Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

TIỂU LUẬN: HỌC THUYẾT MÁC VÀ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CÁC YẾU TỐ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.82 KB, 112 trang )








TIỂU LUẬN:

HỌC THUYẾT MÁC VÀ VẤN ĐỀ HOÀN
THIỆN CÁC YẾU TỐ CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY















Dựa trên quan điểm của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội nói chung, về
phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, trong bài viết này, tác giả đã làm rõ một số
nguyên tắc, phương châm cơ bản trong việc vận dụng quan điểm của C.Mác nhằm
phát triển và hoàn thiện các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện


nay.
1. Quan niệm duy vật về lịch sử trong triết học của C.Mác được coi là bước ngoặt có
tính cách mạng trong toàn bộ lịch sử triết học của nhân loại, trong đó có quan điểm
về sự tồn tại và vận động của xã hội. Cùng với lập trường duy vật biện chứng lấy thế
giới để giải thích sự tồn tại và phát triển của chính nó, C.Mác và người cộng sự của ông
- Ph.Ăngghen còn trình bày những quan niệm duy vật về lịch sử, khẳng định xã hội là xã
hội của con người, con người xuất hiện và tạo ra xã hội của họ, gắn liền với các hoạt
động sản xuất vật chất. Chính sản xuất xã hội của con người với năng lực, trình độ, cơ
chế hợp tác khác nhau… là những yếu tố căn bản nhất đóng vai trò quyết định trong
việc tạo ra các chế độ xã hội khác nhau cũng như sự khác biệt giữa chúng.
Bằng phương pháp biện chứng và lập trường duy vật về lịch sử, C.Mác, lần đầu tiện
trong lịch sử triết học, đã trình bày những nhận thức khoa học về lịch sử, xã hội qua
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Theo đó, loài người đã trải qua các giai đoạn
phát triển cao thấp khác nhau, với những tiêu chí, tiêu chuẩn khác nhau. Nhưng tiêu
chuẩn cơ bản nhất để nhận biết, phân biệt các chế độ xã hội khác nhau chính là dựa
vào sự khác nhau thông qua các yếu tố cấu thành trong quan hệ về hình thái kinh tế -
xã hội, một xã hội cụ thể trong một giai đoạn với một phương thức sản xuất đặc
trưng (với một lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp); một xã hội với cơ
sở hạ tầng nhất định và kiến trúc thượng tầng phù hợp.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội được C.Mác trình bày không phải là sản phẩm của
óc tưởng tượng thuần tuý, nó được ông nhận thức, kế thừa, phát hiện và khái quát từ


chính đời sống của xã hội. Ông đưa ra một kết luận khái quát có tính khoa học rằng, sự
vận động của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Với óc
khái quá hoá và trừu tượng hoá độc đáo, C.Mác vạch rõ tính quy luật và quy luật vận
động, phát triển của một số hiện tượng xã hội cấu thành trong sản xuất, trong sinh hoạt
xã hội và hoạt động của thể chế.
Cùng với phát hiện có tính lịch sử về sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội,
với phương pháp luận đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ khái quát đến các yếu tố của sự

vật và hiện tượng, C.Mác đã kế thừa các học thuyết triết học xã hội trước đó và
khẳng định rằng, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của con người là những
yếu tố quan trọng và quyết định nhất, đồng thời là tiêu chí cơ bản thể hiện trình độ
của tiến bộ xã hội, phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Với phương pháp luận
này, C.Mác không dừng lại ở việc nhận thức vai trò to lớn của phương thức sản xuất
đối với lịch sử, mà còn tiếp tục “giải phẫu” cấu trúc của phương thức sản xuất. Ông
chỉ ra rằng, phương thức sản xuất xã hội là sự thống nhất của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, các yếu tố này tác động biện chứng lẫn nhau; trong đó, lực lượng
sản xuất đóng vai trò quyết định còn quan hệ sản xuất cũng có tác động trở lại đối
với lực lượng sản xuất. Sự tác động biện chứng giữa chúng là quy luật cơ bản, xuyên
suốt toàn bộ lịch sử vận động và phát triển của các phương thức sản xuất cho đến
ngày nay và nó vẫn hoàn toàn đúng, nếu chúng ta xem xét ở bất kỳ quốc gia nào. Với
phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, bằng những sự kiện của lịch sử trong sản
xuất xã hội và các quá trình xã hội khác, chúng ta có thể làm sáng tỏ thêm rằng, chính
mối quan hệ, sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
quyết định sự phát triển của các phương thức sản xuất và do vậy, quyết định sự vận
động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử.
Triết học tiến bộ phải có vai trò to lớn, mà như C.Mác khẳng định, đó là chức năng
cải tạo thế giới. Vậy, lý luận của C.Mác về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và
mối quan hệ biện chứng giữa chúng có đóng góp gì cho viêc phát triển nền sản xuất
xã hội, mang lại sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội của Việt Nam ngày nay?
Đây là vấn đề rộng lớn mà trong bài viết này, tác giả chỉ trình bày một số nội dung
cơ bản trong sự vận dụng quan điểm của C.Mác về lực lượng sản xuất vào quá trình
hoàn thiện thể chế kinh tế và hội nhập của Việt Nam.


2.
Như đã nêu trên, vấn đề lực lượng sản xuất xã hội là một trong những nội dung
trọng yếu trong triết học xã hội của C.Mác, đồng thời cũng là một trong những tiêu
chí phân biệt nhận thức sự vận động xã hội của những người mácxít với các quan

điểm triết học xã hội khác. Triết học Mác coi lực lượng sản xuất là yếu tố năng động
nhất trong các yếu tố cấu thành phương thức sản xuất xã hội, quyết định xu hướng,
tốc độ, nhịp độ vận động của các quan hệ sản xuất. Cho đến nay, quan điểm đúng
đắn đó vẫn còn nguyên giá trị, đồng thời là cơ sở nhận thức và khảo cứu thực tiễn,
xem xét những chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các nước nói chung và của
Việt Nam nói riêng.
Vậy, vận dụng quan điểm của C.Mác về lực lượng sản xuất và vai trò của nó trong sản
xuất xã hội ở Việt Nam hiện nay như thế nào, phương pháp tiếp cận ra sao? Theo chúng
tôi, cần dựa trên các nguyên tắc căn bản sau:
- Nhận thức đúng đắn quan điểm của C.Mác (và V.I.Lênin - người kế tục xuất sắc
của ông);
- Không máy móc, giáo điều. Chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi học thuyết của các
ông chỉ là kim chỉ nam. Học thuyết của Mác ra khỏi hoàn cảnh lịch sử đương thời
chắc chắn nó cần phải được vận dụng một cách sáng tạo sao cho có thể thích ứng với
một xã hội cụ thể, một quốc gia, dân tộc cụ thể (với quy mô dân cư, trình độ dân trí,
thể chế xã hội, tương quan trong nước và thế giới…).
- Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể sao cho có
thể hướng tới việc phát huy cao nhất các yếu tố vốn có, các yếu tố mới sáng tạo, các
nguồn lực của đất nước và dân tộc.
Cần xác định rõ vị trí và vai trò của lực lượng sản xuất trong xã hội, cũng như vị trí,
vai trò của từng yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Trong lực lượng sản xuất, con
người là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đối với nước ta, ưu thế của nguồn lực con
người đã được khẳng định (thông minh, sáng tạo, cần cù và khéo léo…). Nhưng,
trước những yêu cầu mới, bối cảnh mới, cơ chế mới, nguồn lực đó đang bộc lộ
những hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động xã
hội (tác phong của người tiểu nông, kỷ luật lao động thấp; hạn chế về thể chất…).
Một số khiếm khuyết trong lao động của con người Việt Nam có thể do nguyên nhân
khách quan và chủ quan (xét theo hành vi chủ quan của con người và tác động bên



