Tải bản đầy đủ (.docx) (184 trang)

Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.39 KB, 184 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ TUYẾT NHUNG

VAI TRÒ CỦA KHOA HOC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THỊ TUYẾT NHUNG

VAI TRÒ CỦA KHOA HOC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC & DVLS
Mã số
: 9229002


LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS Vũ Văn Viên
PGS.TS Đoàn Thế Hùng

HÀ NỘI - 2019


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

CNTN

Công nghệ thông tin

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNC

Công nghệ kết nối internet


CAD

Công nghệ kết nối với máy tính

KH&CN

Khoa học và công nghệ

LLSX

Lực lượng sản xuất

ODA

Viện trợ phát triển chính thức

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

WHO

Tổ chức y tế thế giới


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.................7
1.1. Những công trình bàn về thực trạng và vấn đề đặt ra trong quá trình phát huy

vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay ...................7
1.2. Những công trình bàn về thực trạng và vấn đề đặt ra trong quá trình phát huy
vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay .................19
1.3. Những công trình bàn về các giải pháp phát huy vai trò của KH&CN đối với sự
phát triển của LLSX ở Việt Nam trong thời gian tới............................................................. 30
1.4. Những vấn đề đặt ra luận án sẽ tiếp tục giải quyết....................................................... 36
Chương 2: VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT-MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.......38
2.1. Khoa học và công nghệ.....................................................................................38
2.2. Lực lượng sản xuất...........................................................................................48
2.3. Vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX.......................................63
Chương 3: VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA............................................... .87
3.1. Khái quát quá trình nhận thức và hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm phát huy
vai trò của KH&CN đối với sự phát triển LLSX ở Việt Nam từ năm 1986.............87
3.2. Thực trạng vai trò trò của KH&CN đối với sự phát LLSX ở Việt Nam..............95
3.3. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát huy vai
trò của KH&CN đối với sự phát triển LLSX ở Việt Nam................................................ 109
3.4. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát huy vai trò của KH&CN đối với sự
phát triển LLSX ở Việt Nam hiện nay..................................................................................... 120
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI............................................132
4.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong công tác
phát triển, ứng dụng KH&CN vào sản xuất...........................................................132


4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao trong giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ tư..................140
4.3. Quan tâm đến đào tạo nghề, nhằm nâng cao năng lực thực hành cho người lao

động,trong quá trình ứng dụng các thành tựu KH&CN vào phát triển lực lượng sản
xuất hiện nay...................................................................................................................................... 148
4.4.Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tham gia quá trình toàn cầu hóa nhằm thu
hút, chuyển giao KH&CN hiện đại, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển..........152
KẾT LUẬN..........................................................................................................162
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ.................................................................. 165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................166


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khoa học và công nghệ (KH&CN) có vai trò quyết định đối với phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, là phương tiện, mục tiêu và động lực
thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất (LLSX). KH&CN hiện đại làm cho
nǎng suất lao động nâng cao, cơ cấu kinh tế chuyển biến mạnh mẽ, và thay
đổi sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Trong những năm gần đây KH&CN phát triển như vũ bão, đặc biệt sự ra
đời cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với tốc độ rất nhanh, quy mô rất
lớn, tạo ra những thay đổi sâu rộng trong mọi lĩnh vực từ nền sản xuất xã hội
đến cơ cấu lao động và thị trường lao động. Đây là cuộc cách mạng mà máy
móc sẽ thay thế vai trò, vị trí người lao động ở nhiều khâu trong quá trình sản
xuất. Việc ứng dụng những thành tựu KH&CN làm cho trình độ của LLSX
ngày càng cao; người lao động trình độ cao sẽ dần thay thế người lao động
trình độ giản đơn; tư liệu sản xuất hiện đại, thông minh sẽ thay thế cho các tư
liệu sản xuất truyền thống. KH&CN có vai trò đi trước, mở đường, tạo động
lực mạnh mẽ cho sự phát triển của tất cả các yếu tố cấu thành LLSX.
Cuộc cách mạng KH&CN hiện nay - cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
là biểu hiện mới về trình độ của LLSX; mặt khác, với tư cách là cuộc cách

mạng về công nghiệp, cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của LLSX, thúc đẩy LLSX tiến đến những trình độ mới,
ngày càng cao hơn. Nếu quốc gia nào bỏ lỡ, không tận dụng được những thời
cơ do cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại thì sẽ khó có điều kiện phát
triển. Bên cạnh đó, cần phải thấy những vấn đề mà cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đang đặt ra là: lao động thủ công sẽ bị thay thế bởi máy móc và trí
tuệ nhân tạo, hàng loạt người lao động bị thất nghiệp vì mất việc làm, lao
động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh của các nước châu Á trong đó có
Việt Nam,...


