợi cá biển. Đập Hoà Bình làm mất bãi đẻ và chặn đường di cư
đi đẻ của nhiều loài cá kinh tế trong đó có cá mòi, cá cháy sống ở biển, mỗi năm mất 500
triệu cá bột, giảm 50% trữ lượng tôm, cua cá, nước lợ và biển nông. Sản lượng cá cháy

Maerura reeverssi ở sông Hồng, cửa Ba Lạt, cửa Bạch Đằng trong 1962-1964 là 8-15 nghìn
tấn/ năm, nay không còn khai thác. Cá mòi Clupanodon thrisa, trên sông Hồng trong 19641979 có sản lượng khai thác là 40-356 tấn /năm, nay cũng không còn. Nguồn lợi mỏ tôm Cát
Bà- Ba Lạt giảm 50%. Tính toán cho thấy qua nhiều năm, trữ lượng cá biển ven biển vịnh
Bắc Bộ phần Việt Nam giảm đi 185.500 tấn, bằng khoảng 24,6% tổng trữ lượng cá ban đầu.

7


Tác động của việc xây dựng và điều tiết hồ thuỷ điện Hoà Bình đã góp phần làm giảm trữ
lượng 42.665 tấn (Thạnh và Chiến, 2003). Sau đắp đập cửa Hà trên sông Châu Trúc (Bình
Định) cá chình, cá dày và tôm sú giảm rõ rệt ở khu vực đầm Thị Nại (Bộ Thuỷ Sản, 1996).
Tình trạng tương tự xảy ra ở nhiều khu vực cửa sông ven biển Trung Bộ, nơi phổ biến các đập
trữ cho nước tưới và sinh hoạt, làm giảm nguồn nước ngọt và dinh dưỡng ra biển.
3.3. Gia tăng thiên tai và sự cố môi trường
Hiện tượng dâng cao mực nước biển gây mất đất, tăng cường ngập lụt, gia tăng xói lở
dọc bờ biển và cửa sông, gây mặn hóa và gia tăng xâm nhập mặn và làm đảo lộn cân bằng tự
nhiên, sinh thái ven biển. Mmực nước biển dâng cao 1m, nếu không có ứng xử hữu hiệu nào,
sẽ có khoảng 40,000 km2 đất thấp ven biển Việt Nam sẽ bị ngập lụt hàng năm; hơn 17 triệu
dân, trong đó có triệu 14 triệu ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ chịu cảnh ngập lụt. Lũ lụt sẽ
gây thiệt hại khoảng 17 tỉ USD mỗi năm (Huan, et al. 1996).
Hàng năm, bão gây ra những thiệt hại đáng kể về sinh mạng, tài sản nhân dân ven biển
và để lại nhiều hậu quả nặng nề về vệ sinh và môi trường. Trong lịch sử, đã có những cơn bão
gây hậu quả khủng khiếp. Bão Kate đổ bộ vào Hải Phòng - Quảng Yên Ngày 26/9/1955 gây
sạt lở 158 đoạn đê, hàng nghìn người thiệt mạng, 20 000 ha lúa và 1 000 ha hoa màu bị chết
do nhiễm mặn. Bão Cecil đổ bộ vào Trung Bộ ngày 15 – 16/10/1985 kèm theo nước dâng cao
bất thường làm 910 người chết và mất tích, 47 751 ngôi nhà bị phá hủy, 3300 thuyền đánh cá
bị chìm, 60 000 ha lúa và màu bị ngập úng. Bão Linda vào tháng 11/1997 ở Nam Bộ gây
thiệt hại lớn nhất trong số các cơn bão đổ bộ vào vùng bờ biển Việt Nam với 3 111 người chết
và mất tích, 3 078 tàu thuyền bị chìm, 220 00 ngôi nhà, trường học bị phá hủy và hư hại nặng,
v.v. và tổng giá trị thiệt hại tới 7 180 tỷ đồng. Trong thời gian 1999 - 6/2004, bão làm chết

924 người, 60.640 ngôi nhà bị sập, 1256 tàu thuyền bị chìm, 549215ha đất nông nghiệp bị tổn
hại, thiệt hại ước tính 2000 tỷ đồng.
Ngập lụt ven biển tăng lên cả về cường độ và tần xuất xuất hiện. Đó là hậu quả kết
hợp của quá trình phá rừng đầu nguồn, mưa lớn, mực nước biển dâng cao và lấp kín các cửa
sông, cửa lạch biển do sa bồi. Ngập lụt ven biển đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm khi xuất
hiện mưa lớn trùng nước dâng trong bão và triều cường. Ngập lụt hàng năm ở châu thổ Mê
Kông kéo dài 2-6 tháng, chủ yếu là tháng 8-10, trên diện rộng 1,7 trệu ha và ảnh hưởng trực
tiếp đến 9 triệu dân. Trong khoảng 1926-2000 có 24 trận ngập lụt lớn (Trâm, 2001). Lũ tăng
cả về mức ngập, tốc độ truyền đến sớm hơn và rút chậm hơn. Các trận lũ lớn gần đây xuất
hiện liên tục vào 1991, 1994, 1996 và 2000. Trận lũ năm 2000 khốc liệt nhất trong 70 năm
qua, phủ trên diện tích 34 nghìn km2, trong đó 2/5 diện tích trên lãnh thổ Việt Nam. Lũ tháng