ngoài như cơ chế, chính sách, thể chế): lý luận, lý lẽ nhiều hơn thực tế, thực hành;
học tập vì bằng cấp hơn là để phục vụ công việc; (như giỏi thi ngoại ngữ nhưng rất
yếu, rất thiếu người dùng tốt ngoại ngữ để giao tiếp; người có bằng nhiều khi lại
không vượt qua các kỳ kiểm tra, sát hạch) Những hạn chế đó là do ảnh hưởng
không nhỏ từ sự yếu kém trong phương thức, quy trình và nội dung đào tạo hiện
hành mà đến nay vẫn chưa có “phương thuốc” chữa một cách hiệu quả.
Các yếu tố khác trong cấu trúc của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện cũng đang có
những bất cập trước yêu cầu của xã hội và con người Việt Nam, nhất là yêu cầu hội
nhập thương mại:
- Đất đai là đối tượng lao động và tư liệu sản xuất hàng đầu đối với một nước mà sản
xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao. Ở nước ta, nguồn lực này vốn đã ít lại có
xu thế ngày càng cạn kiệt, suy thoái và bị thu hẹp. Quá trình đô thị hoá - kiểu tổ chức
đời sống của thời đại khoa học và công nghệ phát triển, đã và đang làm cho đối
tượng lao động hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp và ô nhiễm nặng nề
do sản xuất công nghiệp và ứng dụng hoá học vào sản xuất và sinh hoạt. Cùng với
tốc độ đô thị hoá, quá trình hình thành các khu quy hoạch cho công nghiệp và sản
xuất dịch vụ cũng là nguyên nhân làm cho diện tích đất trồng ngày càng thu hẹp
(chưa nói tới việc sử dụng nguồn lực này hiệu quả hay không và sự hiện diện các khu
công nghiệp có bảo đảm việc chuyển đổi đó trong tư duy quản lý hiện nay là chính
xác hay không).
- Một số sản phẩm chỉ mang tính nguyên liệu cho sản xuất do trình độ thấp về khoa
học và công nghệ như hạt điều, hạt cà phê, hồ tiêu… Việc xuất khẩu nhiều mặt hàng
dưới dạng nguyên liệu, bán thành phẩm không mang lại giá trị cao. Điều đó giải
thích tại sao hàng hoá của Việt Nam phải “khoác” cái áo thương hiệu khác, thường là
thương hiệu uy tín không do con người Việt Nam sáng tạo ra mới có thể thâm nhập
vào các thị trường lớn thuộc các quốc gia ngoài Việt Nam.
Những yếu kém trên đều do trình độ và năng lực của con người. Điều đó cho thấy,
ngay trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, các yếu tố luôn tác động lẫn nhau, trong
đó yếu tố quan trọng nhất là yếu tố con người (với ý thức, năng lực, trình độ và trách
nhiệm khác nhau).

3. Hệ thống luật pháp của Nhà nước và quyết sách chính trị của Đảng Cộng sản Việt


Nam luôn dành phần quan trọng quy định hoặc hoạch định đường hướng cho sự phát
triển xã hội, trước hết là nền sản xuất xã hội, khẳng định kinh tế - xã hội là nền tảng
của thể chế và sản xuất xã hội (năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và môi
trường…) giữ vai trò quyết định. Điều đó thể hiện các quan điểm:
- Vận dụng sáng tạo nguyên lý mácxít về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
- Định hướng phát triển đồng bộ, từng bước các yếu tố của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất.
- Cụ thể hoá chính sách tác động tích cực tới việc không ngừng hoàn thiện các yếu tố
của lực lượng sản xuất.
Có thể chỉ ra một số nội dung liên quan đến đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chủ trương và chính sách của Nhà nước Việt Nam về việc hoàn thiện các yếu tố của
lực lượng sản xuất:
Chính sách giáo dục và y tế, tiền lương… liên quan đến các yếu tố thể chất, trí tuệ
của nguồn nhân lực xã hội. Hiện nay, lực lượng lao động khu vực nông thôn chiếm
khoảng trên 70% dân số và lao động, nhưng chất lượng lao động còn rất hạn chế cả
về thể lực lẫn trình độ. Những lao động có trình độ vốn xuất phát từ nông thôn không
muốn trở lại quê hương để đóng góp trí tuệ phát triển nông thôn… Không thể đưa
công nghệ tiên tiến (công cụ, vốn…) về nông thôn một cách ồ ạt để “hiện đại hoá”
kinh tế nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng khi chưa có sự chuẩn bị chu
đáo về con người. Nếu có đưa công nghệ kỹ thuật mới vào nông nghiệp và nông thôn
thì người nông dân cũng không đủ kiến thức cơ bản để áp dụng. Thực trạng đó dẫn
đến một nghịch lý: một quốc gia như Việt Nam có lực lượng lao động trẻ, được đánh
giá là “nhanh nhẹn, khéo tay, học giỏi” trong các trường đại học, nhưng lại không
đáp ứng được nhu cầu lao động ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Không đáp ứng được không phải vì số lượng, mà vì tay nghề, kỹ năng, kỷ luật
tác phong yếu.

Sự bất cập đó diễn ra không chỉ ở lĩnh vực sản xuất xã hội thuộc hạ tầng cơ sở, mà
còn phổ biến cả ở yếu tố nhân lực thuộc thượng tầng kiến trúc - đội ngũ lao động trí
óc - quản lý.
Một thực tế khác là sự thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng lao động trong nhóm lao


động quản lý sản xuất trong các doanh nghiệp. Ngoài các lý do khác, tâm lý ỷ lạivà
trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước trong toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất
còn rất lớn đã phần nào làm suy giảm tính cạnh tranh và sáng tạo của những doanh
nhân trong các doanh nghiệp. Đội ngũ này đã và đang là một thành phần, bộ phận đặc
biệt quan trọng trong lực lượng sản xuất của xã hội, chứ không phải chỉ những người
“cầm búa hay cầm cày” mới là thành phần của lực lượng sản xuất xã hội!
Hiện nay, theo chúng tôi, chính sách phát triển khoa học và công nghệ phải hướng
tới nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất. Các chính sách về môi trường bảo đảm
phát triển toàn diện các yếu tố con người (sức khoẻ cộng đồng) và phát triển bền
vững.
Trình độ kinh tế - xã hội và trình độ của nguồn nhân lực - lực lượng sản xuất xã hội
luôn có mối quan hệ biện chứng: trình độ xản xuất xã hội thấp không thể “sản sinh”
ra đội ngũ lao động có trình độ nghề nghiệp, tay nghề cao; ngược lại, đội ngũ lao
động có trình độ thấp không thể làm thay đổi được tình trạng thấp kém của lực lượng
sản xuất. Tuy nhiên, xét theo quan hệ các yếu tố khách quan và chủ quan, có thể tìm
kiếm sự tác động năng động, tích cực chủ quan của con người với tính cách vừa là
chủ thể, vừa là đối tượng nhận thức lực lượng sản xuất.
Con người phải tự nhận thức chính bản thân để hoàn thiện mình thích hợp với hoàn
cảnh, môi trường và chính nhu cầu thực tại của mình. Nhưng với nhiều lý do khác
nhau, con người được tập hợp lại thành những nhóm, cộng đồng - những thành tố
của loài người với sự xuất hiện, phân bố không giống nhau về lịch sử, địa lý, điều
kiện (tự nhiên, chính trị xã hội…).
Với cách tiếp cận như vậy, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Việt
Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức đối vối sự phát triển liên quan trực

tiếp tới các yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội. Từ vị trí chủ thể nhận thức, chúng
ta thấy rằng, trong lực lượng sản xuất hiện nay, nổi lên mấy vấn đề đáng quan tâm:
Về yếu tố con người, Việt Nam là quốc gia có tiềm lực dân cư hùng hậu tham gia vào
thành phần trọng yếu của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, con người cần có các tố
chất tự nhiên - xã hội cần thiết, như thể lực, trí lực và năng lực… để tham gia trực
tiếp và có hiệu quả vào quá trình sản xuất xã hội cũng như tái sản xuất sức lao động
xã hội. Theo tiêu chí đó, Việt Nam hiện đang có sự bất cập trong chính sách phát