2

Từ yêu cầu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại, cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi Việt Nam phải biết vận dụng những thành tựu
KH&CN vào phát triển LLSX, phải tạo ra phương thức phát triển từ những
yếu tố không có trần giới hạn như khoa học, công nghệ, kỹ thuật và nguồn
nhân lực chất lượng cao để phát triển nhanh và bền vững. Đây là vấn đề mà
toàn Đảng, toàn dân cần nhận thức sâu sắc, hành động quyết liệt, quyết tâm
nắm bắt thời cơ, xem đây là nhiệm vụ then chốt hàng đầu của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam một
lần nữa khẳng định vai trò then chốt của KH&CN trong sự nghiệp phát triển
đất nước: “Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ làm cho khoa học, công
nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại” [49].
Mặc dù, Đảng và Nhà nước rất quan tâm, nhưng KH&CN Việt Nam vẫn
phát triển chậm, còn nhiều hạn chế, chưa trở thành động lực phát kinh tế - xã
hội mạnh mẽ, chưa phát huy tốt vai trò của mình trong quá trình phát triển
LLSX và cũng chưa tương xứng với vai trò “là quốc sách hàng đầu”. Đặc biệt

người lao động - yếu tố đóng vai trò quyết định trong LLSX ở Việt Nam chưa
đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Biểu hiện ở chất
lượng lao động chưa cao, người lao động đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp;
thiếu các chuyên gia và nhà quản lý giỏi, thiếu đội ngũ công nhân có tay nghề
cao, cơ cấu lao động còn bất hợp lý,... Trong khi đó tư liệu sản xuất Việt Nam
lạc hậu, hàm lượng khoa học chưa cao, việc khai thác và sử dụng còn bất hợp
lý. Sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất nhiều điểm chưa phù
hợp. Những hạn chế trong việc phát huy vai trò của KH&CN đối với phát
triển LLSX khiến cho trình độ của LLSX ở Việt Nam chậm cải thiện, năng
suất lao động ở Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.


3

Như vậy, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, KH&CN
có vai trò to lớn đối với sự phát triển của LLSX; việc phát huy vai trò của
KH&CN đối với sự phát triển của LLSX ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề
cấp bách cần giải quyết. Xuất phát từ tình hình đó, chúng tôi quyết định lựa
chọn vấn đề “Vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò
của KH&CN đối với sự phát triển LLSX ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó
đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của KH&CN đối với sự phát
triển LLSX ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã đề ra, luận án tập trung thực hiện những nhiệm
vụ sau:
Hệ thống hoá, làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò của KH&CN với sự


-

phát triển của LLSX.
Phân tích thực trạng vai trò của KH&CN đối với sự phát triển LLSX ở Việt

-

Nam hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của KH&CN với phát triển

-

LLSX ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu vai trò của KH&CN đối với
phát triển của LLSX.

3.2. Phạm vi nghiên cứu


Về nội dung: Nghiên cứu vai trò của KH&CN đối với phát triển LLSX

Việt Nam hiện nay.


4

-


Về không gian: Nghiên cứu, vận dụng những quan điểm của Đảng về phát
huy vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX trên lãnh thổ Việt
Nam hiện nay.

-

Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát vai trò của KH&CN đối
với phát triển LLSX ở Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2018.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ trương, đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về KH&CN, về LLSX, vai trò của KH&CN
đối với sự phát triển của LLSX và những vấn đề có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu, đề tài luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp
cụ thể sau:
Phương pháp nghiên cứu phân tích và tổng hợp: được sử dụng để thu
thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài
nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu của Đảng, Nhà nước ở Trung ương
và các địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, thống kê của
chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX.
Phương pháp hệ thống: KHCN và LLSX là tập hợp các yếu tố, giữa
chúng có sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và với môi trường bên ngoài,
tạo nên tính chỉnh thể của hệ thống, đó là những thuộc tính tổng hợp, đặc
trưng cho hệ thống, là phương thức tồn tại của hệ thống.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: trên cơ sở nghiên cứu các công trình
khoa học trong và ngoài nước liên quan đến vai trò của KH&CN đối với sự
phát triển của LLSX; đề tài luận giải, phân tích, làm rõ những nội dung mà
các công trình khoa học trong, ngoài nước đã đề cập. Từ đó, rút ra những vấn



5

đề mới mà đề tài phải nghiên cứu, tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện hệ
thống lý luận về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX ở Việt
Nam hiện nay.
Phương pháp thống kê: đề tài tập trung thu thập, phân tích, tổng hợp,
thống kê các tài liệu, số liệu trong báo cáo tổng kết về vai trò của KH&CN
đối với sự phát triển của LLSX. Sử dụng phương pháp thống kê để so sánh,
đối chiếu các số liệu đã thu thập được từ các phương pháp nhằm đảm bảo kết
quả nghiên cứu của đề tài luận án được chính xác, có độ tin cậy cao.
Phương pháp chuyên gia: quá trình nghiên cứu, đề tài xin ý kiến tham
gia đóng góp của các nhà khoa học cùng chuyên ngành; trao đổi trực tiếp với
cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên trách ở trung ương và địa phương nhằm thu
thập thêm tư liệu về lĩnh vực nghiên cứu của Luận án.
5. Đóng góp của đề tài
Luận án đã xây dựng được quan niệm và nội dung về vai trò của KH&CN đối

-

với sự phát triển của LLSX.
Luận án đã làm rõ được những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn

-

chế về vai trò của KH&CN đối với phát triển LLSX ở Việt Nam.
-

Luận giải và đề xuất được một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của

KH&CN đối với phát triển của LLSX ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, kết quả của Luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý
luận về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX.
Về mặt thực tiễn, đề tài góp phần làm rõ vai trò của KH&CN đối với
phát triển LLSX ở Việt Nam hiện nay; cung cấp luận cứ khoa học nhằm phát
huy vai trò của KH&CN đối với phát triển của LLSX ở Việt Nam trong thời
gian tới.