8


11 năm 1999 gây ngập lụt trên diện rộng từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi. ở Thừa Thiên-Huế,
90% diện tích dân cư và đồng bằng ngập sâu 1,5-4m, có 379 người chết, thiệt hại trên 1.700
tỷ đồng, lớn nhất trong vòng gần một thế kỷ qua. Trong thời gian 1999 - 6/2004, lũ lụt làm
2172 người chết, 689.505 ha đất nông nghiệp bị ngập hại, 2.400.242 ngôi nhà bị ngập, thiệt
hại ước tính 12 nghìn tỷ đồng (Ninh và nnk, 2005).
Xói lở bờ biển tăng cả về qui mô và tính chất nguy hiểm. Có đến 397 đoạn bờ đã và
đang bị xói lở với tổng chiều dài 920 km, tốc độ phổ biến 5-10 m/năm, cá biệt 30-50 m/năm,
thậm chí 100-200 m/năm. ở hai châu thổ sông Hồng và Mê Kông nổi tiếng về bồi tụ, xói lở
xuất hiện trên một phần tư chiều dài bờ mỗi châu thổ. ở châu thổ Mê Kông, bờ Bồ Đề dài 36
km bị xói lở 30-50 m/năm trong nhiều năm. ở châu thổ sông Hồng, dải bờ Giao Hải - Văn Lý
dài 30km bị xói lở 10-15 m hơn nửa thế kỷ qua, mặc dù đã có đê kè ngăn chặn (Tiến và nnk,
2002). Việc xây đập Hoà Bình có thể liên quan đến gia tăng xói lở bờ biển Hải Hậu nằm giữa
cửa Ba Lạt và Lạch Giang, dù hơn mười năm qua khu vực này ít bão. So sánh hai giai đoạn
1991-2000 và 1965-1990, trên chiều dài gần 20km tốc độ xói lở tăng từ 8,6m/năm lên
14,5m/năm và diện tích xói sạt tăng từ 17 ha/năm lên 25ha/năm (Thanh et al., 2004). Sự thiếu

hụt bùn cát ra biển do bị lưu giữ lại ở đáy các hồ chứa là một nguyên nhân quan trọng tăng
cường xói lở bờ biển nước ta.
Sa bồi là tai biến phổ biến, có tác động tiêu cực đến cảng bến. Hơn một thế kỷ, Hải
Phòng đã từng là cảng lớn nhất nước, nhưng gần đây luồng cảng bị sa bồi nặng nề. Một trong
những nguyên nhân là việc đắp đập Đình Vũ vào năm 1981 (Thạnh, 1995). ở ven biển miền
Trung, sa bồi làm lấp các cửa sông và đầm phá, làm các vực nước ven biển bị ngọt hoá, ảnh
hưởng đến nuôi thủy sản mặn lợ, mất lối ra biển và tăng cường ngập lụt ven biển. Việc phát
triển các đập nước phục vụ nước tưới và sinh hoạt ở thượng nguồn có thể góp phần tăng
cường bồi lấp cửa sông, cửa đầm phá. Vào năm El Nino, nguồn nước ngọt suy giảm và được
tích vào các đập dẫn đã góp phần bồi cạn cửa sông, đầm phá. Vào năm La Nina có mưa lớn
tiếp theo, cửa bồi cạn hoặc bị đóng kín đã góp phần gây ra ngập lụt ven biển như trường hợp
trận lũ lịch sử ở Trung Bộ vào tháng 11 năm 1999.
Theo áp lực triều, xâm nhập mặn vào sâu 30-40 km trên hệ thống sông Hồng và 60-70
km trên hệ thống sông Mê Kông. Hơn 1,7 triệu ha châu thổ Mê Kông chịu tác động nhiễm
mặn và có thể tăng lên 2,2 triệu ha, nếu không có giải pháp quản lý phù hợp. Độ mặn châu thổ
sông Mê Kông tăng lên vào mùa khô, cực đại khoảng tháng 3- 4 và đường đẳng mặn 4%o
dịch về phía lục địa 20km trong 1978-1998. Quá trình này có quan hệ với các đập chứa thuộc
địa phận Trung Quốc (Nguyen et all, 1999). Sự kết hợp giữa giảm tải lượng nước sông do đắp

9


đập, tưới tiêu và mực biển dâng cao đã dẫn đến xâm nhập mặn tăng lên, gây thiệt hại cho
nông nghiệp và một số lĩnh vực kinh tế khác. Dọc bờ miền Trung, nhiều tỉnh thiếu nước trầm
trọng cho nông nghiệp, sinh hoạt và công nghiệp do xâm nhập mặn ngược sông vào mùa khô.
Một phần biển Việt Nam nhiễm dầu thải từ hoạt động tàu thuyền, khai thác dầu khí
trên thềm lục địa. Tràn dầu là một tai biến gây ô nhiễm đáng kể, được biết có trên 40 vụ tràn
dầu ở vùng nước ven biển và cửa sông Việt Nam. Vụ nghiêm trọng nhất xảy ra vào ngày 3
tháng 10 năm 1994 tại cảng dầu Sài Gòn do tai nạn của tàu Neptune Aries, quốc tịch
Singapore, làm tràn 1865 tấn dầu (Cầu, 1999). Từ năm 1999 đến tháng 6 năm 2004 đã xảy ra

18 vụ tràn dầu, làm tràn ước tính 1300m3 dầu (Ninh và nnk, 2005). Vụ tràn dầu lớn vào cuối
năm 2001 tại vùng biển Vũng Tàu gây nhiều thiệt hại cho môi trường và hoạt động du lịch.
Vụ đắm tàu Mỹ Đình sát Khu dự trữ sinh quyển Quần đảo Cát Bà vào đầu năm 2005 gây ra
nỗi lo lớn ô nhiễm dầu cho khu vực.
4. Quản lý và bảo vệ môi trườngven biển
4.1. Quan điểm vĩ mô
Hiện nay, những vấn đề môi trường tầm vĩ mô liên quan đến sự tồn tại của con người
ở DVB biển thuộc về ba nguồn động lực quan trọng nhất. Thứ nhất là sự gia tăng tần xuất và
cường độ các quá trình nội sinh như động đất, sóng thần và núi lửa có tiềm năng gây tai biến
lớn bất thường. Thứ hai là biến đổi khí hậu và trái đất nóng lên do hoạt động công nghiệp và
phá rừng gây các tác động tiềm ẩn và dài lâu. Thứ ba là những hoạt động nhân tác trên lưu
vực và tại DVB biển gây suy thoái môi trường và các hệ sinh thái ven biển. Nguồn lực thứ
nhất có bản chất hoàn toàn tự nhiên, có tính khu vực, bất khả kháng, chỉ có thể giảm thiểu tác
động bằng cách phòng tránh. Nguồn lực thứ hai phát sinh do cả quá trình tự nhiên, có sự can
thiệp của con người ở quy mô toàn cầu, có thể hạn chế và phòng tránh chủ động. Nguồn lực
thứ ba do nhân tác và con người có thể hạn chế chủ động nhờ các hành vi ứng xử tích cực của
mình. Các nguồn động lực tác động từ các hướng, tương tác với nhau tại DVB.
Hướng từ trên lục địa gây ra các áp lực suy giảm nghiêm trọng và thay đổi phân bố
nguồn vật chất (nước, trầm tích và dinh dưỡng) do sử dụng nước trên lưu vực (đặc biệt là xây
dựng các đập lớn), đồng thời gia tăng tải lượng các chất gây ô nhiễm (75% các chất gây ô
nhiễm ở vùng ven biển có nguồn từ lục địa). Những vấn đề môi trường trọng yếu liên quan là
ô nhiễm, xói lở, sa bồi và xâm nhập mặn. Hướng từ đại dương gây ra các áp lực như mực
biển dâng cao, sóng lớn, bão lốc, nước dâng trong bão và tiềm năng động đất, sóng thần.
Những vấn đề trọng yếu liên quan là xói lở, xâm nhập mặn, ngập lụt, những thiệt hại trực tiếp
về sinh mạng, kinh tế và ô nhiễm đi kèm. Nguồn phát sinh tại DVB biển tạo ra các áp lực phát