triển nguồn lực như đã nêu ở trên.
Các nguồn lực vật chất khác trong nước cũng không phải là vấn đề dễ giải
quyết. Một là, Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia nông nghiệp với mật độ dân cư cao
vào bậc nhất thế giới, diện tích đất canh tác rất hạn chế nhưng lại đang ngày càng bị
cạn kiệt về lượng, suy giảm về chất lượng, đã thiếu hụt vô hình (về chất lượng), lại
còn bị thiếu hụt hữu hình (về số lượng) do quá trình đô thị hoá mạnh mẽ. Chúng
ngày càng bị thoái hoá, ảnh hưởng đến năng xuất cây trồng mà nguyên nhân phần
lớn lại không phải “do trời” mà là “do người” trong quá trình khai thác.
Hai là, các nguồn lợi tự nhiên khác cũng đang đứng trước nguy cơ bị suy giảm về
chất lượng và thu hẹp về số lượng: Rừng ngày càng cạn kiệt do mất cân đối giữa khai
thác và bảo vệ, nguồn nước ngày càng ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và
đời sống, khoáng sản vốn đã khó tìm kiếm, nhưng việc tổ chức khai thác lại không
có kế hoạch, không bảo đảm yêu cầu môi trường…
Do vậy, nhận thức đúng đắn và từ đó, có những biện pháp nâng cao chất lượng các
yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.
Ba là, đã có dấu hiệu thể hiện sự mất cân đối của sản xuất xã hội: những sản phẩm
tiêu dùng lấn át sản phẩm phục vụ hoạt động sản xuất: ôtô nhiều hơn máy kéo, nhà
máy sản xuất ra thép đổi mới chậm, khai thác được dầu thô nhưng không đủ trình độ
tạo ra các sản phẩm từ dầu… Như vậy, việc sản xuất những công cụ lao động để phát
triển lực lượng sản xuất xã hội phải chăng đã mất vị trí ưu tiên so với sản phẩm tiêu
dùng, đành rằng nhận thức mới về sự phân công lao động có tính toàn cầu là chức

năng quan trọng của những nhà hoạch định chính sách?
Sự phân tích trên đây cho thấy:
Thứ nhất, cần sớm nhận thức sự nguy hại của việc lãng phí tài nguyên, tự gây ra các
thảm hoạ về môi trường trong tương lai, lãng phí các nguồn lực; từ đó, chủ động xây
dựng những chính sách đón đầu (kế hoạch hoá), có thể chế mạnh với hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh và chế tài dân chủ.
- Thứ hai, phải nhạy bén, cẩn trọng nhưng không để lỡ thời cơ trong việc thiết lập
quan hệ quốc tế (quan hệ quốc tế luôn là quan hệ hướng tới việc tìm ra lợi thế cho
mình). Hội nhập là một xu thế có tính quy luật. Nhưng, xét đến cùng, nó có nguyên
nhân từ sự phát triển bùng nổ của các yếu tố lực lượng sản xuất, nhất là sức mạnh kết


nối các quá trình xã hội qua công nghệ thông tin - điều mà thời vào mình, C.Mác mới
chỉ phác hoạ những phỏng đoán có tính quy luật.
- Thứ ba, đẩy mạnh việc tìm kiếm và trọng dụng người tài đi đôi với hoàn thiện đạo
đức, lối sống là vấn đề hệ trọng trong điều kiện chúng ta còn nghèo và xã hội lại có
nhiều yếu tố nhạy cảm về kinh tế, chính trị, văn hoá và truyền thống….
Thứ tư, việc nhận thức triết học Mác không thể rập khuôn, giáo điều, (điều mà C.Mác,
Ph.Ăngghen đã dự liệu có thể xẩy ra), trái lại, cần có sự bổ sung, làm mới những luận
điểm căn bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cho phù hợp với thực tiễn hiện
đang biến chuyển như vũ bão nhằm làm cho triết học chính trị và triết học xã hội đóng
vai trò quan trọng, góp phần đổi mới đời sống, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội bền vững.
Những yếu tố phân tích trên đây là những yếu tố cơ bản trong cấu trúc của lực lượng sản
xuất xã hội trong điều kiện Việt Nam.
Vận dụng học thuyết Mác vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta nhằm hoàn thiện các yếu
tố của lực lượng sản xuất với phương châm trên, theo chúng tôi, là rất cần thiết.
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú, Phó giám đốc Học viện Hành chính, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.




QUAN ĐIỂM DÂN SINH VÀ TRIẾT LÝ NHÂN SINH HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG HỮU TOÀN(*)
Trong bài viết này, tác giả đã luận giải và khẳng định cái làm nên giá trị tinh thần
lớn lao và có ý nghĩa cải tạo thực tiễn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan
điểm vì con người và giải phóng con người - quan điểm dân sinh thấm đượm chủ
nghĩa nhân đạo cao cả và tư tưởng nhân văn sâu sắc, là triết lý nhân sinh. Quan
điểm dân sinh đó, triết lý nhân sinh đó lấy thực tiễn cuộc sống làm điểm xuất phát,
lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu. Đó là quan điểm hành động, vì
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mỗi con người, cho dân tộc và cho cả cộng
đồng nhân loại mà hành động, là triết lý của cuộc sống, là đạo lý làm người, đạo lý


làm việc. Với Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ gắn liền với độc
lập dân tộc, mà còn là con đường, phương thức để giữ vững độc lập dân tộc, thực
hiện dân sinh và an sinh xã hội.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định rõ, Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Và, lần đầu tiên, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta chính thức khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”(1).
Khẳng định giá trị và ý nghĩa lớn lao của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong Tư tưởng Hồ
Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho
rằng, sở dĩ tư tưởng Hồ Chí Minh là “linh hồn”, là “ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt

Nam”, là “lương tâm của thời đại”, có sức sống trường tồn, có ảnh hưởng sâu sắc đến
tư tưởng, tình cảm của nhân dân Việt Nam và của nhân dân nhiều dân tộc trên thế
giới, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chính là vì tư tưởng của Người đã kế
thừa những giá trị tư tưởng, văn hóa “vĩnh cửu” của nhân loại, thấm đượm chủ nghĩa
nhân văn cao cả và đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng cháy bỏng và sâu xa của
dân tộc và nhân loại. Rằng, không chỉ thế, cả cuộc đời hoạt động cách mạng không
mệt mỏi của Người còn là một tấm gương sáng ngời, một biểu hiện tiêu biểu cho chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản(2).
Tại Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tham luận Chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - đặc điểm và cội nguồn, Giáo sư Trần Văn Giầu đã
nói: “Cho phép tôi hiểu rằng tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc chắn ở chỗ giải đáp
mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực tại hay là ảo
ảnh, khả tri hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng tạo mới lạ,
mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật đang phải sống trên
quả đất này và chắc chắn còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm
của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó…”(3).


Thật vậy, cái làm nên giá trị tinh thần lớn lao và mang ý nghĩa cải tạo thực tiễn sâu
sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm vì con người và giải phóng con người,
quan điểm dân sinh thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả, tư tưởng nhân văn sâu
sắc và triết lý nhân sinh mà Người đã dày công vun đắp. Hồ Chí Minh chưa một lần
dành riêng một tác phẩm, một bài viết hay một bài phát biểu để trình bày quan điểm
dân sinh, triết lý nhân sinh của Người. Quan điểm đó, triết lý đó ở Hồ Chí Minh
được toát ra, được thể hiện sinh động từ toàn bộ cuộc đời đấu tranh cách mạng không
mệt mỏi và từ cuộc sống hàng ngày rất đỗi người thường của Người. Quan điểm đó,
triết lý đó là sự kết tinh cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ
nhân, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là sự thể hiện tập trung quan
điểm dân sinh, triết lý nhân sinh của Người - suốt đời cống hiến hết mình cho sự

nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại;
đấu tranh không mệt mỏi để xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, mọi bất công, phi lý; giành
độc lập, tự do vì quyền được phát triển bình đẳng cho dân tộc, cho nhân loại; đem lại
cho mỗi con người, cho dân tộc và cho cả cộng đồng nhân loại cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc.
Quan điểm dân sinh đó, triết lý nhân sinh đó lấy thực tiễn cuộc sống làm điểm xuất
phát, lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu. Đó là quan điểm hành
động, vì cuộc sống con người mà hành động, là triết lý cuộc sống, là đạo lý làm
người, đạo lý làm việc. Ở Hồ Chí Minh, quan điểm dân sinh đó, triết lý nhân sinh đó
đã trở thành phương châm hành động và, như Người đã xác định rõ, “đầu tiên là
công việc đối với con người”(4), mọi công việc đều liên quan tới con người, hướng
vào phục vụ con người, làm cho con người được phát triển toàn diện với mọi năng
lực vốn có của nó, để con người được làm chủ, có tự do, có cuộc sống ấm no và hạnh
phúc. Hơn nữa, Người còn coi đó là công việc nhất thiết phải làm, dẫu khó khăn,
phức tạp đến mấy cũng phải ra sức làm.
Ở Hồ Chí Minh, quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh là sự gắn kết giữa chủ nghĩa
nhân đạo cao cả với tư tưởng nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa nhân đạo và
tư tưởng nhân văn ấy là truyền thống nhân ái, “thương người như thể thương thân”
của dân tộc Việt Nam kết hợp với truyền thống nhân ái trong các nền văn minh


phương Đông và phương Tây. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng
nhân văn ấy là lòng thương yêu, quý trọng con người gắn với lòng yêu nước, yêu dân
nồng nàn. Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và phát
triển con người toàn diện. Phương thức thực hiện chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng
nhân văn ấy là hành động, hoạt động thực tiễn cách mạng.
Thật vậy, được sinh ra và nuôi dưỡng bởi một đất nước, một dân tộc có truyền thống
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, có nền văn hóa nhân bản, mang giá trị
truyền thống và đượm bản sắc dân tộc, có khát vọng cháy bỏng về một cuộc sống tốt

đẹp, song lại phải hứng chịu nỗi bất công, vô nhân đạo do sự áp bức, bóc lột của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, với một tình cảm yêu thương, gắn bó máu thịt với gia đình,
quê hương, đất nước và một tâm hồn cao đẹp, nhạy cảm, một trí tuệ anh minh, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận ra nỗi đau của người dân mất nước, nỗi nhục của kiếp đời nô
lệ. Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc từ nỗi đau đời, thương người,
không cam chịu áp bức, bất công, từ những suy nghĩ mang tính nhân đạo, nhân văn
coi con người sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. Mục tiêu không bao giờ thay đổi ở Người là giải phóng dân tộc,
giải phóng con người, đem lại cho dân tộc quyền tự do, bình đẳng trong phát triển,
làm cho đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống trong
niềm vui hạnh phúc. Người nhiều lần khẳng định, ở Người chỉ có một mục đích duy
nhất – đó là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu nước, bản thân Hồ Chí Minh cũng
đã từng theo học đạo Nho từ nhỏ, tư tưởng nhân nghĩa của đạo Nho đã in đậm dấu ấn
trong tâm khảm của Người, trở thành một bộ phận cấu thành quan điểm dân sinh,
triết lý nhân sinh, chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ở Người. Song, khác với
nhiều nhà Nho đương thời, với thực tiễn cuộc sống đầy biến động mà Người từng
trải qua trong những năm tháng tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc,
bằng thực tiễn hoạt động cách mạng, với một trí tuệ anh minh và tầm nhìn xa, trông
rộng, Người đã sớm khắc phục, chế ngự tính hẹp hòi, thiển cận của cái nhìn dân tộc
để đi đến một quan niệm mới về tình hữu ái giai cấp, hướng tới những giá trị nhân
văn phổ quát.


Thấu hiểu hơn ai hết những giáo lý của đạo Phật, những chủ trương “từ bi, hỉ xả, cứu
khổ, cứu nạn”, “cứu nhân độ thế”, song với Hồ Chí Minh, những giáo lý đó, những
chủ trương ấy chỉ được coi là hữu ích khi chúng được sử dụng vào mục đích dân
sinh, an sinh xã hội, “cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn” và nhất là vào mục tiêu giải
phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc, “đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ”.
Hồ Chí Minh cũng biết đến những ước mơ, khát vọng vươn tới một xã hội cao đẹp

mà ở đó, con người được phát triển toàn diện và ngày một trở nên hoàn thiện với
cuộc sống ấm no, hạnh phúc ở đạo Thiên Chúa, biết đến chủ trương cứu vớt chúng
sinh của Chúa Giêsu. Song, với Người, khát vọng đó, chủ trương ấy trước hết phải vì
những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hòa bình và công lý, phải
nhằm mục đích cứu loài người khỏi ách nô lệ, đưa loài người đến hạnh phúc, bình
đẳng, bác ái, tự do và nhất là, đem lại an ninh cho cuộc sống của mỗi con người, an
sinh cho đời sống cả cộng đồng xã hội.
Hồ Chí Minh còn biết đến Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) và tỏ lòng ngưỡng mộ nhà
dân chủ cách mạng Trung Quốc nổi tiếng này bởi ý tưởng độc lập, tự do, hạnh phúc
của ông, bởi chủ nghĩa “tam dân” - dân tộc, dân quyền và dân sinh - mà ông đã đưa
ra với tư cách cương lĩnh chính trị nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, thành lập nền
cộng hòa và thủ tiêu tình trạng bất bình đẳng xã hội. Người đã tìm thấy nhiều điểm
tương đồng về tư tưởng, tìm ra “những điều thích hợp với nước ta” trong chủ nghĩa
“tam dân” của Tôn Dật Tiên để thực hiện quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh của
Người trong những điều kiện lịch sử - cụ thể ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng đã biết đến những giá trị đích thực trong tư tưởng nhân văn
phương Tây - đó là tự do, dân chủ, tiến bộ. Lấy những nội dung cốt lõi trong tư
tưởng nhân văn phương Tây, chắt lọc những giá trị đích thực của nó, khi trịnh trọng
tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã đưa vào các nội
dung tinh túy trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ, trong Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Dân chủ tư sản Pháp 1789 - 1794 để
khẳng định: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”; rằng “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó
là những lẽ phải không ai chối cãi được”(5). Cũng ở đây, cùng với khẳng định này,


Người còn nhấn mạnh “quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc” với tư cách “những quyền không ai có thể xâm phạm được” của mỗi người và
của mọi người. Điều khẳng định này, sự nhấn mạnh này, có thể nói, đã thể hiện rõ

quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh.
Nhận thức rõ những giá trị đích thực trong tư tưởng nhân văn phương Tây, Hồ Chí
Minh cũng sớm nhận ra những hạn chế ở nền tự do, dân chủ của nó, thấy rõ mặt trái
của quyền con người trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Với nhận thức đó, Người cho
rằng, con đường đến với tự do, dân chủ thực sự, đến với sự thực hiện an ninh cho
cuộc sống của mỗi con người, an sinh cho đời sống của cả cộng đồng xã hội chỉ có
thể là con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng – giải phóng con người,
giải phóng xã hội. Bởi lẽ, chỉ khi con người và xã hội thực sự được giải phóng thì an
ninh cho cuộc sống của mỗi con người mới được đảm bảo, an sinh cho đời sống của
cả cộng đồng xã hội mới được thực hiện và thực hiện một cách bền vững.
Từ những nhận thức sâu sắc ấy về tư tưởng nhân văn trong các nền văn hóa Đông -
Tây, từ đạo lý truyền thống của người Việt Nam, cộng với một trí tuệ anh minh, tầm
nhìn xa, trông rộng, lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác
- Lênin và tìm thấy ở đây cái “cẩm nang thần kỳ” cho con đường giải phóng dân tộc,
giải phóng con người và xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ xã hội vì cuộc sống
đích thực của con người, vì an ninh con người và an sinh xã hội. Người tiếp thu ở
chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng nhân đạo nhất về CON NGƯỜI với chữ viết hoa - tư
tưởng vì cuộc sống hiện thực của con người, cuộc sống mà ở đó, an ninh con người
của con người được đảm bảo và do vậy, an sinh xã hội của cả cộng đồng xã hội được
thực hiện bền vững; tư tưởng vì tự do, dân chủ, hạnh phúc và tiến bộ thực sự cho mỗi
con người và cho tất cả mọi người.
Hồ Chí Minh đón nhận ở chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng nhân văn sâu sắc nhất, chủ
nghĩa nhân đạo cao cả nhất không phải theo lối “tầm chương trích cú”, áp dụng
nguyên xi, rập khuôn giáo điều. Người lấy ở đó cái nội dung cốt yếu nhất trong thế
giới quan duy vật, phương pháp luận biện chứng, khoa học, nhân sinh quan cộng sản
chủ nghĩa và coi đó là ánh sáng kỳ diệu, “ngọn đuốc soi đường cho quốc dân đi”, cho
chính tư tưởng và hành động của mình nhằm thực hiện quan điểm dân sinh, triết lý
nhân sinh mà Người đã hình thành, thực thi chủ nghĩa nhân đạo, tư tưởng nhân văn



để mang lại an ninh con người cho nhân dân mình, an sinh xã hội cho đất nước mình,
quê hương mình, Tổ quốc mình.