6

Kết quả nghiên cứu đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương 13 tiết.


7

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Vai trò của KH&CN đối với sự phát triển LLSX ở Việt Nam là một vấn
đề lớn và có tính cấp thiết, vì vậy đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu vấn
đề này với quy mô, phạm vi và mức độ khác nhau, tiêu biểu là các tác giả với
những công trình dưới đây.
1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về KH&CN, LLSX và vai
trò của KH&CN đối với sự phát triển LLSX
1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về KH&CN

KH&CN là một chủ đề lớn, thiết thực đối với đời sống xã hội nói
chung, đối với việc phát triển LLSX rói riêng. Chính vì vậy, chủ đề này đã
được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
Alvin Toffler trong các tác phẩm “Làn sóng thứ ba” (1980), “Tạo dựng
một nền văn minh mới - Chính trị của làn sóng thứ ba” (1993) [3] đã khái
quát những thành tựu khoa học cơ bản của nhân loại trong những thập kỷ cuối
thế kỷ XX. Theo tác giả, KH&CN cũng như vị thế của nó trong đời sống xã
hội đang có sự thay đổi căn bản, gắn liền với sự ra đời của nền văn minh mới
mà ông gọi là “Làn sóng thứ ba”; những công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều tài
nguyên, gây ô nhiễm môi trường đang dần được thay thế bởi những công
nghệ hiện đại, sử dụng nguyên liệu tái tạo, bảo vệ môi trường; tuy nhiên, quá
trình thay thế giữa công nghệ cũ bằng công nghệ mới không đơn giản bởi sự
cản trở của những lực lượng đại diện cho công nghệ cũ - công nghệ của “Làn
sóng thứ hai”.
Công trình “KH&CN thế giới - kinh nghiệm và định hướng chiến lược”
(Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2002) của Tạ Bá Hưng [74] đã nêu một số
đặc điểm cơ bản của KH&CN hiện nay. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến


8

khoảng cách giữa các phát minh khoa học và việc ứng dụng các phát minh đó
vào thực tiễn sản xuất được thu hẹp đáng kể.
Công trình “Một số vấn đề kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam” (Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội, 2005) của tác giả Vũ
Hồng Tiến [127] đã phân tích bản chất của khoa học, bản chất của công nghệ;
sự ra đời của của KH&CN; nội dung, đặc trưng của KH&CN hiện đại. Trong
đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh khoa học với tính cách là hệ thống các tri thức
phản ánh đúng đắn bản chất, quy luật khách quan của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới; công nghệ chính là kết quả tất yếu của khoa học, là sự biểu

hiện của khoa học dưới dạng máy móc, công cụ, quy trình sản xuất hiện đại.
Tác giả HelgaNowotnty, Peter Scott và Michael Gibbos trong công trình
“Tư duy lại khoa học - Tri thức và công chúng trong thế kỷ bất định” (Nxb
trẻ, Hà Nội, 2009) [62] đặt vấn đề tư duy lại khoa học như nội dung của bản
thân khoa học trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH&CN hiện
nay. Theo các tác giả, những thành tựu khoa học hiện nay cho thấy khoảng
cách giữa khoa học và sản xuất dường như đã bị xóa nhòa; bản thân khoa học
có thể dẫn đến những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội và đôi khi chúng
ta cũng không thể lường hết được tương lai của loài người trước sự phát triển
của khoa học.
Công trình “Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Trần Hồng Lưu [88]
không chỉ đề cập đến khoa học với tư cách là kết quả của quá trình nhận thức,
tồn tại dưới dạng lý luận, học thuyết khoa học, mà tác giả còn bàn đến quá
trình vật chất hóa khoa học, tức kỹ thuật - công nghệ và nguồn nhân lực khoa
học - công nghệ.
Công trình “Luận điểm “khoa học trở thành LLSX trực tiếp” của Mác
và sự vận dụng ở nước ta hiện nay” (2011) của Trần Khắc Hiếu [64]. Trong


