Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.37 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN TRUNG HIẾU

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHAN TRUNG HIẾU

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự


Mã số

: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hải Ninh

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực
của luận văn.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phan Trung Hiếu


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

KSV

: Kiểm sát viên

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu

Tên bảng

Trang

3.1


Tình hình VKS thụ lý, đã giải quyết trong giai đoạn truy tố

44

3.2

Tình hình VKS ban hành các quyết định giải quyết vụ án

45

bảng

trong giai đoạn truy tố của VKSND
3.3

Tình hình kết quả thực hiện quyết định truy tố

46

3.4

Tình hình VKS thực hiện quyết định trả hồ sơ cho CQĐT

48

để điều tra bổ sung
3.5

Tình hình VKS ban hành kiến nghị đối với CQĐT, kiến


50

nghị với cơ quan hữu quan phòng ngừa tội phạm
3.6

Tình hình Tòa án thực hiện quyết định trả hồ sơ VKS để

53

điều tra bổ sung
3.7

Tình hình số bị cáo Tòa sơ thẩm tuyên không phạm tội
hoặc đình chỉ vụ án

56


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ ...................................... 8
1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
........................................................................................................................... 8
1.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát trong giai đoạn truy tố................................................................................ 16
Kết luận chương 1 ........................................................................................... 19
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI
ĐOẠN TRUY TỐ ........................................................................................... 21
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố ........ 21
2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi kiểm sát trong giai đoạn truy tố .................................. 40
Kết luận chương 2 ........................................................................................... 43
Chương 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
GIAI ĐOẠN TRUY TỐ.................................................................................. 44
3.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai
đoạn truy tố...................................................................................................... 44
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát trong giai đoạn truy tố................................................................................ 66
Kết luận chương 3 ........................................................................................... 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn có
những nhiệm vụ riêng với đặc thù về phạm vi chủ thể. Để thực hiện được nhiệm vụ
riêng đặt ra cho mỗi giai đoạn, pháp luật tố tụng hình sự quy định các chủ thể có
những quyền hạn khác nhau.
Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định khởi tố, điều tra vụ
án hình sự và quyết định việc truy tố chung trong một phần (Phần thứ hai) và chỉ có
bốn điều luật dành cho giai đoạn truy tố quy định ở cuối cùng của phần này. Quy

định này thể hiện sự không thống nhất trong nhận thức về giai đoạn tố tụng, đồng
thời do chỉ quy định bốn điều luật điều chỉnh hoạt động quyết định việc truy tố nên
còn thiếu nhiều quy định cần thiết khác với ý nghĩa truy tố là một giai đoạn tố tụng.
Nhằm đảm bảo tính khoa học trong việc phân chia các giai đoạn tố tụng, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp và phù hợp với Hiến pháp năm 2013, tạo cơ sở pháp lý để
các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ, trên cơ sở kế thừa và
khắc phục những hạn chế trong kỹ thuật lập pháp của BLTTHS năm 2003,
BLTTHS năm 2015 đã tách và quy định truy tố thành một phần độc lập (Phần thứ
ba), với hai chương: Chương XVIII - Những quy định chung và Chương XIX Quyết định việc truy tố. Trong đó, bổ sung nhiều nội dung mới, hoàn thiện quy định
về thủ tục truy tố. Việc BLTTHS năm 2015 quy định như trên thể hiện bước chuyển
trong tư duy, nhận thức khoa học và xây dựng pháp luật, giúp phân định mạch lạc
giai đoạn truy tố với các giai đoạn tố tụng khác, đồng thời xác lập rõ hơn mối quan
hệ giữa giai đoạn truy tố với các giai đoạn khác.
Truy tố với nghĩa là một giai đoạn tố tụng có ý nghĩa bảo đảm quyết định
việc truy tố đúng người, pháp nhân phạm tội; xác lập cơ sở pháp lí để tòa án đưa vụ
án ra xét xử; bảo đảm phát hiện kịp thời các vi phạm pháp pháp luật trong giai đoạn
điều tra đồng thời góp phần sửa chữa, khắc phục những vi phạm đó. Từ các ý nghĩa
trên của giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát (VKS) với vai trò là chủ thể đặc thù của
giai đoạn này cần được pháp luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.