10


thải chất ô nhiễm, mất habitat, khai thác quá mức và huỷ hoại tài nguyên, mất cân bằng tự

nhiên và sinh thái. Nguồn tại chỗ tạo ra, tham gia hoặc tăng cường các hậu quả tiêu cực về
môi trường. DVB biển là nơi tương tác giữa các nguồn động lực lục địa và đại dương và các
hậu quả môi trường phụ thuộc vào bản chất và tính ổn định của quá trình tương tác này. Hoạt
động của con người như là một hợp phần của tương tác, có thể giảm thiểu hoặc tác động tiêu
cực đến môi trường DVB biển từ cả ba hướng.
Vùng biển và ven biển Việt Nam giữ vai trò quan trọng về môi trường sinh thái Biển
Đông và khu vực (ADB, 2000), lưu giữ khí nhà kính CO2, vùng chuyển tiếp đặc biệt giữa ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương về mặt địa lý sinh vật và hàng hải. DVB Việt Nam có những
hệ sinh thái đặc thù với các loài đặc hữu và quý hiếm, rất nhạy cảm với các tác động của con
người và biến động bất thường của tự nhiên. Các hệ sinh thái biển nhiệt đới như rạn san hô,
rừng ngập mặn, thảm cỏ biển cũng dễ bị tổn thương (Thanh et al., 2004). Việt Nam là nước
đang phát triển và với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa, nền kinh tế đang tăng trưởng
mạnh trong hơn thập kỷ qua. Đương nhiên, áp lực dân số và kinh tế đến môi trường cũng
tăng theo. Qui mô và số lượng dự án đầu tư trong và ngoài nước tiếp tục tăng vào những năm
tới. Hoạt động kinh tế biển như cảng và hàng hải, khai thác dầu khí, nuôi trồng thủy sản và du
lịch biển sẽ phát triển mạnh. Trên lưu vực, sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp,
các đập chứa cho mục tiêu thủy điện và nước tưới, sử dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ
thực vật trong nông nghiệp sẽ có tác động mạnh hơn đến môi trường ven biển. Mặt khác, tai
biến ven biển có khả năng tăng do biến động về khí hậu và thủy văn và không loại trừ khả
năng xuất hiện động đất, núi lửa và sóng thần. Môi trường ven biển Việt Nam đang và tiếp tục
phải đối mặt với những vấn đề như gia tăng các tai biến tự nhiên và kỹ thuật, mất haibitat, suy
giảm tài nguyên sinh học và nhiễm bẩn. Vì vậy, bảo vệ môi trường (BVMT) ven biển và
biển, bao gồm ngăn ngừa, kiểm soát và giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động nhân
tác, ngăn ngừa, phòng chống thiên tai và các sự cố môi trường là một đòi hỏi cấp thiết. Đó
không chỉ là những hành động và nỗ lực trong phạm vi nội tại của vùng này mà là còn những
nỗ lực ngăn ngừa, giảm thiểu nguồn gây tác động từ lục địa và từ đại dương. BVMT cần
được gắn với phòng chống thiên tai, vì thiên tai không chỉ gây các thảm hoạ trực tiếp mà còn
gây ra các hậu quả môi trường nghiêm trọng đi kèm. Đồng thời, BVMT, đặc biệt là gắn với
bảo vệ các habitat và các hệ sinh thái như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển sẽ góp
phần giảm nhẹ thiên tai ven biển như xói lở, sa bồi, bão lốc, nước dâng, sóng lớn và thậm chí