9

công trình này tác giả nhấn mạnh đến tính đúng đắn của Mác khi Mác nhận
định khoa học trở thành LLSX trực tiếp. Theo tác giả, cuộc cách mạng
KH&CN hiện nay đang chứng minh cho tính đúng đắn nhận định của Mác.
Kế thừa và phát triển những thành tựu mà các nhà nghiên cứu đã đạt
được, Luật KH&CN (2013) [87] đã khái quát: khoa học là một hệ thống tri
thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên,
xã hội và tư duy; công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm
theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực

thành sản phẩm.
Công trình “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển LLSX
của chủ nghĩa xã hội (CNXH)” của tác giả Nguyễn Chí Dũng (2017) [39,
tr.47] đã chỉ ra rằng: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ hoàn thành vai trò
lịch sử của nó - xây dựng và hoàn thiện LLSX tiên tiến, hiện đại, đặt cơ sở
vững chắc cho chủ nghĩa cộng sản.
Công trình “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” của tác giả Klaus
Schwad (2018) [77] đã khái quát sự phát triển của KH&CN thế giới trong gần
hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI. Theo tác giả, nhân loại đang bước vào
cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cho dù thuật ngữ “cách mạng công nghiệp
lần thứ tư” xuất hiện từ thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, nhưng trên thực tế nó
đã bắt đầu từ những năm 2000, đặc trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới
giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Đây là xu hướng
kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết nối internet (IoT) và các
hệ thống kết nối internet (IoS). Gắn liền với cách mạng công nghiệp lần thứ tư
là sự hợp nhất các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học; giữa
các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết nối internet và các hệ thống kết nối
internet. Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư này đang làm thay đổi cách
thức sản xuất, chế tạo. Từ những thành tựu của cách mạng công nghiệp lần


10

thứ tư dẫn đến sự hình thành các “nhà máy thông minh”. Trong “nhà máy
thông minh” này, các máy móc, thiết bị được kết nối internet và liên kết với
nhau qua một hệ thống để có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất và
đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Nhờ khả
năng kết nối của hàng tỷ người trên trên thế giới thông qua các thiết bị di
động cùng với khả năng tiếp cận cơ sở dữ liệu lớn, các tính năng xử lý thông
tin sẽ được nhân lên bởi các đột phá về công nghệ trong các lĩnh vực như trí

tuệ nhân tạo, robot, internet kết nối vạn vật, xe tự hành, in 3D, công nghệ
nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu mới. Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là trong lĩnh
vực sản xuất vật chất, đặc biệt là LLSX, làm cho LLSX mang những diện
mạo mới với những công nghệ vượt trội, tạo ra năng suất lao động cao, giải
phóng người lao động khỏi công việc nặng nhọc.
Công trình “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - cuộc cách mạng của
sự hội tụ và tiết kiệm” của tác giả Phan Xuân Dũng (2018) [38] đã khái quát
các cuộc cách mạng công nghiệp mà nhân loại đã trải qua. Theo tác giả cách
mạng KH&CN là khái niệm về một giai đoạn phát sinh nhiều ý tưởng mới
trong các ngành khoa học như vật lý, thiên văn, sinh học, giải phẫu học con
người, hóa học,... dẫn tới sự loại bỏ các học thuyết đã được đưa ra trước đó và
đặt nền móng cho sự ra đời một nền khoa học hiện đại hơn. Cách mạng
KH&CN là giai đoạn mà khi khoảng cách giữa khoa học, kỹ thuật và áp dụng
kết quả của nó vào cuộc sống đã được rút ngắn đáng kể. Theo đó kỹ thuật
biến thành công nghệ. Vì thế, khái niệm cách mạng KH&CN xuất hiện muộn
hơn khái niệm cách mạng khoa học và kỹ thuật. Cách mạng KH&CN mới chỉ
xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (tr.13-14). Theo tác giả, hiện nay
nhân loại đang bước vào cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những công
nghệ nền tảng và công nghệ ứng dụng là: Dữ liệu lớn, điện toán đám mây, các


11

robot có kết nối, internet kết nối vạn vật, công nghệ in 3D, máy móc tự động
hóa, trí tuệ nhân tạo,... Những công nghệ này, một mặt là biểu hiện sự phát
triển của LLSX, mặt khác nó là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của
LLSX và mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Tóm lại, những công trình trên đã làm rõ nhiều vấn đề mang tính lý luận
về chung về KH&CN như: Khái niệm khoa học, khái niệm công nghệ, mối

quan hệ biện chứng giữa KH&CN, sự phát triển của cuộc cách mạng KH&CN
hiện nay. Trên cơ sở phân tích, chọn lọc và kế thừa, chúng tôi sẽ tiếp tục
nghiên cứu, hệ thống hóa, góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề mang
tính chất lý luận chung về KH&CN.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu lý luận về LLSX
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều
công trình nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận về LLSX. Tác giả Hồ
Anh Dũng (2002) trong công trình công trình “Phát huy yếu tố con người
trong LLSX ở Việt Nam hiện nay” [35] cho rằng: LLSX biểu hiện mối quan hệ
con người với giới tự nhiên, biểu hiện năng lực chinh phục tự nhiên của con
người trong những giai đoạn lịch sử nhất định. LLSX là một thể thống nhất
hữu cơ yếu tố người và yếu tố các sự vật, trong đó con người đóng vai trò
quyết định. Con người là chủ thể tích cực, sáng tạo, biết vận dụng tri thức
khoa học, chuyên môn, kỹ năng để chế tạo, cải biến và sử dụng các tư liệu lao
động. Công cụ lao động là yếu tố năng động nhất tác động vào đối tượng tự
nhiên, cải tạo chúng nhằm tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
LLSX luôn được kế thừa và phát triển. Tác giả phân tích các yếu tố của LLSX
theo ba quan điểm: Thứ nhất, LLSX gồm yếu tố con người và các phương tiện
lao động; thứ hai, yếu tố con người, các phương tiện lao động, đối tượng lao
động; thứ ba, yếu tố con người, các phương tiện lao động, đối tượng lao động,
khoa học và quản lý sản xuất. Các quan điểm trên, xem xét số lượng