2

Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể các nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Trong khi đó, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy
định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi thực hành quyền công tố và khi
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố tại Điều 16 và Điều 17.
Để phù hợp với quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014, BLTTHS
năm 2015 đã bổ sung mới hai điều (Điều 236 và Điều 237) nhằm quy định đầy đủ,

cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát
trong giai đoạn truy tố. Do đây là những quy định rất quan trọng, lần đầu tiên được
quy định trong BLTTHS, cùng với các quy định về thực hành quyền công tố và
kiểm sát trong các giai đoạn khởi tố, điều tra và xét xử vụ án hình sự, tạo cơ sở pháp
lý toàn diện, đồng bộ, cụ thể để VKS tăng cường vai trò, trách nhiệm, thực hiện
hiệu quả chức năng, nhiệm vụ trong tố tụng hình sự.
Do đó, việc nghiên cứu làm rõ các quy định của BLTTHS năm 2015 về
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố và phương hướng
thực hiện là cần thiết. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra những tồn
tại, hạn chế, từ đó đề ra những giải pháp đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
khi thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Qua đó, góp phần
giúp cho Viện kiểm sát nhân dân ngày một nâng cao vị thế của ngành trong hệ
thống các cơ quan tiến hành tố tụng và trong hoạt động đấu tranh, phòng ngừa và
chống tội phạm, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích của tổ
chức, công dân. Do vậy, học viên đã lựa chọn đề tài: “Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS nói
chung và hoạt động của VKS trong giai đoạn truy tố nói riêng đã có nhiều công
trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này. Các công trình khoa học tập
trung nghiên cứu theo những khía cạnh sau:


3

* Nghiên cứu chung về tổ chức, hoạt động của VKSND có các nghiên cứu
sau: Nguyễn Minh Đức (2006), “Về chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo
tinh thần cải cách tư pháp”1; Nguyễn Đình Lộc (2011), Cải cách tư pháp và sự phát
triển về mặt mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan Viện kiểm sát

nhân dân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề Các cơ quan Tư pháp trong
Nhà nước pháp quyền; Một số quan điểm của đảng về tổ chức và hoạt động của
viện kiểm sát nhân dân, Tạp chí Kiểm sát. Số 14/2011; Trần Quốc Vượng (2009),
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Tạp chí
Kiểm sát. Số 9; Nguyễn Ngọc Chí (2013), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề Cải cách tư pháp và pháp
luật. Bài viết bàn về quan điểm cải cách với các nội dung về vị trí của VKS trong cơ
cấu tổ chức quyền lực nhà nước ta; chức năng của VKS; cơ cấu tổ chức của VKS và
hoạt động của VKS; Hồ Đức Anh (2012), Hoàn thiện các quy phạm hiến định về tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư
pháp, Tạp chí Kiểm sát, Số 13; Mai Thị Nam (2012), Kiến nghị sửa đổi, bổ sung
một số chế định của pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Số 23; Nguyễn Thị Thu Huyền (2017), Pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
Các nghiên cứu đều khẳng định VKS có hai chức năng là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; ngoài ra, còn nghiên cứu thực trạng pháp
luật về tổ chức, hoạt động của VKSND ở Việt Nam hiện nay; từ đó đề xuất quan
điểm và giải pháp nhằm nâng cao tổ chức, hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân.
* Nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong từng giai đoạn tố tụng
có các nghiên cứu sau: Bùi Ngọc Tú (2013), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi kiểm sát điều tra, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Đặng Văn
Thực (2014), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai
Nguyễn Minh Đức (2006), Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần cải cách tư pháp,
ngày 11/7/2018.
1