cả sóng thần.
4.2. Thực trạng quản lý

11


Việt Nam đã có những nỗ lực BVMT DVB thông qua thiết lập cơ cấu tổ chức, cơ sở
luật pháp, phát triển tiềm lực, xây dựng chiến lược và kế hoạch quốc gia, thực thi các các dự
án môi trường ven biển và tăng cường quan hệ quốc tế trong lĩmh vực này (Thao, 2001). Tuy
vậy, những thành tựu đạt được mới chỉ là bước đầu (Thanh et al. 2005).
Việt Nam đã tạo dựng được một hệ thống thể chế nhà nước có tổ chức chặt chẽ, đảm
bảo cho thực thi quản lý và BVMT có hiệu lực (Cục Môi trường, 1995 và 1999). Hệ thống các
cơ quan quản lý môi trường theo chức năng quản lý chuyên trách, đứng đầu là Bộ Tài nguyên
và Môi trường thừa hành các chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi trường; quản lý
theo ngành; quản lý theo lãnh thổ và quản lý kết hợp.
Việt Nam đã có được một hệ thống cơ sở pháp lý làm nền tảng cho quản lý và BVMT,
trong đó có BVMT ven biển (Ban Biên giới chính phủ, 1995). Đó là Hiến pháp năm 1992,
các tuyên bố của chính phủ về chủ quyền biển, các chiến lược và kế hoạch quốc gia BVMT,
Luật BVMT (1993), nhiều bộ luật liên quan có điều khoản BVMT, nhiều văn bản dưới luật
của chính phủ, Bộ KH, CN & MT, các bộ ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành phố. Với
Luật Môi trường 1993 và Nghị định 175/CP của Chính phủ hướng dẫn thực hiện luật BVMT
năm 1994, lần đầu tiên đất nước ta thực thi BVMT bằng pháp luật. Việt Nam đã tích cực
tham gia 20 công ước và văn kiện quốc tế về môi trường và phê chuẩn 5 công ước biển
chuyên ngành khác có liên quan đến môi trường biển.
Hệ thống thể chế - pháp lý hiện có là nền tảng quan trọng để quản lý và bảo vệ môi
trường ven biển một cách thống nhất, toàn diện và chặt chẽ trên cả nước từ trung ương đến
cấp tỉnh thành, ở các bộ ngành và ở một số cơ quan điều phối; đã thể chế hoá hoạt động
BVMT thành một nhiệm vụ chính thức trong hệ thống điều hành và quản lý đất nước với nhận
thức và ý thức trách nhiệm BVMT ven biển được nâng cao rõ rệt. Hệ thống quản lý môi
trường được tăng cường về năng lực. Đã có một hệ thống luật và chính sách khá đầy đủ và

kịp thời, đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Các công ước Quóc tế đã tham gia là cơ sở pháp lý quan
trọng và cần thiết khi giải quyết các vấn đề liên quan với nước ngoài.
Tuy nhiên, để BVMT nói chung, môi trường ven biển nói riêng, hệ thống này còn có
những điểm yếu cơ bản (Sinh, 1998). Trước hết là hạn chế về tiềm thức, còn xem nhẹ và chưa
có một tổ chức chuyên trách BVMT biển và ven biển, chưa có một văn bản pháp lý nào về
vấn đề quản lý nguồn thải lục địa ra biển, chưa có gắn kết và phối hợp giữa các trạm quan
trắc môi trường đất liền và biển ven biển và chính sách đầu tư, chi phí cho BVMT ven biển
còn hạn chế, dàn trải. Tiềm lực BVMT biển hạn chế, đội ngũ cán bộ quản lý còn mỏng, thiếu
chuyên trách, năng lực quản lí và tổ chức còn yếu, hoạt động còn nặng về hình thức, công cụ

12


kinh tế sử dụng còn yếu. Còn hạn chế về trách nhiệm, nhất là quản lý theo ngành và quản lý
phối hợp, phân cấp xây dựng và thực hiện các chính sách chưa rõ. Hệ thống này còn thiếu tính
thực tiễn, chưa cụ thể và còn ít nhiều mang tính hình thức, vì thế hiệu lực chưa cao, sự gắn kết
với các công ước Quốc tế liên quan còn rất kém (Thanh et al. 2005).
Việc BVMT ven biển đã có những cơ hội lớn, đã được thể chế hóa và đã có những kinh
nghiệm bước đầu. Nhận thức BVMT ven biển ngày càng rõ, được thể hiện trong chiến lược
BVMT đến 2010. Có nhiều cơ hội đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí, tăng cường, hoàn thiện cơ
cấu tổ chức; sự tham gia của các hội, của cộng đồng ngày càng tích cực; quá trình toàn cầu
hóa và các công ước quốc tế đã tham gia tạo khả năng hội nhập và tranh thủ sự giúp đỡ Quốc
tế (Các Công ước Quốc tế về BVMT, 1995) .
Tuy nhiên, BVMT ven biển cũng đứng trước những thách thức lớn. Sức ép dân số tăng,
nền tảng kinh tế thấp và chi phí môi trường cao, nguồn gây ô nhiễm chủ yếu là phân tán, khó
quản lý. Còn khó hòa nhập mục tiêu phát triển kinh tế và BVMT ven biển. Nền kinh tế thị
trường và sở hữu tư nhân gây khó khăn cho kế hoạch hóa công tác BVMT. Nhu cầu mưu sinh
và điều kiện dân trí chưa cao, ý thức xã hội BVMT còn thấp và ý thức chấp hành luật môi
trường của một bộ phận lớn cộng đồng còn kém là những khó khăn lớn cho BVMT ven biển.
4.3. Các giải pháp bảo vệ môi trường ven biển

Trước tình hình như vậy, để BVMT ven biển, cần thiết phải thực hiện đồng bộ các giải
pháp như sau:
Về thể chế, cần phân định rõ trách nhiệm quản lý và BVMT biển và ven biển của các cơ
quan chức năng. Thành lập các bộ phận chuyên trách BVMT ven biển ở Bộ Tài nguyên và
Môi trường. Phân cấp quản lý môi trường ven biển từ trung ương, tỉnh thành đến cấp huyện
và xã. Nâng cao vai trò quản lý theo lãnh thổ môi trường ven biển của các địa phương. Xác
định cơ cấu tổ chức theo các vấn đề quản lý môi trường ven biển như: quản lý các nhân tố
gây tác động từ trên lưu vực, xuyên biên giới – lãnh thổ, quản lý chất lượng môi trường, quản
lý và bảo vệ các habitat và các hệ sinh thái, quản lý và bảo vệ đất ngập nước ven biển, phòng
chống thiên tai và ứng cứu các sự cố môi trường.