12

các yếu tố có khác nhau nhưng đều khẳng định yếu tố con người trong LLSX,
vai trò của con người trong điều kiện của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại.
Sau khi phân tích các quan điểm trên tác giả kết luận: LLSX có hai yếu tố là
yếu tố con người sản xuất, yếu tố các sự vật, vật chất của sản xuất, hay là yếu
tố vật thể của LLSX. Mỗi yếu tố đặt trong mối quan hệ biện chứng thống nhất

với nhau.
Công trình “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam”của
Nguyễn Hữu Dũng (2003) [36] đã khái quát một số vấn đề lý luận, thực tiễn
có liên quan đến phát triển và sử dụng nguồn lực lao động, nhân tố quan trọng
nhất cấu thành LLSX. Đồng thời, tác giả giới thiệu kinh nghiệm của Mỹ, Nhật
Bản và Trung Quốc về vấn đề sử dụng nguồn lực con người, từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm phát huy và sử dụng nguồn lực con người với mục đích phát
triển LLSX.
Tác giả Hồ Bá Thâm (2004) trong công trình “Động lực và tạo động lực
phát triển xã hội” [119] đã phân tích nhân tố con người trong LLSX; khẳng
định việc phát huy nhân tố con người với tính cách là yếu tố cấu thành LLSX
bao gồm cả đạo đức, sức khỏe, lợi ích, sức lao động, tri thức, tay nghề và kinh
nghiệm. Người lao động tác động vào tự nhiên và xã hội bằng sức mạnh vật
chất có ý thức, nhưng động lực chi phối bắt nguồn từ các yếu tố cấu thành, vì
vậy phát huy vai trò người lao động trong LLSX cần quan tâm đến các nhân
tố từ thể lực đến trí lực và tâm lực.
Công trình “Về khái niệm LLSX và trình độ của LLSX”, Nguyễn Đức
Luận (2011), [83, 61-68]. Trong công trình này, tác giả đã sử dụng nguồn tư
liệu rất phong phú để phân tích, rút ra khái niệm LLSX và các biểu hiện về
trình độ của LLSX. Theo tác giả, LLSX là khái niệm của chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất, được tạo thành từ sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu


13

sản xuất trong quá trình chinh phục, cải tạo tự nhiên, thực hiện việc sản xuất
xã hội. Bằng những lập luận thuyết phục, tác giả chỉ ra rằng, trình độ của
LLSX biểu hiện qua các yếu tố cấu thành nó; biểu hiện qua tính chất của nó;
biểu hiện qua sự phân công lao động xã hội và biểu hiện qua việc ứng dụng

khoa học vào sản xuất. Nhìn chung, công trình này đã phân tích khá chi tiết
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về LLSX.
Công trình “Trí thức và trách nhiệm xã hội” (Tạp chí Cộng sản, số 853
tháng 11 năm 2013) [24] của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã tập trung làm rõ
vai trò của đội ngũ trí thức, nguồn lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc nghiên cứu, triển khai, ứng dụng thành tựu KH&CN tạo nên sức mạnh
của mỗi quốc gia. Xác định vai trò và trách nhiệm xã hội của trí thức có ý
nghĩa to lớn trong toàn bộ tiến trình xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập
quốc tế hiện nay.
Công trình “Tác động của quan hệ sản xuất đối với LLSX: Từ lý luận
đến thực tiễn Việt Nam” của Nguyễn Đức Luận (2016), [84] làm rõ quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin về những tác động của quan hệ sản xuất đối với sự
phát triển của LLSX, quá trình vận dụng quan điểm này ở nước ta hiện nay.
Công trình phân tích khái niệm LLSX, kết cấu của LLSX, một số biểu hiện
mới của LLSX. Đặc biệt tác giả phân tích kỹ sự vận động và phát triển không
ngừng của LLSX, do vậy bản thân LLSX, các yếu tố cấu thành và vai trò,
quan hệ của các yếu tố cấu thành cũng có sự vận động và phát triển. Công
trình còn làm rõ vai trò của KH&CN đối với người lao động là thay đổi trình
độ, cách thức lao động và thay đổi ngành nghề. Bên cạnh đó KH&CN còn
đưa đến sự ra đời của hàng loạt các loại máy móc, công cụ sản xuất hiện đại.
Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, để phát triển LLSX phải tập trung vào việc
phát triển, sản xuất tri thức, nhanh chóng phổ biến và ứng dụng những tri thức
khoa học tiên tiến vào sản xuất và đời sống.


