Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

LÊ MINH ĐỨC

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI
ĐOẠN TRUY TỐ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

LÊ MINH ĐỨC

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI
ĐOẠN TRUY TỐ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT


TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LÊ MINH ĐỨC


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự.

BLHS:

Bộ luật hình sự.

VKS:

Viện kiểm sát.


DANH MỤC BẢNG BIỂU

BẢNG 3.1: Tỷ lệ số vụ án Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ
sung chia theo nhóm tội phạm

55

BẢNG 3.2: Số vụ án Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung
chia theo căn cứ tại Điều 245 BLTTHS năm 2015

55

BIỂU 3.3: Cơ cấu số vụ án án Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra
bổ sung theo căn cứ quy định tại Điều 245 BLTTHS năm 2015

56


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUY

ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI
ĐOẠN TRUY TỐ ......................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn
truy tố ............................................................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố .......................... 6
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố . 12
1.2. Ý nghĩa của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố ..................... 16
1.3. Khái quát lịch sử quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố..21
K t uận hƣơng 1 ...................................................................................................... 24
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ ........ 26
2.1. Quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.......................................................................... 26
2.1.1. Các trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố .................... 26
2.1.2. Thẩm quyền và trình tự, thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn
truy tố ........................................................................................................................... 36
2.1.3. Những quy định khác của pháp luật về hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn truy tố .................................................................................................. 40
2.2. Đánh giá quy định pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố..42
2.2.1. Một số điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và văn bản hướng dẫn
thi hành so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ....................................................... 42
2.2.2. Một số bất cập của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra
bổ sung trong giai đoạn truy tố .................................................................................... 49
K t uận hƣơng 2 ...................................................................................................... 53
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ54
3.1. Thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố ............................ 54
3.1.1. Tổng quan tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố ........ 54
3.1.2. Đánh giá tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố........... 59
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai

đoạn truy tố .................................................................................................................. 64
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn
truy tố ........................................................................................................................... 64
3.2.2. Các giải pháp khác ............................................................................................. 68
K t uận hƣơng 3 ...................................................................................................... 72
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1 T nh ấp thi t ủ
tài
Để xác định sự thật khách quan của một vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố
tụng phải trải qua các giai đoạn tố tụng khác nhau theo quy định của pháp luật. Một
trong số những giai đoạn đó là Truy tố, trong đó Viện kiểm sát phải tiến hành các
hoạt động cần thiết, nghiên cứu, xem xét các vấn đề về thủ tục tố tụng và nội dung
vụ án thể hiện qua hồ sơ nhằm đảm bảo quá trình điều tra đúng pháp luật, khách
quan, toàn diện, đầy đủ, bên cạnh đó cũng đảm bảo việc ban hành quyết định truy tố
bị can ra xét xử trước Tòa án có thẩm quyền hoặc những quyết định khác cần thiết
cho việc giải quyết vụ án là có căn cứ và đúng pháp luật.
Theo quy định của pháp luật, trong giai đoạn truy tố, khi Viện kiểm sát phát
hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể tự mình
bổ sung được hay khi có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến
vụ án nhưng chưa được khởi tố; hoặc khi có phát hiện vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng... thì Viện kiểm sát sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm
khắc phục những thiếu sót, tồn tại trong giai đoạn tố tụng trước và giải quyết vụ án
theo hướng đúng đắn.
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố đã được pháp

luật Việt Nam quy định từ khi ban hành BLTTHS năm 1988, được hoàn thiện hơn ở
BLTTHS năm 2003 và cho đến BLTTHS năm 2015 hoàn thiện hơn cả. Tuy được ra
đời từ lâu, nhưng cho đến nay, qua thực tiễn áp dụng, quy định về vấn đề này bộc lộ
một số hạn chế, bất cập dẫn đến hệ quả như hiện tượng trả hồ sơ tràn lan, không căn
cứ, ảnh hưởng đến quá trình tố tụng. Bên cạnh đó, việc lạm dụng thẩm quyền, xem
nhẹ quy định về thời hạn điều tra hoặc kéo dài thời hạn điều tra của nhiều vụ án,…
đều là những hệ quả của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung tràn lan.
Thực tiễn áp dụng cho thấy quy định của BLTTHS năm 2003 về vấn đề này
còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 khi quy định về vấn đề này đã có những sửa đổi, về cơ bản đã
khắc phục được một số tồn tại, hạn chế trong quy định của BLTTHS năm 2003. Tuy
nhiên, song song với việc loại bỏ một số vướng mắc trong các quy định pháp luật
trước đó, BLTTHS năm 2015 cũng đặt ra yêu cầu phải có những nghiên cứu, hướng
dẫn nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật, đảm bảo việc giải thích cũng như
áp dụng pháp luật thống nhất và tháo g những bất cập, hạn chế trong quy định của