Với tư tưởng hiện thực đó, quan điểm dân sinh và triết lý nhân sinh ở Hồ Chí Minh
đã trở thành quan điểm, triết lý vì cuộc sống ngày một cao đẹp cho mỗi con người và
cho cả cộng đồng xã hội mà hành động, vì an ninh con người, vì an sinh xã hội mà
hành động. Theo Người, con người không thể mưu cầu hạnh phúc bằng cách ngồi yên
trông đợi sự ban phát từ đâu đó ở bên ngoài, mà phải bắt tay hành động, tiến hành
hoạt động thực tiễn để tự mình giành lấy hạnh phúc cho mình, cho mọi người. Chỉ có
hành động, hoạt động thực tiễn, con người mới có thể cải tạo được thế giới, cải tạo và
thực hiện tiến bộ xã hội, cải tạo, phát triển và hoàn thiện chính bản thân mình, thực
hiện được mục đích, ước mơ và lý tưởng của mình. Với Người, chủ nghĩa nhân đạo,
tư tưởng nhân văn phải được thể hiện thành hành động thiết thực, thành hoạt động
thực tiễn cách mạng theo quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh hành động. Bởi lẽ,
theo Người, thực hành là nền tảng của lý luận và lý luận lại phụng sự thực hành. Chỉ
có thực hành mới là tiêu chuẩn của sự thật. “Chỉ có thực hành mới là mực thước đúng
nhất cho sự hiểu biết của người về thế giới. Chỉ do quá trình thực hành (quá trình sản
xuất vật chất, giai cấp đấu tranh, khoa học thực nghiệm), người ta mới đạt được kết
quả đã dự tính trong tư tưởng, và lúc đó sự hiểu biết mới được chứng thực”(6).
Biến quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh thành hành động, thành thực tiễn cách
mạng, trong suốt cuộc đời đấu tranh cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã tiến hành
đấu tranh không mệt mỏi, cống hiến không tiếc sức mình cho độc lập dân tộc, cho
hạnh phúc của nhân dân. Ngay cả khi phải từ biệt thế giới này theo quy luật sinh tồn,
Người vẫn lấy làm tiếc vì không còn được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn
nữa. Suốt đời phục vụ, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, nhưng với bản thân Người,
Người không hề đòi hỏi bất cứ điều gì cho riêng mình. Không chỉ thế, với quan điểm
dân sinh, triết lý nhân sinh đã trở thành phương châm sống “sống ở đời và làm người”
theo nghĩa yêu nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức, trước khi qua
đời, Người vẫn không quên căn dặn Đảng và Chính phủ phải lấy “công việc đối
với con người” làm công việc hàng đầu, coi đó là công việc “đầu tiên” cần phải làm,

nhất thiết phải làm, ra sức mà làm.


Theo lời căn dặn đó, đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu
của họ trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng và Chính phủ
phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, phải mở những lớp dạy nghề
thích hợp cho họ để họ có được hành trang cần thiết bước vào cuộc sống tự lập, tự lực
cánh sinh. Đối với những người đã anh dũng hy sinh, mỗi địa phương cần xây dựng
vườn hoặc bia kỷ niệm để mãi mãi ghi nhớ công lao của họ, để đời đời giáo dục tinh
thần yêu nước cho nhân dân ta. Khi gia đình, người thân của họ thiếu sức lao động,
gặp khó khăn, chính quyền địa phương cần phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích
hợp, “quyết không để họ bị đói rét”. Đối với những người còn trẻ, có nhiều cống hiến
trong các lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong, Đảng và Chính phủ cần chọn
một số người ưu tú nhất để đào tạo họ thành những người lao động có trình độ chuyên
môn, kỹ thuật giỏi, có tư tưởng, lập trường cách mạng vững vàng và lấy đó làm đội
quân chủ lực trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Đối với phụ nữ, Đảng và Chính
phủ cần phải có kế hoạch bồi dưỡng, cất nhắc, giúp họ tiến bộ, trở thành những người
lãnh đạo và đem lại quyền bình đẳng thực sự cho họ. Đối với những nạn nhân của chế
độ xã hội cũ, Đảng và Chính phủ cần kết hợp giáo dục với sử dụng luật pháp để cải
tạo, giúp đỡ họ trở thành những người lao động lương thiện. Đối với nông dân, Đảng
và Chính phủ cần có kế hoạch thực hiện miễn thuế nông nghiệp một năm cho họ để
“đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”, v.v.(7).
Có thể nói, đó là một chính sách xã hội chu đáo, toàn diện đối với con người mà trước
lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã đề xuất và yêu cầu Đảng, Chính phủ “cần phải động viên
toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(8) mà
thực hiện nhằm mang lại an ninh cho cuộc sống của mỗi con người, an sinh cho đời
sống của cả cộng đồng xã hội. Nếu không xuất phát từ quan điểm dân sinh, triết lý
nhân sinh sâu sắc, thấm đượm tư tưởng nhân đạo và tính nhân văn, Người đã không
thể đề xuất được một chính sách xã hội chu đáo, toàn diện đến như vậy đối với con
người. Chính sách xã hội này càng cho thấy tư tưởng vì con người của Người quả là

xưa nay hiếm.
Với Hồ Chí Minh, cái quý giá nhất không chỉ là con người - “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân”(9), mà còn là độc lập và tự do - “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”(10). Với Người, độc lập và tự do không chỉ là cái quý giá nhất, mà còn là chân lý


- cái chân lý mà cả nhân loại đều hướng tới. Độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân là khát vọng suốt đời của Người. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(11). Chính tư
tưởng độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân này đã cấu thành quan điểm
dân sinh, triết lý nhân sinh, tạo nên bản chất cao quý trong chủ nghĩa nhân đạo, tư
tưởng nhân văn của Người; trở thành ngọn cờ đấu tranh, mục tiêu suốt đời hy sinh
cống hiến, lý tưởng suốt đời phấn đấu của Người. Và, với Người, để dân tộc được độc
lập, mọi người dân được tự do, hạnh phúc, không có con đường nào khác ngoài con
đường giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi đó là cái tiên quyết đem
đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân chủ và tiến bộ cho dân tộc và nhân dân Việt
Nam. Xuất phát từ quan niệm đó, Người cho rằng, mục tiêu số một khi đất nước đang
chìm đắm trong ách nô lệ là giải phóng dân tộc; còn khi đất nước đã được độc lập,
nhân dân đã được tự do thì mục tiêu hàng đầu, nhiệm vụ trung tâm là xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội, với Hồ Chí Minh, không chỉ gắn liền với độc lập dân tộc,
là con đường, cách thức để giữ vững độc lập dân tộc, mà còn là con đường, cách thức
để thực hiện dân sinh, an sinh xã hội. Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội, trong quan niệm của
Người, là chế độ xã hội trước hết làm cho nhân dân lao động có công ăn việc làm ổn
định, “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì
giàu thêm”(12), nghĩa là mọi người ai cũng có được cuộc sống ngày một đầy đủ, ấm
no và hạnh phúc. Và, đó là một xã hội mới, công bằng, nhân đạo và tốt đẹp, có mục
tiêu cụ thể là dân giầu, nước mạnh, xã hội văn minh, con người hạnh phúc. Mục tiêu
nhân văn đó được Người nói một cách đơn giản và dễ hiểu là không ngừng nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là cho quần chúng nhân dân lao
động. Với quan niệm như vậy về chủ nghĩa xã hội, Người đã khẳng định: “Điều quan
trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện đời
sống của nhân dân”(13); và “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế
và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(14).
Khẳng định đó càng cho thấy rõ, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội
trước hết phải là xã hội vì con người, đem lại cho con người bản chất Người đích