4


đoạn khởi tố vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Giáp
Thị Nhung (2015), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội; Phạm Anh Đức
(2016), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
Các luận văn trên trình bày một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong một giai đoạn tố tụng cụ thể; phân tích quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn đó; đánh giá
thực trạng thực hiện, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực thi
pháp luật về vấn đề này.
Ngoài ra còn một số bài viết như: Nguyễn Tấn Hảo (2013), Đề xuất hoàn
thiện các quy định về nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong Bộ luật tố tụng
hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 19. Bài viết trình bày một số điểm vướng
mắc, bất cập lớn, điển hình của BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và nêu ra một số kiến nghị,
định hướng phục vụ việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS trong thời gian tới; Nguyễn
Minh Đức (2016), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
và vấn đề nâng cao chất lượng bản cáo trạng, Tạp chí Kiểm sát, Số 16. Bài viết trao
đổi về những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS theo quy định của BLTTHS 2015 được
quy định trong giai đoạn truy tố và một số ý kiến về nâng cao chất lượng bản cáo
trạng do VKS ban hành.
* Nghiên cứu về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
một giai đoạn trên một địa bàn cụ thể như: Dương Phi Hùng (2017), Nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện Kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại
học Luật Hà Nội; Nguyễn Tiến Đại, (2017), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm
sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.



5

Hai luận văn trên nghiên cứu một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phân tích,
đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội; từ đó đưa ra
một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
* Nghiên cứu về chức năng, thẩm quyền của viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố có các nghiên cứu sau:
- Nguyễn Thị Thanh Huyền (2015), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn truy tố, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội. Luận văn trình bày
một số vấn đề chung và quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong BLTTHS năm
2003 về chức năng của Viện Kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Phân tích thực trạng
thực hiện, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chức năng của VKS
trong giai đoạn truy tố.
- Vũ Đức Ninh (2013), Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy
tố, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn
nghiên cứu thẩm quyền VKS trong giai đoạn truy tố theo quy định BLTTHS năm.
Xem xét thực tiễn thi hành những quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện
kiểm sát trong giai đoạn truy tố trên một địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đề xuất một số
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vai trò cũng như vị trí của Viện kiểm sát trong
giai đoạn truy tố.
Những công trình khoa học, những bài viết trên đã tập trung nghiên cứu về tổ
chức, hoạt động, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND nói chung và một số công
trình, bài viết nghiên cứu về chức năng hoạt động của VKS trong giai đoạn truy tố
theo quy định của BLTTHS năm 2003. Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai
đoạn truy tố theo quy định của BLTTHS năm 2015 chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện, cụ thể và mang tính hệ thống. Hiện nay, chưa có nghiên

cứu nào đánh giá tổng thể quy định của BLTTHS năm 2015 đã khắc phục những


6

hạn chế nào trong quy định của BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS trong giai đoạn truy tố, từ đó đề xuất những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận chung và quy định của
BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố, trên
cơ sở khảo sát thực tiễn thực hiện pháp luật, luận văn đưa ra giải pháp nhằm bảo
đảm việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong giai đoạn truy tố.
- Nghiên cứu, phân tích các quy định của BLTTHS năm 2015 và quy định
pháp luật khác về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn
truy tố, xác định nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực thi và đề xuất
các giải pháp đảm bảo chất lượng hoạt động của VKS trong giai đoạn truy tố.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: một số vấn đề lý luận chung; quy định của BLTTHS
năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố và thực tiễn
thực thi các quy định này.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản, các quy định
của BLTTHS năm 2015 và quy định pháp luật khác có liên quan về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố mà không nghiên cứu quy định của pháp
luật nước ngoài về vấn đề này; thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 về việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố từ năm 2013 đến năm
2017 và có đánh giá riêng 06 tháng đầu năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


7

Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp luật. Các giải pháp luận văn đưa
ra nghiên cứu dựa trên những quan điểm định hướng chỉ đạo, những nguyên tắc
pháp lý của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương
pháp phân tích, tổng hợp để làm rõ các vấn đề lý luận chung cũng như quy định của
pháp luật; Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng để nêu rõ số liệu thực tiễn
thực hiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận như: khái quát khái niệm
quyền công tố, thực hành quyền công tố, kiểm sát trong hoạt động tư pháp; xây
dựng khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu,
giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật và sử dụng tham khảo đối với những
người làm công tác thực tiễn liên quan đến vấn đề đề tài nghiên cứu.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về nhiệm vụ,

quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
Chương 3: Thực tiễn thực hiện và một số giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố


8

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn
truy tố
Tố tụng hình sự Việt Nam được xác định như một hệ thống các giai đoạn gắn
liền với hoạt động đặc trưng của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến
hành hoạt động tố tụng và hoạt động của người tham gia tố tụng khác mà giai đoạn
trước là tiền đề của giai đoạn sau và giai đoạn sau là hệ quả của giai đoạn trước.2
Truy tố là một thuật ngữ pháp lý có thể được xem xét dưới nhiều góc độ
khác nhau: là một giai đoạn tố tụng, một hành vi tố tụng hay một quyết định tố tụng.
Dưới góc độ là một hành vi tố tụng, truy tố là việc VKS ban hành bản cáo
trạng hay quyết định truy tố (khi vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn) đưa bị can và
hành vi phạm tội của họ ra trước tòa án để xét xử theo trình tự sơ thẩm.3
Dưới góc độ là một quyết định tố tụng, truy tố là văn bản áp dụng pháp luật,
trong đó viện kiểm sát quyết định truy tố một (hoặc nhiều) bị can, về một (hoặc
nhiều) hành vi phạm tội mà có căn cứ cho rằng bị can (hoặc các bị can) đó đã thực
hiện ra trước tòa án để xét xử.4
Đề tài đề cập truy tố dưới góc độ là một giai đoạn tố tụng. Việc tiếp cận truy
tố dưới góc độ này là phù hợp với quy định của BLTTHS năm 2015 khi tách truy tố
khỏi phần điều tra và xây dựng thành một phần độc lập (Phần thứ ba). Đây không
chỉ đơn thuần là thay đổi có tính kỹ thuật mà là cơ sở để hoàn thiện các quy định về
truy tố với ý nghĩa là một giai đoạn tố tụng hình sự.

Về bản chất pháp lý của truy tố, với tính chất là một giai đoạn độc lập của
hoạt động tố tụng hình sự, giai đoạn truy tố có nhiệm vụ kiểm tra lại tính hợp pháp
và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà Cơ quan điều tra (CQĐT) có thẩm
Nguyễn Thị Thu Huyền (2017), Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 5.
3
Mai Thanh Hiếu (2017), Giới hạn xét xử sơ thẩm theo truy tố, Tạp chí Luật học, Số 3, tr. 18-27.
4
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (tái bản lần thứ 14 có sửa
đổi, bổ sung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 386.
2


9

quyền đã áp dụng để bảo đảm ra quyết định truy tố cũng như các quyết định tố tụng
khác của VKS là có căn cứ và hợp pháp, góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Giai đoạn truy tố bắt đầu từ khi VKS nhận
được bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, hồ sơ vụ án hình sự do CQĐT chuyển
đến và kết thúc bằng việc VKS ra một trong các quyết định: Truy tố bị can trước
Tòa án bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố; Trả lại hồ sơ để điều tra bổ
sung; Đình chỉ vụ án; Tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Giai đoạn truy tố có ý nghĩa quan trọng:
- Xác lập cơ sở pháp lý để tòa án cấp sơ thẩm quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Luật tố tụng hình sự quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Chức
năng của tòa án là xét xử. Tuy nhiên, đối với các vụ án hình sự, tòa án chỉ có thể
thực hiện chức năng này khi có quyết định truy tố của VKS (căn cứ theo Điều 298
BLTTHS năm 2015). Như vậy, giai đoạn truy tố là tiền đề của giai đoạn xét xử, nếu
VKS không truy tố thì tòa án không có cơ sở pháp lý để quyết định mở phiên tòa

xét xử đồng thời quyết định truy tố của VKS cũng xác định phạm vi xét xử, thẩm
quyền và giới hạn xét xử của tòa án. Việc truy tố của VKS kịp thời, chính xác sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm.5
- Góp phần kịp thời sửa chữa và khắc phục những thiếu sót cũng như vi
phạm pháp luật của CQĐT trong quá trình điều tra vụ án hình sự. Cùng với việc
nghiên cứu hồ sơ xác định căn cứ ban hành cáo trạng, quyết định truy tố đối với bị
can, VKS còn trực tiếp kiểm tra, xem xét phát hiện những thiếu sót hay vi phạm
pháp luật của CQĐT, kịp thời sửa chữa hoặc đề nghị sửa chữa và khắc phục những
thiếu sót và vi phạm đó. Nếu phát hiện việc điều tra chưa đầy đủ, chưa làm rõ
những chứng cứ quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến nội dung vụ án hay có vi
phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra… thì VKS quyết định
trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; nếu phát hiện có những căn cứ không cho phép