2

pháp luật về vấn đề. Từ đó, hạn chế trường hợp hồ sơ bị trả đi trả lại nhiều lần khiến
thời hạn giải quyết vụ án kéo dài.
Trong bối cảnh hiện nay, khi BLTTHS năm 2015 đã chính thức có hiệu lực
và cả nước đang trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết 48-NQ-TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 cũng như các văn kiện khác của Đảng về cải cách tư pháp,
việc tiếp tục nghiên cứu về cơ sở l luận, cơ sở thực tiễn cũng như kiến nghị hoàn
thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, bao gồm cả quy định về
trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố theo BLTTHS năm 2015 có

nghĩa quan trọng và hết sức cần thiết. Từ những phân tích trên, chúng tôi quyết định
chọn đề tài r h s để đi u tra
sung trong giai đo n tru tố theo qu đ nh
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” làm đề tài luận văn thạc s của mình.
2 Tình hình nghiên ứu tài
Từ trước đến nay, đề tài trả hồ sơ điều tra bổ sung nói chung và trả hồ sơ điều
tra bổ sung trong giai đoạn truy tố nói riêng đã được đề cập đến trong nhiều công
trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nghiên cứu dưới dạng sách chuyên khảo,
tham khảo, các bài viết, bài báo, chuyên đề, luận văn như:
- Nguyễn Đức Hạnh (2009), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Luận văn thạc s
luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Luận văn đã nêu lên một số tồn tại và vướng mắc giữa quy định của chế định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung và thực tiễn áp dụng, phân tích thực trạng trả hồ sơ để
điều tra bổ sung từ năm 2002 đến 2008 giữa các cơ quan tiến hành tố tụng,chỉ ra
được một số nguyên nhân và đưa ra các giải pháp, kiến nghị để hạn chế tình trạng
trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với hoạt động tố tụng hình
sự;
- Vũ Gia Lâm (2013), Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về
việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tạp chí Tòa án nhân dân số
8, Hà Nôi.
Bài viết trao đổi một số bất cập, vướng mắc của các quy định BLTTHS năm
2003 về việc Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm, trên cơ sở đó, đề xuất việc tiếp tục hoàn thiện quy định của BLTTHS về
vấn đề này;


3

- Hoàng Thị Thùy Linh (2016), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc s Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Luận văn nghiên cứu về những vấn đề l luận và quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đánh giá thực trạng áp dụng quy định
pháp luật và đưa ra một số giải pháp hạn chế việc trả hồ sơ giữa các cơ quan tố tụng.
- Võ Thị Xuân Hương (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn
truy tố (2017); Luận văn thạc s Luật học,
Ngoài việc nghiên cứu những vấn đề l luận, luận văn đã làm rõ quy định của
BLTTHS năm 2003 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của BLTTHS
năm 2003 và thực tiễn thực hiện đến năm 2017 và đưa ra một số giải pháp nâng cao
chất lượng của hoạt động này.
Ngoài ra, còn rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề trả điều tra bổ
sung ở Việt Nam như bài viết của tác giả Nguyễn Hải Ninh “Sửa đổi, bổ sung quy
định của pháp luật về điều tra bổ sung” đăng trên Tạp chí Luật học số 7/2008; bài
viết của tác giả Lê Ngọc Huấn“Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng” đăng trên Tạp chí kiểm sát số
10/2009; luận văn thạc sĩ luật học Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Hải Châu vào năm 2010; bài viết
của tác giả Nguyễn Quang Lộc “Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”
đăng trên Tạp chí Tòa án số 8/2013; bài viết của tác giả Thái Chí Bình “Hoàn thiện
các quy định của BLTTHS năm 2013 về yêu cầu điều tra bổ sung” đăng trên Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 11/2013; Bài viết của tác giả Lê Tấn Cường Giải pháp để
hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 10/2014; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội (2018); Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Kiểm sát (2017);...
Các công trình nghiên cứu trên đều đã đề cập đến vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ
sung ở các mức độ khác nhau và là tài liệu tham khảo quan trọng mà tác giả kế thừa,
tiếp tục nghiên cứu làm rõ trong luận văn của mình.
Tuy nhiên, kể từ khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành, chưa có nhiều
các công trình nghiên cứu tập trung phân tích cụ thể và chuyên sâu quy định về trả
hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố trên các góc độ khác nhau như khái

niệm, nghĩa, quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cũng như đưa ra


4

đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị những giải pháp tiếp tục hoàn
thiện quy định của BLTTHS năm 2015 về vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
3 Đối tƣợng nghiên ứu, phạm vi nghiên ứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề l luận và
quy định pháp luật cũng như thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn
truy tố.
- Về phạm vi nghiên cứu: Cùng với những vấn đề l luận, luận văn nghiên
cứu quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố theo pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam, đặc biệt tập trung làm rõ quy định của BLTTHS năm
2015 và thực tiễn thực hiện giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ qua điều tra trong
Công an nhân dân.
Do tính đặc thù về thời điểm nghiên cứu: khi mà BLTTHS năm 2015 mới có
hiệu lực thi hành và trước đó vào năm 2017 đã có Luận văn thạc sĩ của tác giả Võ
Thị Xuân Hương về “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố” phản
ánh khá đầy đủ về thực tiễn trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của
BLTTHS năm 2003; Hầu hết những bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2003
về vấn đề này đã được khắc phục trong quy định của BLTTHS năm 2015. Do vậy,
để tránh trùng lặp, luận văn chỉ nghiên cứu thực tiễn thực hiện việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung theo quy định của BLTTHS năm 2015.
4 Mụ tiêu nghiên ứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề l luận và quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố; Phân tích, đánh
giá thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố, luận văn đưa ra
giải pháp hoàn thiện pháp luật và hạn chế tình trạng trả hồ sơ vụ án giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng.