thực; và ở đó, không chỉ dân sinh, mà cả an sinh xã hội được thực hiện và đảm bảo
bền vững. Chỉ với một quan điểm dân sinh, một triết lý nhân sinh hành động, thấm
đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả và tư tưởng nhân văn sâu sắc, Người mới có được
quan niệm như vậy về chủ nghĩa xã hội, về mục tiêu nhân đạo, nhân văn của chủ
nghĩa xã hội. Và, chính quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh đó đã tạo nên ở Người
niềm tin tất thắng vào thắng lợi cuối cùng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên đất nước Việt Nam chúng ta. Với quan điểm dân sinh và triết lý nhân sinh đó,
trước khi trở về cõi vĩnh hằng, Người vẫn tin rằng, chỉ cần còn non, còn nước, còn
người thì công cuộc xây dựng xã hội mới - một “cuộc chiến đấu khổng lồ” chống lại
“những gì đã cũ kỹ, hư hỏng” để tạo ra “những cái mới mẻ, tốt tươi”, dù “rất to lớn,
nặng nề, và phức tạp”, song thắng lợi là điều chắc chắn(15).
Niềm tin vững chắc đó ở Hồ Chí Minh, chắc chắn là đã được hình thành từ quan điểm
dân sinh, triết lý nhân sinh thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn mà
Người đã dày công vun đắp trong suốt cuộc đời hoạt động và đấu tranh cách mạng -
quan điểm dân sinh, triết lý nhân sinh hành động: động viên, tổ chức và giáo dục toàn
dân hành động, dựa vào dân mà hành động và vì dân mà hành động.
Sau hơn hai mươi năm đổi mới đất nước trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với những thành công rất đáng tự hào, nhất là trước
những biến động khó lường của cuộc khủng hoảng tài chính, năng lượng, biến đổi khí
hậu, an ninh lương thực, an toàn thực phẩm đang có xu hướng lan rộng và những
thách thức nghiêm trọng cho ổn định và phát triển kinh tế của hầu hết các nước trên

thế giới và khi vấn đề giữ vững ổn định tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề dân
sinh, an sinh xã hội, đảm bảo đời sống cho người lao động đang trở thành mối quan
tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, việc chúng ta cùng nhau nhắc lại quan điểm
dân sinh và triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh, thiết nghĩ, có ý nghĩa thiết thực và bổ ích.
Hơn nữa, giờ đây, việc chúng ta cùng nhau nhắc lại quan điểm dân sinh và triết lý
nhân sinh Hồ Chí Minh với tư cách quan điểm, triết lý gắn kết chủ nghĩa nhân đạo cao
cả với tư tưởng nhân văn sâu sắc, gắn kết độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, lấy
thực tiễn làm điểm xuất phát, lấy việc quan tâm đến đời sống con người, giải phóng và
phát triển con người làm mục tiêu không chỉ có ý nghĩa thiết thực và bổ ích, mà còn là
cần thiết để góp phần khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và mãi mãi là tài sản


tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta trên con đường đổi mới, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội văn minh, con người được
giải phóng, được phát triển, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc bền vững./.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83.
(2) Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.229.
(3) Hội thảo Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa
lớn. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.287.
(4) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.503.
(5)Hồ ChíMinh. Sđd., t.4,tr.1.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr.248 - 249.
(7) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.503 - 505.
(8) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.505.
(9) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.276.
(10) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.108.

(11) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.161.
(12) Xem:HồChíMinh. Sđd., t.5,tr.65.
(13) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.157.
(14)Xem:HồChíMinh. Sđd., t.12,tr.498.
(15) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.505.


TÔN TRUNG SƠN GIẢI THÍCH “CHỦ NGHĨA XÃ H
ỘI” THÀNH “CHỦ
NGHĨA DÂN SINH” NHƯ THẾ NÀO?

TRƯƠNG CHÍ CƯỜNG(*)
Sau khi Liên Xô giải thể và cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc cách mạng xã hội


chủ nghĩa đã được thay thế bởi làn sóng toàn cầu hoá trên phạm vi thế giới. Trong
thời điểm lịch sử này, đòi hỏi bức thiết đặt ra là phải truy tìm đến tận cùng để làm rõ
rằng, trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, rốt cuộc chủ nghĩa xã hội cần tồn tại và
duy trì dưới hình thức nào mới có thể giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ với
chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu. Ở mức độ nào đó, vấn đề này đã từng được
Tôn Trung Sơn trả lời bằng những lý luận và thực tiễn của việc lấy chủ nghĩa xã hội
làm ngọn cờ cách mạng dân chủ ở châu Á. Cách suy nghĩ này có thể giúp chúng ta
tiến thêm một bước trong việc xử lý mối quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội, hoặc đưa ra một điểm nhìn lịch sử.

1. Năm 1912, sau Cách mạng Tân Hợi không lâu, V.I.Lênin sau khi đọc qua bàiÝ
nghĩa của cách mạng Trung Quốc của Tôn Trung Sơn đăng trên báo Nhân dân đã có
bài viết nổi tiếng: Chủ nghĩa dân tuý và chủ nghĩa dân chủ ở Trung Quốc. Trong bài
viết này, V.I.Lênin, một mặt, khen ngợi cương lĩnh cách mạng của Tôn Trung Sơn là
“chủ nghĩa dân chủ chiến đấu, trung thành”; mặt khác, chỉ ra một cách sắc bén những

yếu tố làm nên tính không tưởng của chủ nghĩa xã hội và tính cấp tiến của chủ nghĩa
dân tuý. Chính vì áp dụng cách xem xét biện chứng nên V.I.Lênin mới có thể thấy
được trong Cương lĩnh của Tôn Trung Sơn đã thể hiện “chủ nghĩa không tưởng và
chủ nghĩa dân tuý”, chẳng hạn như việc cho rằng Trung Quốc đang ở vào đêm trước
của giai đoạn công nghiệp phát triển rầm rộ, hay cho rằng thương nghiệp Trung Quốc
cũng sẽ phát triển nhanh chóng. Nói “Năm mươi năm sau Trung Quốc sẽ xuất hiện rất
nhiều Thượng Hải” cũng có nghĩa là chủ nghĩa xã hội mang “tính không tưởng”, “tính
chủ quan” đó và chủ nghĩa dân tuý mang tính cấp tiến mới có khả năng “bảo đảm cho
sự phát triển nhanh chóng nhất của chủ nghĩa tư bản”(1).
Gần 30 năm sau, năm 1940, trong Luận về chủ nghĩa dân chủ mới, Mao Trạch Đông
đã chỉ rõ, cách mạng của chủ nghĩa dân chủ mới, một mặt, giống như cách mạng của
chủ nghĩa dân chủ cũ, “về cơ bản vẫn là chủ nghĩa dân chủ của giai cấp tư sản, yêu
cầu khách quan của nó là dọn sạch đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản”; mặt khác, hai loại cách mạng này về bản chất không giống nhau, giai cấp lãnh
đạo cách mạng không giống nhau, giai cấp vô sản mới đã thay thế giai cấp tư sản cũ.
Đồng thời, mục tiêu cũng không còn là xây dựng xã hội tư bản chủ nghĩa và chuyên