13


Về chính sách, cần xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh các văn bản pháp quy, có văn bản
về quản lý môi trường ven biển gắn với quản lý các nguồn gây tác động trên lưu vực. Xây
dựng chiến lược và các chương trình ưu tiên liên quan để kiểm soát tình trạng ô nhiễm, suy
thoái các hệ sinh thái và mất habitat, thiên tai và sự cố môi trường v.v. Xây dựng các kế hoạch
hành động và các chiến lược BVMT ven biển, tạo lập các điều khoản quan trọng và đặc thù
của môi trường biển trong luật môi trường sửa đổi. Điều chỉnh, bổ sung tiêu chuẩn môi trường
phù hợp và xây dựng quy chế kiểm toán và đánh giá nguồn thải gây ô nhiễm. Phát huy mặt
mạnh của nền kinh tế thị trường đối với BVMT biển, coi chi phí BVMT thành một hạng mục
quan trọng trong các dự án đầu tư và phát triển.
Tăng cường nâng cao năng lực quản lý cho các cơ quan nghiên cứu, quản lý môi
trường biển. Từng bước khắc phục tình trạng lạc hậu, thiếu đồng bộ về phương pháp, thiết bị
quan trắc, phân tích, quy chuẩn về trình độ, nội dung và chương trình đào tạo cán bộ.
Kiểm tra và bảo vệ anh ninh môi trường, tăng cường thanh tra, giám sát và xử phạt
hành chính vi phạm BVMT biển. Phát hiện và kịp thời xử lý các vụ vi phạm môi trường như
vận chuyển và đổ thải trái phép các chất gây ô nhiễm, sử dụng các hình thức khai thác huỷ
hoại tài nguyên (dùng mìn, điện, hoá chất độc hại v.v), hành hải hoặc neo đậu trong các vùng

bảo vệ nghiêm ngặt v.v. Phối hợp tốt công tác quản lý và BVMT ven biển giữa cơ quan
chuyên trách với các lực lượng phòng tránh thiên tai và cứu hộ cứu nạn trên biển, cảnh sát
biển, hải quân và bộ đội biên phòng.
Quan trắc, giám sát và cảnh báo thiên tai, sự cố môi trường. Củng cố và hoàn thiện hệ
thống trạm quan trắc và giám sát môi trường ven biển, bao gồm cả các trạm cố định và di
động. Đảm bảo đủ các yếu tố và tần xuất quan trắc. Phân tích và đánh giá tốt các dữ liệu quan
trắc nhằm đánh giá đúng khách quan hiện trạng và xu thế biến động môi trường. Xây dựng
các trạm quan trắc cảnh báo thiên tai (động đất, sóng thần, núi lửa, nước dâng, ngập lụt, sa
bồi, xói lở, xâm nhập mặn) và sự cố môi trường (tràn dầu, hoá chất, thuỷ triều đỏ v.v.), bao
gồm các trạm thường xuyên và các trạm theo thời khoảng hoặc sự vụ. Quan trắc và đánh giá
mức độ suy thoái và tổn thương các hệ sinh thái, mất habitat.
Thực hiện đánh giá tác động môi trường và các dự án quản lý, BVMT. Thực hiện
nghiêm túc đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường cho các quy
hoạch, dự án phát triển. Thực hiện kiểm tra và giám sát nghiêm luật các yêu cầu đặt ra trong
báo cáo đánh giá tác động môi trường ven biển khi triển khai dự án. Đầu tư thích đáng cho
các dự án quản lý và BVMT như xử lý các chất thải, phục hồi habitat và các hệ sinh thái, xây
dựng các khu bảo tồn thiên nhiên biển, hỗ trợ cộng đồng trong BVMT ven biển v.v .

14


Nâng cao trách nhiệm các cấp quản lý và ý thức cộng đồng . Phát triển bền vững DVB
gần đây được quan tâm và được đề cập đến nhiều trong các văn bản nghị quyết và chỉ thị.
Nhưng trên thực tế, BVMT ven biển chưa biến thành nhận thức và hành động của các cấp
quản lý cơ sở. Nhiều dự án đầu tư và phát triển ven biển chưa quan tâm đúng mức tới quản lý
và BVMT. Cần tăng cường thông tin tuyên truyền, giáo dục ý thức trách nhiệm BVMT ven
biển không chỉ cho các cộng đồng ven biển, mà cả trên lưu vực. Xây dựng một ý thức mới
“BVMT là trách nhiệm của cả nước, là hành động yêu nước”.
Tăng cường hợp tác quốc tế để hội nhập và thực thi các công ước Việt Nam đã ký liên
quan đến môi trường ven biển, giám sát nguồn thải xuyên biên giới, tham khảo kinh nghiệm,

tranh thủ sự hỗ trợ, khuyến khích hòa nhập các chương trình quốc tế về môi trường ven biển.
Kết luận
DVB Việt Nam là nơi phát triển kinh tế sôi động và có mật độ dân số cao. Trong mối
quan hệ tương tác lục địa và đại dương, các hoạt động nhân sinh trên cả lưu vực và tại chỗ
như phá hủy rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn, xây đê, đập, đào kênh, các hoạt động nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp và sinh hoạt đã gây ra ảnh hưởng lớn đến môi
trường bờ. Ngoài ra, biến động khí hậu cũng gây ra tác động quan trọng đến chất lượng và
động thái môi trường. Những tác động này đã dẫn đến một số vấn đề nổi bật về môi trường
ven biển như gia tăng các tai biến như ngập lụt, xói lở, sa bồi, xâm nhập mặn, tràn dầu; nhiễm
bẩn môi trường do dầu, vật chất hữu cơ, dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật, kim loại nặng ở
mức độ khác nhau; mất habitat và suy giảm tài nguyên sinh vật. Chắc chắn, những tác động
này còn tăng lên dưới áp lực phát triển kinh tế, dân số và nguy cơ xuất hiện thiên tai nguồn
gốc từ đại dương. BVMT ven biển Việt Nam bao gồm cả ngăn ngừa, kiểm soát, giảm thiểu,
các tác động tiêu cực từ các yếu tố nhân tác tham gia vào quá trình tương tác lực địa - đại
dương ở DVB và chiến lược ứng xử thích hợp với biến động khí hậu là một yêu cầu cấp bách
và chỉ có thể thành công nhờ phối hợp toàn diện với quản lý lưu vực thượng nguồn.