5. Nhiệm vụ nghiên ứu
Luận văn hướng tới giải quyết những câu hỏi nghiên cứu sau:
- Khái niệm, đặc điểm, nghĩa của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn truy tố được thể hiện như thế nào ?
- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn truy tố trước và sau khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành. Có
những điểm khác biệt nào trong quy định pháp luật hiện hành so với BLTTHS năm
2003. Còn có những bất cập nào cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.


5

- Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều
tra bổ sung trong giai đoạn truy tố. Đã đạt được những kết quả gì ? Còn những tồn
tại, hạn chế nào, do những nguyên nhân nào? Có những giải pháp gì nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố ?
6 Cá phƣơng pháp nghiên ứu áp dụng ể thự hiện uận văn
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật. Các giải pháp luận văn đưa
ra nghiên cứu dựa trên những quan điểm định hướng chỉ đạo, những nguyên tắc
pháp l đã được Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống
pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, tác giả còn sử dung các phương pháp nghiên cứu như: Phương
pháp phân tích tổng hợp vừa đảm bảo tính khái quát của vấn đề được nghiên cứu
vừa đảm bảo tính chuyên sâu ở mỗi nội dung liên quan đến trả hồ sơ để điều tra bổ
sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; Phương pháp thống kê được sử dụng để
nêu rõ số liệu thực tiễn về thực hiện quy định pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung.
7 Ý nghĩ kho họ và thự tiễn ủ uận văn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn góp phần bổ sung, làm rõ một số vấn đề l
luận cũng như quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trả hồ sơ để điều

tra bổ sung trong giai đoạn truy tố.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có giá trị như một tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật, góp phần nêu lên một số
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong
giai đoạn truy tố.
8 Bố ụ ( á hƣơng) ủ uận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề l luận và khái quát lịch sử quy định pháp luật về
trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và giải pháp nâng cao chất lượng trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố.


6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1 1 Khái niệm, ặ iểm ủ hoạt ộng trả hồ sơ ể i u tr bổ sung
trong gi i oạn truy tố
1.1.1. Khái niệm tr h s để đi u tra
sung trong giai đo n tru tố
- Khái niệm giai đoạn truy tố
Truy tố là một thuật ngữ pháp l có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác
nhau, có thể là một hoạt động tố tụng hình sự hoặc một giai đoạn tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.

Dưới khía cạnh hoạt động tố tụng, Truy tố là việc đưa người phạm tội ra
trước Tòa án để xét xử. Theo quy định của pháp luật, truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân. Sau khi kết thúc điều
tra, Cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố rồi gửi cùng hồ sơ
vụ án đến Viện kiểm sát cùng cấp thực hiện truy tố1.
Truy tố cũng có thể được hiểu là một giai đoạn của tố tụng hình sự. Luật tố
tụng hình sự Việt Nam chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn: Khởi tố vụ án
hình sự, Điều tra vụ án hình sự, Truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự, thi hành án hình sự và giai đoạn đặc biệt2. Trong đó, Truy tố là
giai đoạn Viện kiểm sát tiến hành hoạt động xem xét quyết định việc truy tố sau khi
nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra
hoặc Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển đến và kết thúc
khi Viện kiểm sát ra bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố ra trước Tòa án hoặc ra
quyết định đình chỉ vụ án. Truy tố chính là giai đoạn tiếp theo sau giai đoạn điều tra,
được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận hồ sơ vụ án kèm theo bản Kết luận điều tra
đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra hoặc Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra.3 Truy tố là giai đoạn của tố tụng hình sự do VKS có thẩm

1

Bộ Tư pháp. Viện nghiên cứu Khoa học Pháp l (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 820
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 11 – 12.
3
Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Phạm Mạnh Hùng biên soạn (2016), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc Gia - Sự thật, Hà Nội, tr 372.
2


7


quyền tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm buộc tội bị can trước tòa án có thẩm
quyền bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố. 4
Từ sự phân tích trên, có thể thấy, chủ thể đóng vai trò quan trọng nhất trong
giai đoạn này là Viện kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân nhân danh nhà nước thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp5. Quyền năng công tố nhà nước do
Viện kiểm sát thực hiện gồm nhiều quyền năng tố tụng, trong đó, quyền truy cứu
trách nhiệm hình sự bị can ra trước Tòa án là quyền đặc trưng của Viện kiểm sát. 6
Đây là một trong những hoạt động quan trọng được VKS thực hiện trong giai đoạn
này. Có thể thấy, khái niệm “truy tố” dưới góc độ một giai đoạn tố tụng hình sự bao
hàm cả khái niệm truy tố dưới danh nghĩa một hoạt động tố tụng.
Giai đoạn tố tụng là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng,
mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng.7
Nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất trong giai đoạn truy tố là đảm bảo việc
ra quyết định truy tố cũng như những quyết định cần thiết khác nhằm giải quyết vụ
án là có căn cứ và hợp pháp. Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát cần nghiên cứu,
xem xét tất cả những vấn đề mang tính thủ tục tố tụng và những vấn đề thuộc nội
dung vụ án thể hiện qua hồ sơ điều ra nhằm xác định quá trình điều tra vụ án có tuân
thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự không, có còn những hạn chế và
thiếu sót nào cần khắc phục không để kịp thời ra các quyết định tố tụng cần thiết
nhằm bổ sung và hoàn thiện hồ sơ, khắc phục những vi phạm pháp luật của Cơ quan
điều tra, đảm bảo việc điều tra tuân thủ đúng quy định của pháp luật, khách quan,
toàn diện và đầy đủ. Trên cơ sở đó, đảm bảo việc ra quyết định truy tố bị can đúng
đắn, chính xác, góp phần thực hiện tốt chức năng buộc tội nhân danh nhà nước, tạo
cơ sở pháp l để Tòa án xét xử, đảm bảo lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, tôn trọng
và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân.8
Dưới góc độ là một giai đoạn tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
truy tố là giai đoạn tố tụng tiếp theo sau giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bắt đầu khi
4


Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Hồng Đức, Hồ Chí Minh, tr 435.
5
Điều 107 Hiến pháp 2013
6
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 367.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 11.
8
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 368


8

cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và gửi kèm hồ sơ vụ án đến
Viện kiểm sát và kết thúc khi Viện kiểm sát ra quyết định truy tố bị can ra trước Tòa
án để xét xử hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án. Trong đó, chủ thể tiến hành tố tụng
(Viện kiểm sát có thẩm quyền) tiến hành mọi hoạt động cần thiết, nghiên cứu tất cả
những vấn đề về thủ tục tố tụng cũng như nội dung vụ án để quyết định việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can ra trước Tòa án có thẩm quyền hoặc ban
hành những quyết định tố tụng khác trong phạm vi thẩm quyền để giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự.
Như vậy, có thể thấy: Truy tố là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó
Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm truy tố bị can trước Tòa án
bằng bản cáo trạng hay quyết định truy tố, hoặc ra những quyết định tố tụng khác để
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự trong thời hạn từ khi nhận hồ sơ vụ án cùng bản
kết luận điều tra đề nghị truy tố do cơ quan điều tra chuyển tới đến khi Viện kiểm

sát chuyển hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố cho Tòa án có
thẩm quyền. Thời hạn này được gọi là thời hạn quyết định việc truy tố.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm giai đoạn truy tố như sau:
Giai đoạn truy tố là một phần (một bước) của quá trình giải quyết vụ án hình
sự, trong đó Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm truy tố bị can
trước Tòa án bằng bản cáo trạng hay quyết định truy tố, hoặc ra những quyết định
tố tụng khác để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
- Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trong tố tụng hình sự Việt Nam luôn tồn tại “hồ sơ vụ án hình sự”. Nếu như
trong mô hình tố tụng hình sự tranh tụng không tồn tại một hồ sơ vụ án chính
thức (bên buộc tội tự lập hồ sơ vụ án của mình để thực hiện chức năng buộc tội, bên
bào chữa tự lập hồ sơ của mình để thực hiện chức năng g tội), thì trong suốt các
giai đoạn của tố tụng hình sự nước ta luôn tồn tại một hồ sơ vụ án hình sự, được các
cơ quan tiến hành tố tụng lập thống nhất từ giai đoạn điều tra. Hồ sơ vụ án hình sự
chứa đựng toàn bộ các thông tin, chứng cứ về tội phạm và người phạm tội, được các
cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào đó để thực hiện các chức năng tố tụng của mình,
đồng thời được bổ sung, hoàn thiện qua từng giai đoạn tố tụng.9 Việc nghiên cứu,
xem xét những tài liệu, bằng chứng được thu thập và phản ánh trong hồ sơ vụ án để
ban hành quyết định tố tụng nhằm giải quyết vụ án hình sự đúng đắn là hoạt động
9

Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thủy - Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư
pháp; ngày truy cập 27/6/2018)


9

không thể thiếu của chủ thể tiến hành tố tụng mà một trong số những quyết định đó
là Trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trả hồ sơ điều tra bổ sung là một chế định của pháp luật tố tụng hình sự,

được đề cập đến lần đầu tại BLTTHS năm 1988, sau đó được quy định tương đối
chi tiết, cụ thể tại BLTTHS năm 2003 và tiếp tục được ghi nhận tại BLTTHS năm
2015. Mặc dù đã nhiều lần được quy định trong các Bộ luật tố tụng hình sự nhưng
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa đưa ra một định nghĩa chính thức giải thích
khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố là
hoạt động điều tra thêm về vụ án hình sự của Cơ quan điều tra theo yêu cầu của
Viện kiểm sát nhằm phát hiện, thu thập, bổ sung tài liệu, chứng cứ giải quyết vụ án
được đúng đắn, khách quan. Vấn đề này được thường được đề cập tới trong các
công trình nghiên cứu như các giáo trình chuyên ngành của các cơ sở đào tạo pháp
luật hoặc trong các luận văn, bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một hoạt động tố tụng được quy định tại
Điều 168 và Điều 179 của BLTTHS năm 2003 nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu
sót của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ
án hình sự, đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt
để, chính xác và đúng pháp luật.10
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định của luật tố tụng hình sự quy định
Viện kiểm sát hoặc Tòa án chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều
tra để điều tra thêm về vụ án hình sự theo các căn cứ được quy định trong BLTTHS
nhằm mục đích làm sáng tỏ vụ án hình sự, để Tòa án xét xử vụ án một cách công
minh, chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội.11
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là hoạt động tố tụng do Viện kiểm sát, Tòa án
thực hiện trong giai đoạn truy tố hoặc xét xử khi có các căn cứ và tiến hành theo
trình tự, thủ tục BLTTHS quy định nhằm bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự đầy đủ, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.12

10

Lê Tấn Cường (2012), Những vướng mắc và kiến nghị sửa đổi chế định Viện kiểm sát nhân dân trả hồ sơ
để điều tra bổ sung, Tạp chí Kiểm sát, (20), tr.15

11
Nguyễn Thị Hải Châu (2010), Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 19
12
Hoàng Thị Thùy Linh (2016), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc s Luật học, Đại Học Luật Hà Nội, tr10.