14

Lý luận về LLSX còn được nhiều tác giả nghiên cứu, phân tích trong
nhiều công trình khác nhau, nhất là trong các công trình bàn về mối quan hệ
giữa LLSX và quan hệ sản xuất của các tác giả sau:

-

Nguyễn Tĩnh Gia (1987): Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam [53] .
-

Hoàng Bình - Lê Văn Dương - Nguyễn Đình Hòa - Trần Ngọc Linh -

Nguyễn Văn Thức (1990): Thực trạng quan hệ sản xuất và LLSX ở Việt Nam
hiện nay [12].
- Trương Hữu Hoàn (1995): Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với LLSX

và vấn đề nhận thức, vận dụng quy luật này ở một số nước xã hội chủ nghĩa [66].
-

Nguyễn Trọng Tuấn (1996): Nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong nông nghiệp ở nước ta
thời kỳ đổi mới [147].

-

Trần Thanh Đức (2002): Nhân tố con người trong LLSX với vấn đề đào tạo
người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
hiện nay (từ thực tiễn đồng bằng sông Cửu long) [51].
-

Chu Tiến Quang (2010):“Về thực hiện mối quan hệ giữa LLSX và quan

hệ sản xuất trong nông nghiệp ở Việt Nam” [104 tr.7 -13].

-

Nguyễn Hùng Hậu (2011): “Phát triển LLSX và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ ở nước ta” [61].
Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu tập trung làm rõ những
vấn đề lý luận về LLSX, trên đây là những công trình tiêu biểu mà chúng tôi
đã tiếp cận, tìm hiểu. Thông qua đó, khái niệm LLSX cũng như kết cấu, trình
độ, tính chất của nó đã được nhiều tác giả phân tích với nhiều mức độ và góc
độ tiếp cận khác nhau. Đây là nguồn tư liệu tham khảo rất quý cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện đề tài của mình.


15

1.1.3. Những công trình nghiên cứu lý luận về vai trò của KH&CN
đối với sự phát triển LLSX
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu, chúng tôi nhận thấy rất ít
công trình nghiên cứu thuần túy lý luận về vai trò của KH&CN đối với sự
phát triển của LLSX. Lý luận về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của
LLSX thường được đề cập đến khi bàn đến một thực tiễn nào đó, đặc biệt là
thực tiễn Việt Nam.
“KH&CN với các giá trị văn hóa”của Hoàng Đình Phu (1998) [102],
phân tích vai trò của KH&CN đang trở thành động lực phát triển kinh tế - xã
hội. Mặt khác, việc áp dụng lệch lạc những thành tựu KH&CN sẽ gây những
tác hại khôn lường cho xã hội. Tác giả chỉ ra vai trò định hướng của văn hóa
trong việc xác định các mục tiêu, chính sách phát triển KH&CN.
Công trình “Tiến bộ khoa học nhìn từ phía trái” của tác giả Đoàn Xuân
Mượu (1999) [95] phân tích mặt trái, tác động tiêu cực của khoa học, nếu con
người sử dụng khoa học sai mục đích, vì lợi ích cá nhân, chính những thành
tựu khoa học sẽ hủy hoại con người, thậm chí đe dọa hủy diệt loài người. Tuy

nhiên, hậu quả tiêu cực ấy xảy ra hay không xảy ra? Đến mức nào? Tùy thuộc
vào ý chí, khả năng con người biết hướng phát triển khoa học, và tiến triển
của đời sống vật chất, tinh thần theo hướng lành mạnh, hợp lý, hợp quy luật tự
nhiên. Tác giả kêu gọi ý thức tự giác của những người làm công tác KH&CN,
nâng cao tinh thần trách nhiệm trước xã hội và đồng loại. Bên cạnh đó nâng
cao ý thức, trình độ hiểu biết của con người, góp phần phát triển KH&CN vì
mục đích chung là phục vụ con người.
Công trình “Quan hệ giữa phát triển KH&CN với phát triển kinh tế xã
hội trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam” của Viện nghiên cứu
chiến lược chính sách KH&CN (1999) [150] đã giải quyết nhiều vấn đề lý
luận về vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX. Theo các tác giả


16

của công trình này, từ nửa sau thế kỷ XX cách mạng khoa học - kỹ thuật bắt
đầu có những điểm mới. Đó là, một cuộc cách mạng chủ yếu về công nghệ,
với sự ra đời của máy tính điện tử thế hệ mới được sử dụng trong mọi lĩnh
vực. Việc áp dụng những công nghệ mới tạo điều kiện phát triển theo chiều
sâu, giảm hẳn tiêu hao năng lượng và nguyên liệu, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất
phát triển. Cách mạng khoa học - kỹ thuật thế kỷ XX, đột phá vào thế giới vi
mô của vật chất, và vật liệu sống đã mở ra khả năng mới đi vào khai thác các
quy luật vận động của thế giới vi mô. Ngày nay, sản xuất chịu ảnh hưởng của
nhiều ngành khoa học kể cả khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học
xã hội.
Công trình“Khoa học cơ bản thế kỷ XX đối với một số vấn đề lớn của
triết học” (2000) của Lê Văn Giạng [54], nêu vai trò của khoa học thế kỷ XX
là làm thay đổi hẳn bộ mặt đời sống xã hội, từ ăn, ở, đi lại, đến lao động và
giải trí... đồng thời chỉ ra chính khoa học cũng tạo ra mối đe doạ về môi
trường, về đạo đức và sự tồn tại của con người, khi các thành tựu khoa học bị