5

Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd 4, tr. 369


10

tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với bị can hay trường hợp theo quy
định của pháp luật xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với bị can thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ án để bảo vệ quyền lợi cho bị can,…6
Do vậy, có thể hiểu truy tố là một giai đoạn trong tố tụng hình sự, trong đó
VKS tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm đưa bị can ra trước tòa án để xét xử
hoặc đưa ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.7
Trong khoa học pháp lý, “thẩm quyền”, “nghĩa vụ”, “nhiệm vụ” là các khái
niệm khác nhau. Vấn đề thẩm quyền chỉ được đặt ra khi xã hội có nhà nước vì lúc
đó quyền lực nhà nước được giao cho những cơ quan, tổ chức, cá nhân cụ thể thực

hiện quyền lực đó. Như vậy, quyền lực của nhà nước thuộc về ai, với phạm vi và
mức độ như thế nào chính là nội dung của thẩm quyền.8 Mỗi cơ quan nhà nước đều
có thẩm quyền nhất định do nhà nước quy định, đó là tổng thể các quyền và nghĩa
vụ pháp lý mà nhà nước trao cho để thực hiện một phần những nhiệm vụ, quyền hạn
của Nhà nước.9 Theo đó, “thẩm quyền” là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành
động, quyết định của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước do pháp luật quy
định.10 Khái niệm “thẩm quyền” bao hàm hai nội dung chính là quyền hành động và
quyền quyết định. Quyền hành động là quyền được làm những công việc nhất định,
còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp luật
cho phép.11 Nghĩa vụ là việc mà theo đó một chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức)
phải thực hiện hoặc không thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật. Còn
theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhiệm vụ” là công việc phải làm, phải gánh vác.12
Theo cách giải nghĩa này, “nhiệm vụ” nói chung là công việc mang tính bắt buộc
đối với chủ thể phải thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách của
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd 4, tr. 369
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd 4, tr. 367.
8
Vũ Đức Ninh (2013), Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 11.
9
Bùi Ngọc Tú (2013), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 8
10
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển luật học, NXB Bách Khoa, Hà Nội, tr. 254.
11
Đặng Văn Thực (2014), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 9.
12
Viện ngôn ngữ học (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa- thông tin- trung tâm ngôn ngữ và văn
hóa Việt Nam, Hà Nội, tr 1251.

6
7


11

chủ thể đó trong mối quan hệ xã hội tham gia và được pháp luật quy định. Như vậy,
nhiệm vụ của cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng được hiểu
là những hoạt động cụ thể của từng cơ quan đó, trong một thời gian nhất định nhằm
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành để cùng thực hiện nhiệm vụ chung của cả
bộ máy nhà nước là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật chống mọi hành vi
phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “quyền hạn” được hiểu là quyền theo cương vị,
chức vụ cho phép.13 Dưới góc độ pháp lý, “quyền hạn” của một cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức
vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định
của pháp luật.14 Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể.
Trong khoa học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ
máy nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn
của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi nhiệm
vụ của cá nhân người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó.
Nhiệm vụ và quyền hạn là hai khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, khái niệm
nhiệm vụ và quyền hạn đặt trong một điều kiện với một chủ thể xác định thì nhiệm
vụ và quyền hạn là tương đối thống nhất. Pháp luật quy định nhiệm vụ VKS phải
thực hiện những công việc gì, đồng nghĩa là pháp luật trao cho VKS những quyền
hạn để thực hiện nhiệm vụ đó.15 Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
là những hoạt động, những quyền năng pháp lý cụ thể của VKS trong một thời gian

nhất định nhằm thực hiện chức năng của ngành mình để cùng thực hiện chức năng
chung của cả bộ máy nhà nước trên cơ sở quy định của của Hiến pháp và pháp luật.
Viện ngôn ngữ học (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa- thông tin- trung tâm ngôn ngữ và văn
hóa Việt Nam, Hà Nội, tr 1384.
14
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển luật học, NXB Bách Khoa, Hà Nội , tr.459.
15
Nguyễn Tiến Đại, (2017), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 18.
13