Tài liệu tham khảo
1. ADB (Ngân hàng Phát triển Châu Á), 1993. Vietnam environment sector study. Technical report.
pp. 1-116.
2. ADB (Ngân hàng Phát triển Châu Á), 2000. Quản lý môi trường Biển và ven Biển Đông. ADB
5712 - REG. Văn bản Chiến lược Quốc gia của Việt Nam. Tr. 1 - 161.
3. Ban biên giới chính phủ, 1995. Các văn bản pháp quy về biển và quản lý biển của Việt Nam. Nxb.
Chính trị Quốc gia. Hà Nội , 1995. Tr. 1-399.

15


4. Bộ Thủy Sản, 1996. Nguồn lợi thủy sản Việt Nam. NXb. Nông Nghiệp, Hà Nội. Tr 1-616.
5. Bùi Huê Cầu, 1999. Quản lý sự cố tràn dầu. Tạp chí dầu khí. Số 6. Hà Nội. Tr.42-45.

6. Các công ước Quốc tế về BVMT. Nxb, Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 1995. Tr. 1 - 816.
7. Chen T.A.C., 2000. TheThree Gorges Dam: Reducing the Upwelling and thus Productivity in the
East China Sea. Geophysical Research Letter, Vol.27, No.3, p. 381-383.
8. Cục Môi Trường (Bộ KHCN & MT), 1995. Các qui định pháp luật về môi trường. Tập I. Nxb.
Chính trị Quốc gia. Hà Nội. Tr.1 - 292.
9. Cục Môi Trường (Bộ KHCN & MT), 1999. Các qui định pháp luật về môi trường. Tập III Nxb.
Thế Giới. Hà Nội. Tr.1 - 876.
10. Cuong, N.M.1997. Forest mapping in Vietnam. In: Remote sensing for tropical ecosystem
management. New York. United Nations published. p. 47-59.
11. Nguyễn Đức Cự, 1998. Điều tra khảo sát chất lượng Môi trường và động thái dinh dưỡng vùng
cửa sông châu thổ sông Hồng. Báo cáo tổng kết đề án điều tra cơ bản nhà nước trong hai năm
1997 - 1998. Lưu trữ tại Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng.
12. Lưu Văn Diệu, Vũ Thị Lựu và Cao Thu Trang, 2000. Một số nhận xét về xu thế biến động môi
trường vùng biển Việt Nam. Tài nguyên và Môi trường biển. T.VII. Nxb KH & KT. Hà Nội. Tr.
125-135.
13. Lưu Văn Diệu, Nguyễn Thị Phương Hoa và nnk, 2001. Đánh giá mức độ ô nhiễm do nguồn thải
từ lục địa, đề xuất giải pháp kiểm soát, quản lý ô nhiễm vùng biển ven biển phía bắc (từ Quảng
Ninh đến Thanh Hoá). Lưu trữ tại Phân Viện Hải Dương học tại Hải Phòng.
14. Nguyễn Kiên Dũng, 1999. Bồi lắng bùn cát hồ Hoà Bình tronh giai đoạn đầu tích mước. Khí
tượng Thuỷ văn. No.6 (462). Hà nội. Tr.10-15.
15. Hoàng Minh Hiền, 2001. Nhiễu loạn La Nina. Khí tượng Thủy văn. No.6. Tr. 42-44.
16. Nguyễn Chu Hồi và nnk, 2001. Hiện trạng môi trường biển và vùng ven biển Việt Nam năm 2001.
Báo cáo lưu trữ tại Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng.
17. Hong, P.N. and San, H.T. 1993. Mangrove of Vietnam. Published by IUNC. 173pp.
41. Nguyen Ngoc Huan, G. Tom, Frederic Harris, F.J.M Hoozemans, R.B Zeidler, 1996: Vietnam
Coastal Zone Vulnerability Assessment. Technical report reserved at Center for Consultancy and
Technical Support of Meteorology, Hydrology and Environment. Project “Vietnam Coastal Zone
Vulnerability Assessment and First towards Integrated Coastal Zone Management (Vietnam VA
Project)”.
18. Hoa Mạnh Hùng, 2001. Động lực hình thái cửa sông ven biển đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam phục

vụ khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường cửa sông ven biển. Tóm tắt luận án tiến sỹ
Địa lý. Hà Nội. Tr. 1-21.
19. Nguyễn Thượng Hùng và nnk, 1995. Nghiên cứu và dự báo biến động của môi trường và đề xuất
các định hướng phát triển kinh tế -xã hội tại vùng thượng và hạ du công trình thuỷ điện Hoà Bình.
Báo cáo khoa học đề tài nhà nước KT-02-14.

16


20. Phạm ngọc Hưng, 2001. Hiện trạng khô hạn và những giải pháp phòng chữa cháy rừng ở Việt
nam. KTTV, No. 5. Tr. 33-36.
21. Đỗ Văn Khương, Nguyễn Chu Hồi, 2005. BVMT và nguồn lợi thuỷ sản: Những thành tựu, thách
thức, định hướng và các giải pháp. Kỷ yếu Hội thảo toàn quốc BVMT và Nguồn lợi thuỷ sản. Hải
Phòng. 1/ 2005.
22. Nguyễn Xuân Lý, Nguyễn Chu Hồi và nnk, 2005. Tổng quan chiến lược BVMT trong ngành thuỷ
sản đến năm 2020. Kỷ yếu Hội thảo toàn quốc BVMT và Nguồn lợi thuỷ sản. Hải Phòng. 1/ 2005.
23. Kumma M., Sarkkula J., Varis O., 2004. Sedimentation and Mekong upstream development:
impact on the lower Mekong basin. Report presented at IAG Yangtze Conference. Shanghai,
China June 24 -27, 2004.
24. Tạ Đăng Minh, 1996. Nguồn nhiễm bẩn và tiềm năng nhiễm bẩn dầu ở vùng biển Việt Nam. Khí
tượng và Thuỷ văn. Số 432. Hà Nội. Tr.8-14.
25. Nguyen, V.L., Ta, T.K.O., Tateishi. M. and Kobayashi, I. 1999. Coastal variation and saltwater
intrusion on the coastal lowlands of the Mekong River Delta, southern Vietnam. In: Saito, Y.,
Ikehara, K. and Katayama, H., eds. Land-Sea Link in Asia, STA(JISTEC) and Geological Survey
of Japan, pp. 212-217.
26. Hoàng Niêm và nnk. 1995. Đánh giá hiện trạng sử dụng tài nguyên nước trên quan điểm sinh thái
và phát triển lâu bền. Báo cáo đề tài KT-01-10.
27. Phạm Văn Ninh, Trương Mạnh Tiến và Nguyễn Thị Việt Liên, 2005. Tình trạng môi trường biển
Việt Nam 2004. Kỷ yếu Hội nghị môi trường toàn quốc. Hà nội, 21 tháng 1 năm 2005.
28. Permetta J.C.,


Milliman J.D. (Editors), 1995. Land-Ocean interactions in the coastal zone.