10

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là hoạt động của Viện kiểm sát và Tòa án thực
hiện trong giai đoạn truy tố hoặc giai đoạn xét xử sơ thẩm khi có căn cứ quy định tại
BLTTHS nhằm bổ sung chứng cứ, khắc phục những thiếu sót, vi phạm trong quá
trình điều tra, bảo đảm việc giải quyết vụ án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.13
Trên cơ sở xem xét các khái niệm trên, có thể rút ra một số nhận xét về Trả
hồ sơ để điều tra bổ sung như sau:
Thứ nhất, thẩm quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung thuộc về Viện kiểm sát ở
giai đoạn truy tố và thuộc về Tòa án trong giai đoạn xét xử, cụ thể là trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Như đã phân tích, tố tụng hình sự Việt Nam có sự phân chia quá trình giải
quyết vụ án thành các giai đoạn. Sự phân chia này gắn liền với trách nhiệm của từng
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng… Giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn
sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước14. Bởi vậy, chủ thể tiến hành tố tụng ở
giai đoạn tố tụng sau được trao quyền xem xét lại các hoạt động tố tụng đã được
thực hiện ở giai đoạn trước đó và có quyền quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
nếu xét thấy việc điều tra là thiếu sót hoặc có vi phạm. Hơn nữa, bản chất của hoạt
động “trả hồ sơ” là để “điều tra bổ sung”, tức thực hiện những hoạt động tố tụng
thuộc chức năng của Cơ quan điều tra nên thẩm quyền quyết định việc này thuộc về
hai chủ thể trên.

Thứ hai, khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung, các cơ quan tiến hành tố tụng bắt
buộc phải tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các trường hợp áp
dụng, trình tự, thủ tục thực hiện, hình thức quyết định trả hồ sơ, thẩm quyền ban
hành,…khi tiến hành hoạt động này.
Thứ ba, trả hồ sơ để điều tra bổ sung được tiến hành trong trường hợp phát
hiện những thiếu sót nghiêm trọng hoặc sai lầm nghiêm trọng trong giai đoạn điều
tra, ảnh hưởng tới việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Từ hai căn cứ nêu trên,
những trường hợp phải trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung được cụ thể hóa trong các
quy định của BLTTHS và chỉ khi thuộc những trường hợp đó mới được tiến hành
trả hồ sơ.
13

Võ Thị Xuân Hương (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố; Luận văn thạc s Luật
học, Đại Học Luật Hà Nội, tr 12.
14
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 13


11

Thứ tư, hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung thực chất là việc cơ quan tiến
hành tố tụng có thẩm quyền ban hành quyết định tố tụng chuyển giao hồ sơ vụ án
đang được các cơ quan này thụ l cho cơ quan tố tụng đã giải quyết ở các giai đoạn
trước đó theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để điều tra thêm những vấn đề
còn thiếu sót hoặc khắc phục những vi phạm trong quá trình tố tụng nhằm hoàn
thiện hồ sơ, đảm bảo việc giải quyết vụ án hình sự có căn cứ, đúng pháp luật. giai
đoạn tố tụng nào, điều tra, truy tố hay xét xử thì các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi thực hiện các hành vi tố
tụng nhằm giải quyết vụ án đều hướng tới việc chứng minh tội phạm và xác định sự

thật khách quan của vụ án. Nếu quá trình giải quyết vụ án hợp pháp, khách quan thì
việc chứng minh tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự một người sẽ đúng đắn,
đúng người, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.15
Hoạt động trả hồ sơ để điểu tra bổ sung cũng nhằm hướng tới mục đích đó. Chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự là nhằm bảo đảm cho việc
điều tra, truy tố, xét xử đầy đủ, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Trả hồ sơ điều tra bổ sung chính
là để các cơ quan tiến hành tố tụng trước đó bổ sung những thiếu sót trong quá trình
thu thập, đánh giá chứng cứ và bảo đảm các hoạt động điều tra tuân thủ pháp luật,
thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng mà Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định.16
Như vậy, khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố có
thể hiểu là: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố là hoạt động của
Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn truy tố được thực hiện bằng việc chuyển
lại hồ sơ cho Cơ quan đã tiến hành điều tra và đề nghị truy tố, yêu cầu bổ sung
chứng cứ và khắc phục những thiếu sót nghiêm trọng hay sai lầm nghiêm trọng
trong quá trình điều tra nhằm đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Tuy nhiên, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố chỉ được
thực hiện giữa VKS và Cơ quan điều tra chuyên trách. Đối với vụ án do Cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết, VKS không trả
hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung cho các cơ quan này.