12

Giữa “nhiệm vụ” và “quyền hạn” của VKS có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ không thể tách rời. Bản thân trong nhiệm vụ đã chứa đựng quyền hạn và ngược
lại. Khi pháp luật quy định cho VKS một nhiệm vụ thì cũng sẽ trao cho VKS những
quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ đó. Ngược lại, nếu VKS có thể sử dụng
quyền hạn trong giải quyết một vụ án hình sự cụ thể thì cũng có nghĩa là VKS đã
được pháp luật quy định cho nhiệm vụ nhất định để giải quyết vụ án đó và phải thực
hiện các hoạt động đầy đủ nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác. Mối quan
hệ giữa nhiệm vụ của VKS và quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố cũng
không ngoại lệ, khi pháp luật quy định cho VKS những nhiệm vụ nhất định trong
giai đoạn truy tố thì đồng thời cũng trao cho VKS những quyền hạn để thực hiện
nhiệm vụ đó. Mối quan hệ này có ý nghĩa cả về mặt lý luận và trong hoạt động thực
tiễn. Việc nhận thức, sử dụng đúng quyền hạn theo nhiệm vụ, đúng đối tượng, đúng
mục đích có tác dụng giúp cho VKS phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Có thể nói,
nhiệm vụ và quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố là hai bộ phận không thể
tách rời trong quy định về địa vị pháp lý của VKS cũng như việc thực hiện các quy
định này trong thực tiễn. Việc thực hiện quyền cũng đồng thời là việc thực hiện

nhiệm vụ của VKS và ngược lại.
Trên thế giới, khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố đã xuất
hiện từ rất sớm, gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển của nhà nước và pháp luật.
Quyền công tố gắn liền với sự phát triển khoa học pháp lý khi mà khái niệm dân
chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần phải có một cơ quan thay mặt nhà
nước đứng ra bảo vệ quyền bị xét xử bởi cơ quan tư pháp. Với việc tách tòa án ra
khỏi cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì lịch sử
công tố mới xuất hiện, tuy không xuất hiện cùng nhà nước nhưng lịch sử công tố
gắn liền với sự phát triển của nhà nước và sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà
nước, gắn liền với sự phát triển của văn minh pháp luật.
Theo từ điển Tiếng Việt, “công tố” có nghĩa là điều tra, truy tố và buộc tội kẻ
phạm pháp trước Tòa án.16 Nội dung cơ bản của quyền công tố đó là quyền truy cứu

16

Viện ngôn ngữ học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội, tr.436.


13

trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra trước Tòa án. Viện kiểm sát nhân dân
là cơ quan duy nhất ở nước ta được nhà nước ủy quyền thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội ra trước Tòa án.
Từ những phân tích trên có thể hiểu “quyền công tố” như sau: quyền công tố
là quyền của Viện kiểm sát được nhà nước uỷ quyền thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước tòa án và
đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó.
Với khái niệm quyền công tố như trên, phạm vi thực hiện quyền này bắt đầu
từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố và kết thúc khi bản
án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Để đảm bảo thực hiện quyền công

tố trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, Nhà nước đã ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố giao cho VKS thực hiện.
Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định về chức năng của VKSND
đã xác định rõ: Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp.
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.17 Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội, pháp nhân phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
kịp thời nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người
vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị
bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.18
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác,
17
18

Xem Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 2014
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd 4, tr. 99.