Implemetation plan. IGBP Global change. Report No.33. Stockholm. pp.1-215.
29. Sandoz, M. 1996. Agriculture water use in Vietnam. In: Vietnam water resources sector review.
Selected working papers of World Bank, ADB, FAO/UNDP and NGO Water Resources Sectoral
Group. World Bank Press.1.1-3.13.
30. Nguyễn Ngọc Sinh và nnk, 1998. Nhận dạng những thách thức đối với công tác BVMT trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta. Tuyển tập các báo cáo khoa học tại hội nghị môi trường toàn quốc
năm 1998. Nxb. KH & KT. Hà Nội. Tr. 910 - 919.
31. Thanh, T.D. 1995. Coastal morphological changes concerning the management of coastal zone in
Vietnam. Workshop Report No. 105 Supplement. IOC/UNESCO Published. 1995, pp. 451-462.
32. Trần Đức Thạnh, Trần Đình Lân, Phạm Văn Lượng và Đinh Văn Huy, 2001. ảnh hưởng của hoạt
động nhân tác đối với môi trường ven biển trong mối quan hệ tương tác lục địa- biển. Tài nguyên
và Môi trường biển. T.VIII. Nxb KH&KT. Hà Nội.
33. Trần Đức Thạnh và Đỗ Đình Chiến, 2002. ảnh hưởng của các đập chứa trên lưu vực đến môi
trường sinh thái ven biển. Tài nguyên và Môi trường biển. T.IX. Nxb KH&KT. Hà Nội. Tr. 121136.

17


34. Trần Đức Thạnh và Đỗ Đình Chiến, 2003. Bước đầu đánh giá tác động của Hồ Hoà Bình đối với
nguồn lợi cá biển ven biển. Tài nguyên và Môi trường biển. T.X. Nxb KH&KT. Hà Nội. Tr. 139160.
35. Tran Duc Thanh, S. Saito, D V Huy, N V Lap, T T K Oanh, Tatteishi M., 2004. Regimes of
human and climate impacts on coastal changes in Vietnam. Reg Environ Change. No.4. SpringerVerlag. pp. 49-62.
36. Tran Duc Thanh, Tran Dinh Lan and Pham Van Luong, 2005. Chapter 12: Protecting the marine
environment: International Assistant and the Vietnam Sea. In Harris P.G. (Ed.): “Confronting
environmental change in East & Southeast Asia: Eco-politics, foreign policy, and sustainable
development. United Nation Press and Earthscan Publications Ltd. P.183 – 200.
37. Nguyễn Hồng Thao, 2001. BVMT biển ở Việt Nam. Tổng luận khoa học công nghệ kinh tế. Số 6.

Bộ KHCN 7 MT. Tr. 1- 48.
38. Nguyễn Ngọc Thuỵ và Bùi Đình Khước, 1994. Hiện tượng El-Nino, sự ấm lên của khí hậu toàn
cầu và mực nước biển Việt Nam và Biển Đông. Khí tượng và Thuỷ văn. Số 5. Tr. 16-23.
39. Phạm Huy Tiến , Trần Đức Thạnh, Bùi Hồng Long, Nguyễn Văn Cư, 2002. Các kết quả chính
nghiên cứu xói lở, bồi tụ vùng cửa sông ven biển Việt Nam. Khoa học và Công nghệ biển. No. 4.
Hà Nội.
40. Bùi Đạt Trâm, 2001. Vấn đề phòng chống lũ sông Cửu Long. KTTV, No.1 tr. 1-15.
41. Nguyễn Việt, Phan Thanh Hùng, 2001. ảnh hưởng của thiên tai ở Thừa Thiên- Huế và biện pháp
ứng phó. KTTV, No. 1, tr.45-52.
42. Ngô Doãn Vịnh và Trương Văn Tuyên (chủ biên), 2004. Cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh
tế – xã hội dải ven biển Việt Nam, đề xuất các mô hình phát triển cho một só khu vực trọng điểm.
Báo cáo đề tài cấp nhà nước KC.09.11. Lưu trữ tại Viện Chiến lược Phát triển. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư.
43. WCD (The World Commission on Dams), 2000. Dams and Development. A new framework for
Decision-Making. The report of from: />44. WB, ADB, FAO, UNDP, NGO

Water Resources Group and Institute of Water Resources

Planning, 1996 “ Vietnam. Water Resources Sector Review”. Intergrated Report.
45. Yang, Z., Saito, Y., Liu, B., Zhang, J., and Wang, H., 2001. Decadal and millennial scale change of
water and sediment dircharge of the Huanghe (Yellow River) caused by human activities. Proc.
LOICZ East Asia basins Workshop on East Asian river catchment/ coastal zone interaction and
humand dimention. Hong Kong Baptist Univeresity. 26-28 Feb.