15

Võ Thị Xuân Hương (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố; Luận văn thạc s Luật
học, Đại Học Luật Hà Nội, tr.11.
16
Hoàng Thị Thùy Linh (2016), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc
s Luật học, Đại Học Luật Hà Nội, tr.17



12

1.1.2. Đặc điểm của ho t động tr h s để đi u tra
sung trong giai
đo n tru tố
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có thể rút ra
một số đặc điểm nổi bật của hoạt động này trong giai đoạn truy tố như sau:
Thứ nhất, về thẩm quyền trả hồ sơ vụ án: Đối với hoạt động trả hồ sơ để điều
tra bổ sung được tiến hành trong giai đoạn truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền xem xét, quyết định vấn đề này là Viện kiểm sát. Kể từ khi tiếp nhận
bản kết luận điều tra đề nghị truy tố kèm hồ sơ vụ án, trong thời hạn quyết định việc
truy tố, Viện kiểm sát có quyền ban hành các quyết định tố tụng cần thiết theo quy
định của BLTTHS nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, một trong số đó là
trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Cơ quan tố tụng có trách nhiệm thực hiện yêu cầu điều
tra bổ sung của Viện kiểm sát là Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Đây là “cơ quan
có chức năng chính tiếp nhận, giải quyết thông tin về tội phạm, tiến hành điều tra
các tội phạm để phát hiện, xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và
đề nghị truy tố.”17
Quyền hạn trả hồ sơ vụ án của Viện kiểm sát xuất phát từ vị trí, vai trò của cơ
quan tiến hành tố tụng này trong tố tụng hình sự cũng như nhiệm vụ cơ bản đặt ra
trong giai đoạn truy tố. Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần
bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong giai đoạn
truy tố, chủ thể duy nhất thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá
nhân, pháp nhân là Viện kiểm sát. Nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất trong giai
đoạn truy tố là đảm bảo việc ra quyết định truy tố cũng như các quyết định cần thiết
khác là có căn cứ và hợp pháp. Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát cần nghiên cứu,
xem xét tất cả những vấn đề mang tính thủ tục tố tụng cũng như những vấn đề thuộc

về nội dung vụ án thể hiện qua hồ sơ điều tra nhằm xác định quá trình điều tra vụ án
có tuân thủ theo đúng các quy định của BLTTHS không, có còn những hạn chế và
thiếu sót nào khác cần khắc phục hay không để kịp thời ra các quyết định tố tụng
cần thiết nhằm bổ sung và hoàn thiện hồ sơ, khắc phục những vi phạm pháp luật của
Cơ quan điều tra, đảm bảo quyết định truy tố bị can đúng đắn, chính xác, tạo cơ sở
17

Phạm Mạnh Hùng (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Lao Động, Hà Nội,
tr 67.


13

pháp l vững chắc để tòa án xét xử, đảm bảo lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, tôn
trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.18 Mặt khác, quyền
quyết định trả hồ sơ của Viện kiểm sát và trách nhiệm điều tra bổ sung của Cơ quan
điều tra cũng thể hiện một đặc điểm của tố tụng hình sự Việt Nam là sự phân chia
giai đoạn tố tụng hình sự và mối quan hệ giữa các giai đoạn tố tụng; mỗi giai đoạn
tuy độc lập những vẫn nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo thành hoạt
động thống nhất, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra
giai đoạn trước.
Ngoài cơ quan điều tra, còn có một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, VKS không trả hồ sơ cho các cơ quan
này mà chỉ trả hồ sơ vụ án yêu cầu điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra chuyên
trách. Đặc điểm này xuất phát từ vị trí, chức năng của các cơ quan nêu trên: Cơ quan
điều tra là Cơ quan tiến hành tố tụng, “được thực hiện các hành vi tố tụng, giải
quyết trọn vẹn nhiệm vụ của một hoặc một số chức năng trong tố tụng hình sự còn
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ được tiến
hành một số hoạt động điều tra khi tội phạm xảy ra trong lĩnh vực mình quản lý và
hành vi phạm tội đó cần thiết phải áp dụng ngay các biện pháp ngăn chặn, biện

pháp điều tra ban đầu.”19 Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra được tiến hành điều tra đối với tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội quả
tang, chứng cứ và lí lịch người phạm tội rõ ràng20. Nếu vụ án phải được điều tra bổ
sung thì không còn được xem là vụ án thuộc trường hợp “rõ ràng” để các cơ quan
này tiến hành điều tra. Do đó, VKS không trả hồ sơ yêu cầu các chủ thể này điều tra
bổ sung.
Từ những phân tích trên, có thể thấy việc pháp luật tố tụng hình sự xác định
thẩm quyền “trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố” thuộc về Viện
kiểm sát là hoàn toàn phù hợp, tạo cơ sở pháp l quan trọng để Viện kiểm sát thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện
đúng và đầy đủ những yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát; đảm bảo mọi
hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ.

18

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 368
19
Nguyễn Hoà Bình (chủ biên) (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 109.
20
Từ Điều 32 đến Điều 39 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.


14

Thứ hai, những thiếu sót, sai lầm của Cơ quan tiến hành tố tụng thuộc trường
hợp phải trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung là những thiếu sót nghiêm trọng hoặc
sai lầm nghiêm trọng trong giai đoạn điều tra, ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự. Những thiếu sót, sai lầm nghiêm trọng là căn cứ để trả hồ sơ vụ