chính giai cấp tư sản, mà là “xây dựng xã hội chủ nghĩa dân chủ mới và xây dựng
liên hợp chuyên chính các giai cấp cách mạng”; do đó, cũng chính là “dọn sạch sẽ
con đường lớn vì sự phát triển của xã hội chủ nghĩa”(2). Trên phương diện kinh tế
của chủ nghĩa dân chủ mới, trong khi chịu ảnh hưởng của cái mà V.I.Lênin gọi là
“chủ nghĩa dân tuý và không tưởng”- thực chất là “tiết chế tư bản” và “bình quân địa
quyền” - Mao Trạch Đông đã lấy đó làm phương châm chỉ đạo cho lĩnh vực kinh tế
của chủ nghĩa dân chủ mới.
Cả V.I.Lênin lẫn Mao Trạch Đông đều đứng trên lập trường cách mạng thế giới để
xem xét mục tiêu và tính chất của cách mạng Trung Quốc. Các ông cho rằng, thực
tiễn cách mạng mà Tôn Trung Sơn đã tiến hành dưới khẩu hiệu của chủ nghĩa xã hội
là một bộ phận của cuộc cách mạng tư sản trên phạm vi thế giới, còn chủ nghĩa dân
chủ mới đã trở thành một bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Bất

luận là cách mạng dân chủ mới hay cũ thì, về cơ bản, đều cấu thành nên một giai
đoạn có tính tiền đề không thể thiếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ nó có thể
đóng vai trò như một giai đoạn như vậy là vì thông qua sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản, nó tạo điều kiện sáng tạo cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Từ sau những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, khi Liên Xô giải thể và cuộc chiến
tranh lạnh kết thúc, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi thế giới đã được
thay thế bởi làn sóng hiện đại hoá. Xem xét ở góc độ bề ngoài, lịch sử cách mạng thế
giới có vẻ như một lần nữa cần xuất phát từ chỉnh thể để bổ sung lại lịch trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản đã từng bị dừng lại. Trong thời điểm lịch sử này, đòi hỏi
bức thiết của chúng ta là phải truy tìm đến tận cùng câu trả lời cho câu hỏi: trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay, chủ nghĩa xã hội rốt cuộc nên tồn tại và duy trì dưới hình
thức nào mới có thể giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ với chủ nghĩa tư bản
trên phạm vi toàn cầu. Với ý nghĩa như vậy, câu hỏi đó đã từng được Tôn Trung Sơn
trả lời bằng những lý luận và thực tiễn của việc lấy chủ nghĩa xã hội làm ngọn cờ
cách mạng dân chủ ở châu Á, do mối quan hệ biện chứng phức tạp giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản mà có vẻ như chứa đựng tính tất yếu của việc tiếp tục tìm
hiểu ý nghĩa lý luận và ý nghĩa lịch sử của nó. Cách suy nghĩ này có thể giúp chúng
ta tiến thêm một bước trong việc xử lý mối quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội, hoặc đưa ra một điểm nhìn lịch sử.


Trong lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng của Tôn Trung Sơn, chủ nghĩa dân
sinh chiếm một vị trí quan trọng, là “toàn bộ của những cái tồn tại, là trung tâm của
tất thảy các vấn đề”(3) trong hoạt động lý luận và thực tiễn của ông. Ông nói, “chủ
nghĩa dân sinh chính là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa đại đồng”,
hoặc “chủ nghĩa cộng sản là lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân sinh là sự
thực hành của chủ nghĩa cộng sản”(4). Sự tương đồng giữa chủ nghĩa dân sinh với
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn không phải là sự tương đồng đơn
giản về mặt từ ngữ, Ông nói: “tại sao hôm nay tôi không học ngoại ngữ để có thể
trực tiếp giảng về chủ nghĩa xã hội, mà lại cần phải lấy từ dân sinh - danh từ cổ của

Trung Quốc để thay thế cho chủ nghĩa xã hội? Điều này rất có lý, chúng ta nên
nghiên cứu”. Tôn Trung Sơn đã lợi dụng danh từ cổ này để thay thế chủ nghĩa xã
hội, trên thực tế là thông qua chủ nghĩa xã hội để giải thích chủ nghĩa dân sinh, để
xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội của chính mình, một loại lý luận về chủ nghĩa
xã hội của chủ nghĩa dân sinh. Thậm chí, chúng ta có thể nói, chủ nghĩa dân sinh
chính là một loại lý luận về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Lý luận về
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa dân sinh có sự tương đồng và khác biệt so với lý luận
về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác, đó chính là hạt nhân cốt lõi trong lý luận của
Tôn Trung Sơn. Chúng ta có thể phân tích một cách kỹ lưỡng, sâu sắc quá trình lý luận
của Tôn Trung Sơn khi ông lý giải chủ nghĩa xã hội như là chủ nghĩa dân sinh, hoặc có
thể đưa ra những lý giải mới đối với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay.
2. Theo định nghĩa trên của Tôn Trung Sơn, chủ nghĩa dân sinh chính là một kiểu
chủ nghĩa xã hội. Vậy, chủ nghĩa dân sinh này có mối quan hệ như thế nào với chủ
nghĩa xã hội theo quan điểm của C.Mác và cái làm nên tính đặc biệt của chủ nghĩa xã
hội dân sinh nằm ở đâu? Nói cách khác, thông qua chủ nghĩa dân sinh để nói về chủ
nghĩa xã hội có tính chất lý luận như thế nào? Trả lời cho những câu hỏi này, trên
thực tế đều phải xem Tôn Trung Sơn rốt cuộc giải thích về chủ nghĩa xã hội và nói
về vấn đề chủ nghĩa dân sinh như thế nào. Thực chất vấn đề này chính là chủ nghĩa
xã hội, đặc biệt là vấn đề về mối quan hệ giữa chủ nghĩa dân sinh và chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm của C.Mác. Nói chính xác hơn, Tôn Trung Sơn đã lý giải như thế nào
về chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của C.Mác, đồng thời tăng cường thêm sự so
sánh giữa nó và chủ nghĩa dân sinh.


Trong Chủ nghĩa tam dân, vấn đề “chủ nghĩa dân sinh” đã được Tôn Trung Sơn diễn
giải nhiều lần, thể hiện rất rõ rằng, chủ nghĩa dân sinh và chủ nghĩa xã hội đều nhất
trí hoàn toàn ở mục đích, “mục đích chính là cần phải chia bình quân nguồn của cải
của xã hội. Do đó, chủ nghĩa dân sinh chính là chủ nghĩa xã hội, cũng chính là chủ
nghĩa cộng sản”(5). Đó chính là việc cần phải giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội do sự
chênh lệch giàu nghèo đem lại. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa dân sinh của Tôn Trung