lạm dụng một cách mù quáng.
Đề cập đến tương lai của KH&CN Việt Nam trong tác phẩm“KH&CN
Việt Nam - những sắc màu tiềm năng” của Vũ Tuyên Hoàng, (2000) [67] nói
đến tương lai KH&CN Việt Nam với nhiều hy vọng. Những lĩnh vực mang
tính mũi nhọn của KH&CN trên thế giới là: Tin học, công nghệ sinh học, điện
tử, tự động hóa, vật liệu mới,… đây là yếu tố quyết định bước tiến thần kỳ
trong thế Kỷ XXI. Bên cạnh đó, việc nhấn mạnh vai trò của KH&CN làm cho
đời sống vật chất phát triển, công trình còn đề cập đến vai trò của KH&CN
đối với đời sống tinh thần. Có sức mạnh vật chất, nhưng không có lòng nhân
ái, không có lương tâm sẽ không có được sự công bằng và nhân đạo.
Trong công trình “Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong việc sử dụng
hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam” của Hà Huy Thành


17

(2001) [116], tác giả đã phân tích hậu quả của những vấn đề: vệ sinh an toàn
thực phẩm, biến đổi gen, tế bào gốc, vũ khí sinh học,… đang đe dọa cuộc
sống của con người và xã hội loài người.
Công trình “Hiện đại hóa xã hội - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của Lương Việt Hải (2001) [60], tác giả nhấn mạnh rằng: KH&CN đã tác
động mạnh mẽ đến yếu tố con người trong LLSX, như cách thức con người
lao động sản xuất, tạo ra những giá trị vật chất và hiện đại hóa đời sống tinh
thần. Tác giả còn đề cập vai trò của CNTT trong đời sống xã hội.
Trong công trình “Phác thảo chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam
đến năm 2010” của Ban Nghiên cứu Dự báo, Chiến lược và Quản lý khoa học
-

Trung tâm Khoa học Tự nhiên (2003) [6], nói đến khả năng KH&CN tạo đột
biến trong phát triển kinh tế - xã hội, xu hướng tích hợp cao, tạo động lực

tổng hợp cho KH&CN phát triển. KH&CN yếu tố then chốt, quyết định sự
phát triển của LLSX. KH&CN là công cụ đắc lực nhất thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, chỗ dựa cơ bản cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cơ sở
quan trọng để củng cố và hiện đại hóa về an ninh, quốc phòng của quốc gia.
Công trình “KH&CN thế giới thách thức và vận hội mới” do tác giả Tạ
Bá Hưng chủ biên (2005) [74], phân tích vai trò của KH&CN là làm thay đổi
tận gốc LLSX, bắt đầu từ người lao động đến tư liệu sản xuất, và sự thay đổi
nhanh chóng của công cụ lao động góp phần làm nền kinh tế thế giới phát
triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Bên cạnh đó, công trình nêu một số thành
tựu KH&CN của các nước trên thế giới như Mỹ, Canađa, Liên minh châu Âu
và Nga,...
Tác giả Nguyễn Kiều Liên trong công trình “Khoa học - kỹ thuật thế kỷ
XX” (2005) [81] hệ thống những thành tựu kỳ diệu mà khoa học kỹ - thuật đạt
được trong thế kỷ XX. Đó là, những thành tựu rực rỡ ở các lĩnh vực như: vật
lý, hóa học, sinh học, y học, CNTT, hàng không, vũ trụ và năng lượng,…


18

Những thành tựu này làm thay đổi cuộc sống vật chất, tinh thần của con
người và mở ra tương lai mới trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Công trình “LLSX mới và kinh tế tri thức” của các tác giả Vũ Đình Cự và
Trần Xuân Sầm (2005) [29], đã làm rõ một số xu hướng phát triển của
KH&CN. Công nghệ cao sẽ tạo đột phá như: CNTT - truyền thông, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến, công nghệ năng lượng mới,… nhanh
chóng trở thành cốt lõi của LLSX mới, trong nền sản xuất hiện đại, là bước
biến đổi về chất đối với sự phát triển của thế giới. Trong LLSX, khoa học trở
thành LLSX trực tiếp, lấy tri thức là yếu tố quyết định, lấy con người làm vốn
quan trọng. LLSX mới có tính chất toàn cầu và tính phát triển bền vững, thân
thiện với môi trường.