án được cụ thể hóa thành các quy định của BLTTHS về các trường hợp trả hồ sơ để
điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố. Nếu những thiếu sót hay sai lầm trong quá
trình điều tra không đến mức “nghiêm trọng”, tức có thể được khắc phục bằng cách
thực hiện các hoạt động tố tụng khác nhằm đảm bảo quá trình điều tra vụ án được
khách quan, toàn diện, đầy đủ thì việc Viện kiểm sát trả hồ sơ để điều tra bổ sung là
không thực sự cần thiết. Do đó, chỉ khi có căn cứ là phát hiện những thiếu sót
nghiêm trọng hoặc sai lầm nghiêm trọng của Cơ quan điều tra, ảnh hưởng tới việc
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, Viện kiểm sát mới quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung trong giai đoạn truy tố. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu cần quy định chặt
chẽ các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự, hạn
chế việc trả hồ sơ không có căn cứ, không cần thiết với việc giải quyết vụ án, kéo
dài thời gian tố tụng.
Thứ ba, trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố phải tuân thủ các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Chế định trả hồ sơ vụ án được quy định
trong BLTTHS, bao gồm những vấn đề về thẩm quyền, trường hợp áp dụng, trình
tự, thủ tục tiến hành. Do đó, việc Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ vụ án để điều
tra bổ sung bắt buộc phải tuân thủ những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Đây
là đặc điểm cơ bản và mang tính tất yếu của chế định này. Đặc điểm này phản ánh
một nguyên tắc hết sức quan trọng trong tố tụng hình sự là bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. Theo đó, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng hình sự phải nghiêm chỉnh tuân thủ những quy
định của BLTTHS, không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Việc
áp dụng biện pháp cư ng chế cũng như biện pháp nghiệp vụ trong đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm nhất thiết phải theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm
cư ng chế chỉ áp dụng với người phạm tội, nghiêm cấm làm oan người vô tội. Tất
cả các quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều dựa trên


15


cơ sở pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.21 Bên cạnh đó, xuất phát từ vai
trò của Viện kiểm sát - cơ quan tố tụng quyết định trả hồ sơ trong giai đoạn này - là
cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất cũng như nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn truy tố (đảm
bảo việc ra quyết định truy tố cũng như các quyết định cần thiết khác là có căn cứ và
hợp pháp), trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc tuân thủ các quy định của
BLTTHS khi tiến hành mọi hoạt động tố tụng (bao gồm cả trả hồ sơ để điều tra bổ
sung) là đặc trưng cơ bản, mang tính bắt buộc, tất yếu. Mặt khác, mục đích chung
của hoạt động trả hồ sơ vụ án nhằm bổ sung những thiếu sót trong quá trình thu
thập, đánh giá chứng cứ cũng như đảm bảo hoạt động tố tụng tuân thủ pháp luật;
nếu hoạt động trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung không được tiến hành đúng theo
quy định pháp luật, tức những thiếu sót, vi phạm pháp luật vẫn tiếp tục tồn tại, thì
mục đích của hoạt động trả hồ sơ chắc chắn không thể đạt được; gây ảnh hưởng tới
việc xác định sự thật khách quan vụ án.
Thứ tư, về nội dung, mục đích của hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn truy tố: Như đã phân tích, Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong giai đoạn truy tố được xem là một trong những công cụ quan trọng để Viện
kiểm sát thực hiện quyền năng được trao. Chế định này trao cho Viện kiểm sát cũng
như Cơ quan điều tra cơ hội để bổ sung, khắc phục, sửa chữa những vi phạm, thiếu
sót nghiêm trọng trong quá trình điều tra vụ án hình sự; đảm bảo việc ban hành
quyết định truy tố cũng như những quyết định khác cần thiết cho việc giải quyết vụ
án có căn cứ và đúng pháp luật. Đây chính là nhiệm vụ cơ bản được đặt ra trong giai
đoạn truy tố - giai đoạn tố tụng mà Viện kiểm sát đóng vai trò hết sức quan trọng.
Như vậy, trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố chính là một hoạt
động tố tụng nhằm loại bỏ vi phạm pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng, củng
cố chứng cứ để quyết định xử l đối với tội phạm, bảo đảm việc điều tra vụ án cũng

như truy tố được khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

21

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 63


16

1 2 Ý nghĩ ủ việ trả hồ sơ ể i u tr bổ sung trong gi i oạn truy tố
Có thể nói, chế định “trả hồ sơ đề điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố”
có nghĩa rất quan trọng, không những góp phần bảo đảm thực hiện nhất quán, triệt
để các nguyên tắc của BLTTHS mà còn góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; hạn chế oan sai, bỏ lọt
tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ý nghĩa của chế định này được
thể hiện ở các phương diện cụ thể sau:
- uy định và thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ
để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố góp phần thực hiện nguyên tắc bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự;
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc bao trùm nhất
được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, từ những quy định
chung cho đến những quy định cụ thể. Đây là nguyên tắc pháp l cơ bản nhất trong
hoạt động của cơ quan, tổ chức và công dân được quy định tại Điều 8 Hiến pháp
năm 2013 “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản
lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.22
Nguyên tắc này một lần nữa được ghi nhận tại Điều 7 BLTTHS năm 2015:
“Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này.
Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài

những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.” Theo đó, các cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải nghiêm chỉnh
chấp hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tất cả quyết định của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều phải dựa trên cơ sở của pháp luật hình sự
và pháp luật tố tụng hình sự23. Hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong
giai đoạn điều tra, truy tố cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc
này. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến
hành tố tụng khi tiến hành các hoạt động tố tụng đối với các vụ án hình sự cụ thể
phải đảm bảo cho các giai đoạn tố tụng hình sự diễn ra trong thực tế theo đúng trình
tự đã được quy định, mọi vi phạm đều phải bị phát hiện, xử l và khắc phục hậu

22

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 62
23
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 63