14

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình
sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.19
Hoạt động tố tụng của cơ quan tố tụng được thực hiện qua hoạt động của
người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, người tham gia và cá nhân, tổ chức khác có
liên quan đến việc giải quyết vụ án, vụ việc cũng là những chủ thể có vị trí, vai trò
tác động nhất định đến quá trình tố tụng. Để đảm bảo các chú thể tiến hành hay
tham gia tố tụng đều thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật thì cần phải có sự giám sát
thường xuyên, kịp thời, kiến nghị khắc phục khi có vi phạm xảy ra.20 Như vậy, kiểm
sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động của VKSND để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Viện kiểm
sát kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án
hình sự được thực hiện đúng theo quy định pháp luật; bảo đảm mọi vi phạm pháp
luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lí kịp thời, nghiêm minh.21
Kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong lĩnh vực tư
pháp hình sự luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với nhau,
nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược
lại, kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia. Tính
độc lập của hai chức năng này chỉ là tương đối, trong một số trường hợp khó có thể
phân định cụ thể và rõ ràng giữa hai chức năng này.22 Mối quan hệ biện chứng giữa
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ song song tồn

Xem Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014.
Nguyễn Thị Thu Huyền (2017), Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 8.
21
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd 4, tr. 101.
22
Nguyễn Thị Thanh Huyền (2015), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố, Luận văn thạc sĩ

Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 14.
19
20


15

tại trong phạm vi bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự cho đến khi bàn án có hiệu
lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Trong giai đoạn truy tố, để thực hiện tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
khi thực hành quyền công tố, đó là quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu CQĐT truy nã bị can; quyết định khởi tố,
quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can… được
chính xác, đúng pháp luật, đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp
pháp của các quyết định tố tụng và hoạt động tố tụng mà CQĐT và các cơ quan có
thẩm quyền quyết định áp dụng, hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp hay VKS cũng đang thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình khi kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Trên cơ sở kết quả của việc thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố, thấy rằng các quyết
định tố tụng, hoạt động tố tụng của CQĐT và cơ quan có thẩm quyền là không có
căn cứ và không hợp pháp thì VKS sẽ quyết định hủy bỏ quyết định tố tụng trái
pháp luật của CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay các hoạt động tố
tụng trái pháp luật đó.
Ngược lại, với việc thực hiện tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm
sát trong giai đoạn truy tố sẽ làm tiền đề cho hoạt động thực hành quyền công tố
trong giai đoạn truy tố được thực hiện một cách chính xác, đúng pháp luật. Ví dụ:
VKS có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT trong
giai đoạn truy tố, trong quá trình kiểm sát, nếu phát hiện ra việc áp dụng biện pháp
tạm giam của CQĐT là không cần thiết thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn và thông báo cho Cơ quan điều tra. Như vậy, VKS lúc này

chính là đang thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn truy tố.
Trong giai đoạn truy tố, VKS thực hiện cả hai chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với bị can trước Tòa án là có căn cứ, đúng pháp luật. Để đảm bảo
việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,


16

BLTTHS và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể những nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát. Từ các phân tích trên, tác giả đưa ra khái niệm nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố như sau: “Nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố là hệ thống những hoạt động mà Viện
kiểm sát phải tiến hành và những quyền năng pháp lý được pháp luật quy định
nhằm quyết định truy tố bị can ra trước tòa án để xét xử hoặc ra những quyết định
tố tụng khác có căn cứ, đúng pháp luật để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.”.
1.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát trong giai đoạn truy tố
1.2.1. Cơ sở của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố
Căn cứ vào chức năng cơ bản của tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự có ba chức năng cơ bản là chức năng buộc tội, chức năng gỡ
tội và chức năng xét xử. Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức
năng buộc tội. Chức năng này đối lập và song song tồn tại với chức năng gỡ tội với
nội dung phát hiện tội phạm và chứng minh lỗi của người thực hiện tội phạm.23
Chức năng này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố đến các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.24
Căn cứ vào vị trí, chức năng của VKS trong tổ chức bộ máy nhà nước
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân,
nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua cơ quan đại diện dân cử. Bộ máy
nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực nhà nước là thống nhất
nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.25
Giáp Thị Nhung (2015), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.8
24
Nguyễn Văn Huyên, Lê Lan Chi (chủ biên) (2016), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, Nxb Lao
động, Hà Nội, tr.26.
25
Xem Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
23