18


Abstract

Emerged problems on coastal environment in Vietnam and orientation for

protection
Tran Duc Thanh
Institute of Marine Environment and Resources

By rich natural resources and other favorable natural conditions, the Vietnam coastal
zone has became an area of active economic development and high population density. The
most important economic sectors such as water way and ports, agriculture, fishery, industry,
mining, and tourism are concentrated in this zone. The coastal environment is very sensitive
to the human activities in both coastal zone and watershed through the role of streams, and
unusual climate change. The coastal ecosystems, especially coral reefs, mangroves and
seagrass beds are also easier to be vulnerable under these impacts. Recently, coastal
environment and ecosystems in Vietnam have been changed obviously due to combination of
climate change and human activities. The climate change has been recognized as sea level
rise as a consequence of global warming, typhoon turbulence and ENSO phenomenom that
has made the increase of coastal disasters. The human activities in the basin such as
destroying upstream deforestation and mangroves, building sea and river dikes, constructing
big dams, dredging channels, agriculture, aquaculture, overcatching, industry and domestics,
have changed discharges of water, sediments, nutrients and wastes into coastal zone, and so,
have degraded marine and coastal environment.
These impacts have led to the emerged consequences such as increasing coastal
disasters (floods, erosion, sedimentation, salt intrusion and oil spills), pollution at various
levels (oil, organic matters, pesticide and heavy metals) and damage of habitats and decrease
of living resources. It’s sure that these impacts will increase under the pressure of population
and economical development in the future. The Vietnam coastal environment protection
including prevention, control and mitigation of the negative impact become an urgent
demand, and it is only implemented successfully by comprehensive combination between
coastal management, watershed management and prevention of natural hazards from oceanbased. The strategy and the plan on protection of coastal environment in Vietnam need to be
based on the macroscopic view including land - ocean interaction in coastal zone.
Vietnam has made strong effort to protect coastal environment by establishing
framework of organizations and legal base, developing capacity, building national strategies


19


and plans, implementing coastal environmental projects, and strengthening international
cooperation. However, the obtained achievements in this field have been limited. For this
reason, it is necessary to implement synchronous solutions for the protection of coastal
environment. In institution, the responsibility of coastal and sea management and protection
of functional organizations need to be delimited clearly; In regulation, the legal documents
need to be supplemented, corrected and built up newly; Improving coastal manage mental
capacity continuously; Strengthening inspection and control of environmental security;
Strengthening environment observation and monitoring, and warning natural disasters and
environment risks. Implementing strictly environmental impact assessment and developing
actively the projects of environmental management and protection; Enhancing responsibility
of management organizations; improving awareness of community; and strengthening
international cooperation

Tóm tắt: Những vấn đề môi trường ven biển nổi bật ở Việt Nam và định hướng
bảo vệ
Trần Đức Thạnh
Viện Tài nguyên và Môi trường Biển
DVB Việt Nam, nhờ tài nguyên thiên nhiên phong phú và điều kiện tự nhiên thuận lợi,
đã trở thành vùng phát triển kinh tế năng động và có mật độ, tốc độ phát triển dân số cao. Môi
trường ven biển rất nhạy cảm với cả hoạt động nhân tác tại chỗ và trên lưu vực thông qua vai
trò trung gian của dòng chảy sông và những biến động bất thường về khí hậu. Các hệ sinh thái
ven biển như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, v.v. rất dễ bị tổn thương. Gần đây,
những biến đổi về môi trường sinh thái ven biển Việt Nam là rất rõ ràng, do cả biến động khí
hậu và hoạt động nhân sinh. Những biến động khí hậu có qui mô toàn cầu, như sự dâng cao
nước biển do trái đất ấm lên, nhiễu động về bão và hiện tượng ENSO làm tăng các tai biến
môi trường ven biển. Hoạt động nhân sinh trên lưu vực như phá hủy rừng đầu nguồn, đắp đê,

đặc biệt là xây đập chứa lớn, đào kênh, các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt
đã làm thay đổi nguồn cung cấp nước, trầm tích, dinh dưỡng và các vật chất khác ra biển, thay
đổi chất lượng môi trường biển và DVB do khả năng nhận và tích luỹ chất gây ô nhiễm và do
mất các habitat
Những tác động này đã dẫn đến một số vấn đề nổi bật về môi trường biển và ven biển
như gia tăng các tai biến như ngập lụt, xói lở, sa bồi, xâm nhập mặn, tràn dầu; nhiễm bẩn môi

20


trường do dầu, vật chất hữu cơ, dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật, kim loại nặng ở mức độ
khác nhau; mất habitat và suy giảm tài nguyên sinh vật. Chắc chắn, những tác động này còn
tăng lên dưới áp lực kết hợp của phát triển kinh tế, dân số và những biến động lớn về khí hậu.
BVMT biển Việt Nam còn bao gồm cả ngăn ngừa, kiểm soát, giảm thiểu các tác động tiêu cực
là một yêu cầu cấp bách và chỉ có thể thành công nhờ phối hợp toàn diện quản lý DVB với
quản lý lưu vực và phòng chống thiên tai từ biển. Vì vậy, chiến lược và kế hoạch bảo vệ môi
trường biển Việt Nam cần phải được nhìn nhận từ những mối quan hệ vĩ mô, đặc biệt quan
tâm đến vai trò tương tác lục địa- đại dương ở DVB.
Việt Nam đã có những nỗ lực bảo vệ môi trường thông qua thiết lập cơ cấu tổ chức,
cơ sở luật pháp, phát triển tiềm lực, xây dựng chiến lược và kế hoạch quốc gia, thực thi các
các dự án môi trường ven biển và tăng cường quan hệ quốc tế trong lĩmh vực này. Tuy vậy,
những thành tựu đạt được mới chỉ là bước đầu. Trước tình hình như vậy, để bảo vệ dải ven
biển, cần thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp. Về thể chế, cần phân định rõ trách nhiệm
quản lý và BVMT biển và ven biển của các cơ quan chức năng; Về chính sách, cần xây
dựng, bổ sung và hoàn chỉnh các văn bản pháp quy; Tiếp tục nâng cao năng lực quản lý; Tăng
cường kiểm tra và bảo vệ anh ninh môi trường; Tăng cường quan trắc, giám sát và cảnh báo
thiên tai, sự cố môi trường; Thực hiện đánh giá tác động môi trường và triển khai tích cực các
dự án quản lý, BVMT; Nâng cao trách nhiệm các cấp quản lý, ý thức cộng đồng và tăng
cường Hợp tác quốc tế.


21



×