Tác giả Hồ Sỹ Quý trong công trình “Con người và phát triển con
người” (2007) [109], khái quát những thành tựu KH&CN hiện đại như: Tin
học, sinh học, khoa học vũ trụ và khoa học về con người. Công trình phân tích
vai trò của khoa học xã hội. Đồng thời, đánh giá tổng quát những tiến bộ của
KH&CN đạt được trong thế kỷ XX trong đó, nhấn mạnh sự tác động trực tiếp
của KH&CN hiện đại đến con người. Chính KH&CN làm cho tương giao
giữa lao động trực tiếp và lao động gián tiếp thay đổi nhanh, bản chất lao
động biến đổi theo xu hướng giảm lao động chân tay, lao động dây chuyền
bằng lao động có hàm lượng trí tuệ cao. Dưới tác động của KH&CN, người
lao động trở thành yếu tố quyết định của LLSX. Công trình còn nhấn mạnh
KH&CN, với nguồn lực con người được đào tạo bài bản là thế mạnh không gì
thay thế được.
Tóm lại, đã có nhiều công trình khoa học bàn về vai trò vai trò của
KH&CN đối với sự phát triển LLSX dưới góc độ lý luận. Có công trình phân
tích vai trò tích cực của KH&CN đối với người lao động, yếu tố quyết định
trong LLSX. Người lao động không chỉ giữ vị trí trung tâm trong LLSX mà


19

có khả năng nắm bắt, áp dụng những thành tựu KH&CN để phát triển sản
xuất. Có công trình nói đến vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của tư
liệu sản xuất, nhờ có KH&CN mà tư liệu sản xuất liên tục được cải tiến, đổi
mới, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất. Nhưng
những công trình trên phân tích chưa sâu việc phát huy vai trò của KH&CN
đối với sự phát triển LLSX, và quá trình ứng dụng KH&CN vào sản xuất còn
mang tính khái quát. Đây cũng là hướng để luận án chúng tôi tiếp tục làm
sáng tỏ.
1.2. Những công trình bàn về thực trạng và vấn đề đặt ra trong quá
trình phát huy vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX ở Việt

Nam hiện nay
1.2.1. Những công trình bàn về thực trạng vai trò của KH&CN đối
với sự phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay
Nhận thức rõ vai trò to lớn của KH&CN đối với sự phát triển của LLSX


Việt Nam, đặc biệt là trong những năm đất nước ta thực hiện đường lối đổi
mới, chính vì vậy có rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu vấn đề này với
nhiều công trình khác nhau.
Công trình “KH&CN với sự phát triển kinh tế - xã hội” (1989) [72] tác
giả Đặng Hữu đã phân tích tác động của khoa học - kỹ thuật đối với đời sống
xã hội Việt Nam nói chung, LLSX riêng. Theo tác giả, Việt Nam là nước mà
nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển; chúng ta chưa thực sự
phát huy được vai trò to lớn của KH&CN trong quá trình phát triển LLSX và
các lĩnh vực của đời sống xã hội; sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
KH&CN đang mở ra cơ hội rất lớn để chúng ta khắc phục được tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu.
Công trình “Quan hệ giữa phát triển KH&CN với phát triển kinh tế - xã
hội trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam” của Viện nghiên cứu


20

chiến lược chính sách KH&CN (1999) [150] chỉ ra rằng, từ nửa sau thế kỷ
AX cách

mạng khoa học - kỹ thuật bắt đầu có những điểm mới. Đó là, một cuộc

cách mạng chủ yếu về công nghệ, với sự ra đời của máy tính điện tử thế hệ
mới được sử dụng trong mọi lĩnh vực. Việc áp dụng những công nghệ mới ở

Việt Nam tạo điều kiện cho đất nước ta phát triển theo chiều sâu, thúc đẩy quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao năng suất lao động.
Công trình cũng chỉ ra nhiều bất cập trong việc phát huy vai trò của KH&CN
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, LLSX nói riêng,
nhất là những hạn chế của nguồn nhân lực dẫn đến việc tiếp thu các thành tựu
KH&CN hiện đại còn chậm, đòi hỏi phải nhanh chóng khắc phục.
Công trình “KH&CN Việt Nam - những sắc màu tiềm năng” của Vũ
Tuyên Hoàng (2000) [67] nói đến tương lai KH&CN Việt Nam với nhiều hy
vọng. Những lĩnh vực mang tính mũi nhọn của KH&CN trên thế giới, cũng
như Việt Nam đang phấn đấu là: tin học, công nghệ sinh học, điện tử, tự động
hóa, vật liệu mới,… đây sẽ là yếu tố quyết định bước tiến thần kỳ trong thế
Kỷ XXI. Việt Nam cần nhận thức rõ vấn đề này để có chính sách phù hợp.
Bên cạnh, tác giả phân tích vai trò của KH&CN ở Việt Nam hiện nay là làm
cho đời sống vật chất và đời sống tinh thần phát triển. Theo tác giả, nếu chỉ có
sức mạnh vật chất mà không có lòng nhân ái, không có lương tâm thì sẽ
không có được sự công bằng và nhân đạo.
Các công trình: “KH&CN Việt Nam năm 2001” (2002) [15], “KH&CN
Việt Nam năm 2003” (2004) [16] và công trình “KH&CN Việt Nam năm
2005” (Bộ KH&CN, Hà Nội, 2006) [17] đã tổng kết, đánh giá thực trạng
KH&CN Việt Nam với những số liệu phong phú, chính xác từ đó đưa ra
những nhận định, dự báo về xu hướng phát triển của KH&CN Việt Nam trong
tương lai, để có sự chủ động trong quá trình phát triển.


×