Sơn, giống như chủ nghĩa xã hội của C.Mác, được nảy sinh từ bối cảnh xã hội sau
cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu. Mục đích của chúng đều nhằm giải quyết
vấn đề đối kháng giai cấp và sự chênh lệch giàu nghèo giữa người công nhân và nhà
tư sản do sự phát triển một cách rầm rộ và vô giới hạn của công nghiệp cơ khí đem lại.
Nhưng, đối với Tôn Trung Sơn, vấn đề xã hội sau cuộc cách mạng công nghiệp, trên
thực tế lại hoàn toàn không phải là vấn đề chủ yếu của xã hội Trung Quốc. Do đó, lý
luận về chủ nghĩa dân sinh của ông hoàn toàn không chỉ là giải quyết các vấn đề xã
hội, mà còn là phòng tránh, ngăn chặn các vấn đề xã hội xuất hiện ở Trung Quốc.
Trong khi ngăn chặn sự phát sinh của các vấn đề xã hội, đồng thời từ đó giải quyết một
cách tận gốc các vấn đề xã hội nảy sinh, Tôn Trung Sơn đã xác lập quan điểm của
mình về chủ nghĩa xã hội và đó chính là hạt nhân trong chủ nghĩa dân sinh của ông.
Liên quan đến phương diện lý giải nguồn gốc nảy sinh các vấn đề xã hội, Tôn Trung
Sơn cho rằng, sự lý giải của ông và C.Mác có sự khác biệt. Sự khác biệt này có thể
khái quát là sự khác biệt về quan điểm lịch sử, sự không giống nhau giữa quan điểm
duy vật lịch sử và quan điểm lịch sử về vấn đề dân sinh. Căn cứ vào sự lý giải của
ông về quan điểm duy vật lịch sử, sự phân tích của C.Mác đối với nguồn gốc các vấn
đề xã hội, lấy sự lý giải về vật chất làm trọng tâm của lịch sử, do đó lấy sự lý giải về
sản xuất làm trung tâm của tiến hoá xã hội và lấy sự lý giải về đấu tranh giai cấp làm
động lực cho sự tiến hoá xã hội. Ngược lại, quan điểm lịch sử về vấn đề dân sinh của
Tôn Trung Sơn lại không giống như vậy. Đối với ông, vấn đề “dân sinh” chính là vấn
đề sinh tồn của con người. Ông viết: “Toàn bộ nhân loại từ xưa đến nay sở dĩ cần
phải nỗ lực, chính là vì nhu cầu sinh tồn; nhân loại vì cần phải có sự sinh tồn không
ngừng, do đó xã hội mới có sự tiến hoá liên tục. Định luật tiến hoá xã hội là việc
nhân loại mưu cầu sự sinh tồn. Nhân loại mưu cầu sự sinh tồn, đó mới là nguyên
nhân của tiến hoá xã hội. Đấu tranh giai cấp không phải là nguyên nhân của tiến hoá


xã hội, đấu tranh giai cấp là một căn bệnh xuất hiện khi xã hội đang trong quá trình
tiến hoá. Nguyên nhân của căn bệnh này chính là việc nhân loại không thể sinh tồn.
Vì nhân loại không thể sinh tồn, do đó kết quả của căn bệnh này biến thành chiến

tranh. C.Mác rất tâm đắc đối với việc nghiên cứu các vấn đề của xã hội, nhưng lại
chỉ thấy được những khuyết điểm của sự tiến hoá xã hội mà không thấy được nguyên
lý của sự tiến hoá xã hội. Do đó, chỉ có thể nói C.Mác là một nhà ‘bệnh lý xã hội’,
không thể nói là một nhà “sinh lý xã hội””(6).
Lấy vấn đề sự sinh tồn của con người (tức là vấn đề dân sinh) làm trung tâm của lịch
sử có nghĩa là thoả mãn nhu cầu phân phối và tiêu dùng, coi đó là trung tâm của lịch
sử, là mục tiêu của quá trình sản xuất vật chất, chứ không phải là lấy quá trình sản
xuất vật chất làm mục tiêu và trung tâm của lịch sử.
Xuất phát từ quan điểm lịch sử về vấn đề dân sinh, phương pháp giải quyết các vấn
đề xã hội không song hành với mâu thuẫn giai cấp do quá trình sản xuất một cách
quá mức đem lại. Đối với Tôn Trung Sơn, “xã hội sở dĩ có thể tiến hoá được là do sự
điều hoà vấn đề lợi ích kinh tế của đại đa số trong xã hội, không phải là sự xung đột
lợi ích kinh tế của đại đa số trong xã hội. Điều hoà vấn đề lợi ích kinh tế của đại đa
số trong xã hội chính là đại đa số mưu cầu lợi ích. Đại đa số có lợi ích thì xã hội mới
có thể tiến bộ được. Nguyên nhân của việc điều hoà lợi ích kinh tế của đại đa số
trong xã hội chính là vì cần phải giải quyết vấn đề sinh tồn của nhân loại”(7). Cần
phải thông qua sự tự giác của đại đa số quần chúng nhân dân trong xã hội để thực
hiện điều hoà lợi ích, để giải quyết vấn đề sinh tồn của nhân loại. Dựa trên quan điểm
lịch sử về vấn đề dân sinh về sự tự giác và điều hoà này của Tôn Trung Sơn,… Đới
Tề Lục đã tiến thêm một bước khi cho rằng, bản tính nhân ái là nguồn giá trị của văn
minh Trung Quốc và cũng chính văn minh Trung Quốc có thể cống hiến một cách to
lớn cho thế giới(8).
Chính quan điểm lịch sử về vấn đề dân sinh đó đã khiến Tôn Trung Sơn có một cách
nhìn nhận mới về các vấn đề xã hội vượt xa so với thời cận đại; từ đó, chủ nghĩa dân
sinh đã có sự giải thích mang tính chất lý luận về nguyên lý thông thường của sự tiến
hoá xã hội của nhân loại. Xuất phát từ chủ nghĩa dân sinh để quan sát, xem xét vấn
đề xã hội Trung Quốc, Tôn Trung Sơn đã có một nhận thức mới hơn hẳn so với sự lý
giải của ông về chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của C.Mác. Theo ông, vấn đề của



Trung Quốc không phải là vấn đề không công bằng, mà chính là vấn đề “nghèo”.
“Trong xã hội không công bằng, đương nhiên có thể dùng phương pháp của C.Mác,
dùng đấu tranh giai cấp để giành lại sự công bằng; nhưng khi Trung Quốc chưa phát
triển, thì đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản của C.Mác chưa thể thực hiện
được. Trung Quốc ngày nay có thể học theo tư tưởng của Mác, nhưng không thể
dùng phương pháp của C.Mác được”(9). Do đó, giải quyết vấn đề dân sinh ở Trung
Quốc không thể thực hiện “tư bản tiết chế” mà nên là “nước tư bản phát triển”, “Vì
nước ngoài giàu, Trung Quốc nghèo, nước ngoài sản xuất thừa, Trung Quốc sản xuất
chưa đủ”(10). Nói đến nước tư bản phát triển là nói đến việc cần phải thực hiện chấn
hưng sản xuất. Trong Đại cương kiến quốc, Tôn Trung Sơn đã soạn thảo rất chi tiết
“kế hoạch sản xuất” nhằm xây dựng một bức tranh Trung Quốc mới. Ông “lấy việc
có điều kiện sản xuất chủ yếu làm xuất phát điểm của chủ nghĩa dân sinh”. Tôn
Trung Sơn nói: “Việc đầu tiên của quá trình xây dựng đất nước là ở vấn đề dân
sinh”, hơn nữa việc cần phải giải quyết đầu tiên trong vấn đề dân sinh chính là làm
thế nào để có thể thúc đẩy sản xuất, đem lại sự thoả mãn về nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại
cho nhân dân Trung Quốc, thậm chí là thoả mãn cả những nhu cầu dục lạc của họ.
Việc thông qua chấn hưng sản xuất để tìm ra phương thức giải quyết vấn đề dân sinh
là một thái độ có tính quyết định, cũng có nghĩa là thái độ “do hiện thực quyết định
phương pháp giải quyết vấn đề”. Loại thái độ này đòi hỏi “dùng hiện thực làm cơ
sở”, lấy “hiện thực làm chất liệu cho việc quyết định”, lấy phương pháp đó để giải
quyết vấn đề dân sinh. Đây chính là một thái độ thực sự cầu thị, là một thái độ nhằm
tránh khỏi chủ nghĩa kinh nghiệm về lý luận và không tưởng.
Thông qua việc xây dựng xã hội chủ nghĩa dân sinh, không chỉ giải quyết được nỗi
thống khổ do sự phân phối tài sản không đều đem lại, mà còn thực hiện được “cộng
sản”. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là kiểu “cộng sản” này là “cộng hữu” mà
không phải là “cộng vô”, là giải quyết được một cách đúng đắn vấn đề phân phối đối
với các nhu cầu tiêu dùng. Tôn Trung Sơn còn tiến thêm một bước khi ông chỉ ra sự
nhất trí giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa dân sinh thể hiện ở chỗ “nhân dân đối
với quốc gia không chỉ là cộng sản, tất cả chức quyền đều là của chung. Đây mới là
chủ nghĩa dân sinh chân chính, là thế giới đại đồng mà Khổng Tử mong đợi”(11).

Lý tưởng xã hội chủ nghĩa dân sinh của Tôn Trung Sơn là một kiểu lý tưởng xã hội

×