17

quả24. Việc cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ
những quy định của BLTTHS trong quá trình giải quyết vụ án chính là biểu hiện của
việc vi phạm nguyên tắc bảo đảm pháp chế; không chỉ ảnh hưởng tới việc xác định
sự thật khách quan của vụ án mà còn ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và công
dân. Do đó, BLTTHS đặt ra chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nói chung và quy
định về quyền trả hồ sơ vụ án trong giai đoạn truy tố nói riêng nhằm bổ sung, khắc
phục những thiếu sót, vi phạm trong quá trình tố tụng là hoàn toàn phù hợp và cần

thiết, tạo cơ sở thực hiện có hiệu quả nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tố tụng hình sự.
- uy định và thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ
để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố góp phần bảo đảm việc thực hiện nguyên
tắc xác định sự thật vụ án;
Đây là một trong những nguyên tắc đặc thù của Tố tụng hình sự Việt Nam,
được ghi nhận tại điều 15 BLTTHS năm 2015: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp
hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ,
làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội”.
Đây được coi là nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự, là tư tưởng
chủ đạo, xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. 25 Để hoạt động đấu tranh
chống tội phạm có hiệu quả, mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện và xử l ,
BLTTHS đã ghi nhận nguyên tắc này với nội dung sau: Trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng mọi
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và
đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội, xác định vô tội, những tình tiết tăng
nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Trong
quá trình tiến hành tố tụng, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm
24

Võ Thị Xuân Hương (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố; Luận văn thạc s Luật
học, Đại Học Luật Hà Nội, tr 15.
25
Võ Thị Xuân Hương (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố; Luận văn thạc s Luật
học, Đại Học Luật Hà Nội, tr 16.



18

không được thiên vị, định kiến, phải thu thập và đánh giá chứng cứ trên tất cả các
phương diện, cân nhắc k mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết
đúng đắn vụ án. Mọi tình tiết thu được trong quá trình điều tra, xét xử đều được
đánh giá trên cơ sở pháp lí để rút ra kết luận về vụ án. Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội
không buộc phải chứng minh là mình vô tội... Muốn xác định được người bị buộc
tội có tội hay không thì phải dựa trên cơ sở những chứng cứ đã thu được trong vụ án
để xem xét.26
Như vậy, trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, tức
những cơ quan này đóng vai trò chủ đạo trong việc xác định sự thật khách quan của
vụ án hình sự, phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để thực thi nhiệm vụ, quyền
hạn được giao. Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố của
Viện kiểm sát là một hoạt động tố tụng nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Căn cứ để tiến hành hoạt động này là việc Viện kiểm sát phát hiện hoạt động điều
tra chưa đầy đủ, còn bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra. Viện kiểm sát quyết định trả hồ sơ vụ án
nhằm kịp thời khắc phục những thiếu sót và vi phạm của Cơ quan điều tra, đảm bảo
việc giải quyết vụ án có căn cứ, đúng pháp luật. Kết quả điều tra bổ sung có thể làm
gia tăng tính toàn diện, đa dạng và đặc biệt là sự sáng tỏ của hệ thống nguồn chứng
cứ - nền tảng vững chắc bảo đảm cho hoạt động chứng minh tội phạm được khách
quan, chính xác, mang tính thuyết phục27; từ đó góp phần quan trọng vào việc xác
định sự thật khách quan của vụ án hình sự.
- uy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố góp phần
đảm bảo thực hiện nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người tham gia tố tụng;
Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Trên cơ sở quy định của

Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 8 BLTTHS năm 2015
như sau: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con
26

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 52 – 53.
27
Nguyễn Phúc Lưu (2006), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung, một số vấn đề l luận và thực tiễn, Tạp chí dân
chủ và pháp luật, (11), tr 35


19

người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp
và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.”
Nội dung của nguyên tắc này là xác định trách nhiệm của những người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con ngươi,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân: phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tham gia tố tụng; chỉ áp dụng các biện
pháp cư ng chế tố tụng trong những trường hợp cần thiết và theo đúng quy định của
pháp luật; phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện
pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp, nếu xét thấy có vi
phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa, cần kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó.28
Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố chính là một
trong những biểu hiện cũng như cơ sở đảm bảo thực hiện nguyên tắc này. Trong quá
trình điều tra vụ án hình sự, vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà còn có những sai
sót, vi phạm cần được bổ sung, khắc phục. Hoạt động trả hồ sơ để điều tra bổ sung

trong giai đoạn truy tố là cơ hội để khắc phục những vi phạm, thiếu sót, tiến hành
thu thập, bổ sung chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ làm cơ sở để Tòa án xét xử đúng
người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Từ đó, góp phần đảm bảo nguyên tắc tôn
trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.29
- Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố góp phần nâng cao
tinh thần trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong
hoạt động điều tra, truy tố;
Pháp luật tố tụng hình sự luôn đòi hỏi những cơ quan, người tiến hành tố
tụng phải nêu cao tinh trách nhiệm trong việc thực thi nhiệm vụ được giao, đảm bảo
giải quyết vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vấn đề này được quy
định tại Điều 17 BLTTHS năm 2015 “Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định của
pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình. Người vi phạm
pháp luật trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, giam, giữ, khởi tố,
28

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân,
Hà Nội, tr 65.
29
Võ Thị Xuân Hương (2017), Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố; Luận văn thạc s Luật
học, Đại Học Luật Hà Nội, tr 20.


×