17

Mỗi cơ quan Nhà nước được pháp luật quy định chức năng nhất định để thực hiện
quyền lực nhà nước thống nhất.26 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được Hiến
pháp quy định hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm
do luật định.27
Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình
sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Viện kiểm sát kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi

phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc
vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Như vậy, xuất phát từ chức
năng này mà pháp luật trao cho VKS những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể để thực
hiện chức năng của mình. Trong giai đoạn truy tố, VKS thực hiện những nhiệm vụ,
quyền hạn để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật nhằm đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Căn cứ vào nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là những định hướng chi phối tất
cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận.
Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
trong tố tụng hình sự. Các nguyên tắc này không chỉ định hướng cho hoạt động tố
tụng hình sự mà còn định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong thực tiễn.28 Các
nguyên tắc cơ bản được quy định trong BLTTHS. Ngoài ra, một số nguyên tắc còn
Phạm Anh Đức (2016), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr. 17.
27
Xem Điều 107, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
28
Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Tlđd 4, tr. 43-44.
26


18

được ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác liên quan như Luật tổ chức tòa án
nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân,… Việc quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS trong giai đoạn truy tố xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự như nguyên tắc: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự;

Trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự; Trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng…
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giai đoạn truy tố
Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong giai đoạn truy tố có ý nghĩa
rất quan trọng cho quá trình giải quyết vụ án cũng như việc thực hiện chức năng của
VKS. Cụ thể:
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố tạo cơ sở
pháp lý để VKS tăng cường vai trò, trách nhiệm, thực hiện hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn truy tố nói riêng, đảm
bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, xác định đúng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố giúp việc ra
các quyết định của VKS có căn cứ và đúng pháp luật, giúp cho việc truy tố đạt chất
lượng, hiệu quả cao hơn, qua đó đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử công minh,
khách quan, toàn diện; góp phần đảm bảo cho việc VKS kiểm tra lại tính hợp pháp
và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã áp dụng
nhằm kịp thời sửa chữa, khắc phục hoặc đề nghị CQĐT sửa chữa, khắc phục những
thiếu sót, vi phạm trong quá trình trên để loại trừ những hậu quả tiêu cực của các sai
lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước đó; hạn
chế được những điểm chưa thống nhất về quan điểm đối với việc giải quyết vụ án
giữa CQĐT và VKS, giữa VKS và Tòa án; hạn chế được những trường hợp Kiểm
sát viên (KSV) bị động, lúng túng trước những diễn biến tại phiên tòa nhất là trong
phần tranh luận. Việc truy tố đạt kết quả tốt và hạn chế được những khiếm khuyết
nêu trên sẽ góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động của VKS nói


19

riêng và các cơ quan tư pháp nói chung; góp phần vào việc giáo dục ý thức pháp

luật cho nhân dân, qua đó góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự, an
toàn xã hội, tăng cường hiệu quả của công tác phòng ngừa tội phạm.
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố còn khẳng
định mối quan hệ và trách nhiệm phối hợp giữa Viện kiểm sát và các cơ quan tiến
hành tố tụng khác trong giai đoạn này cũng như với cơ quan, tổ chức hữu quan
trong việc phòng ngừa tội phạm.
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố góp phần
tăng cường pháp chế, đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong công tác truy tố để đáp
ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, góp phần bảo vệ các
quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi xét xử tại Tòa án.
- Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố góp phần
có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của Tòa án, loại trừ những
thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do việc xét xử thiếu công
minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội,
pháp nhân phạm tội; không làm oan người vô tội; tránh vụ án phải xét xử lại nhiều
lần; từ đó vụ án được giải quyết nhanh hơn, tiết kiệm kinh phí của Nhà nước, kịp
thời phục vụ yêu cầu chính trị địa phương.
Kết luận chương 1
1. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về giai đoạn truy tố, nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS, tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa “nhiệm vụ của Viện kiếm
sát trong giai đoạn truy tố” và “quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy
tố”. Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố cũng phải
phù hợp với chức năng của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Do đó, tác giả phân tích, làm rõ các khái niệm về quyền
công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp và chỉ ra mối
liên hệ giữa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn truy tố và nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát trong



×