Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Đảm bảo quyền trẻ em trong thực tiễn xác lập quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện nuôi con nuôi ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.05 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ VIỆT TRINH

ĐẢM BẢO QUYỀN TRẺ EM TRONG THỰC TIỄN
XÁC LẬP QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON DỰA TRÊN
SỰ KIỆN NUÔI CON NUÔI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Thị Mừng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được


trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Việt Trinh


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện Luận văn thạc sĩ, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện nhiệt tình và quý báu của nhiều cá nhân
và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Bùi Thị Mừng đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ trong suốt thời gian nghiên cứu luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô trong Khoa đào tạo Sau đại học đã
tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong suốt quá trình học tập và thực hiện
luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng hoàn thiện luận văn bằng nhiệt huyết và năng lực
của mình, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong nhận được sự chỉ bảo và thông cảm của các Thầy cô.
Tôi xin trân trọng cám ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Việt Trinh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
: Bộ luật Dân sự
: Bộ luật Lao động năm 2012
: Bộ luật Hình sự năm 2015

: Trách nhiệm hình sự
: Ủy ban nhân dân
: Công ước La Hay năm 1993 về Bảo vệ trẻ em và
Hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.
: Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989
Công ước về quyền trẻ em
: Luật Nuôi con nuôi năm 2010
Luật nuôi con nuôi
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP : Nghị định 19/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 21
tháng 03 năm 2011 quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Nuôi con nuôi
BLDS
BLLĐ 2012
BLHS 2015
TNHS
UBND
Công ước La Hay


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ............................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................2
3. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu đề tài ...................................................................4
3.1 Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................4
3.2 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................4
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................5
6. Kết cấu luận văn ..................................................................................................5
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN TRẺ EM TRONG

VIỆC XÁC LẬP QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON DỰA TRÊN SỰ KIỆN
NUÔI CON NUÔI ......................................................................................................6
1.1 Một số khái niệm ...............................................................................................6
1.1.1 Khái niệm trẻ em .........................................................................................6
1.1.2 Khái niệm quyền trẻ em .............................................................................11
1.1.3 Khái niệm đảm bảo quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi .................................................................................................15
1.2 Cơ sở của việc ghi nhận đảm bảo quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi ................................................................................16
1.2.1 Cơ sở lý luận..............................................................................................16
1.2.2 Cơ sở thực tiễn ..........................................................................................20
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN TRẺ EM TRONG
VIỆC XÁC LẬP QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ CON DỰA TRÊN SỰ KIỆN NUÔI
CON NUÔI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG................................................................24
2.1 Thực tiễn đảm bảo quyền được sống trong môi trường gia đình của trẻ em...24
2.1.1 Nguyên tắc xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi ......................24
2.1.2 Điều kiện xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi ........................33
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi .....................................41
2.1.4 Chấm dứt việc nuôi con nuôi .....................................................................43


2.2 Thực tiễn đảm bảo quyền được tham gia của trẻ em .......................................44
2.2.1 Trẻ em được hỏi ý kiến khi xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
............................................................................................................................45
2.2.2 Trẻ em có quyền bày tỏ nguyện vọng đối với việc giải quyết lựa chọn
người trực tiếp nuôi con trong trường hợp cha mẹ nuôi ly hôn .........................47
2.3 Thực tiễn áp dụng việc xử lý vi phạm quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi ................................................................................49
2.3.1 Thực tiễn xử lý vi phạm về điều kiện nuôi con nuôi ..................................49
2.3.2 Thực tiễn xử lý vi phạm các quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ

nuôi đối với con nuôi ..........................................................................................51
Chương 3: BẤT CẬP, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẢM
BẢO QUYỀN TRẺ EM TRONG VIỆC XÁC LẬP QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ
VÀ CON DỰA TRÊN SỰ KIỆN NUÔI CON NUÔI ..............................................56
3.1 Nhận xét chung về thực tiễn đảm bảo quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ
giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện nuôi con nuôi ..............................................56
3.1.1. Những thành tựu đạt được .......................................................................56
3.1.2 Những hạn chế, bất cập .............................................................................63
3.2 Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập .......................................................68
3.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc đảm bảo quyền trẻ em trong việc
xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi ......................................................70
3.3.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật .................................................................70
3.3.2 Kiến nghị thực hiện pháp luật ...................................................................72
KẾT LUẬN ...............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................76


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trẻ em là đối tượng nhạy cảm, dễ bị tổn thương, là một chủ thể đặc biệt
trong xã hội cần có sự quan tâm đúng mực, bảo vệ quyền trẻ em là đích đến
hướng tới của pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng. Gia
đình là nơi hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em, tuy nhiên không phải
trẻ em nào cũng may mắn được sống với gia đình của mình và được phát triển
một cách toàn diện.
Nuôi con nuôi là một chế định pháp lý nhằm tạo dựng cho những trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn tìm được một mái ấm gia đình, đồng thời thiết lập
mối quan hệ cha, mẹ, con lâu dài giữa người nhận con nuôi và người được nhận

làm con nuôi. Có thể nói, chế định nuôi con nuôi thể hiện tính nhân đạo sâu sắc,
là một biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em, giúp trẻ được sống
trong mái ấm gia đình, được quan tâm, nuôi dưỡng và chăm sóc đầy đủ, đồng
thời bảo vệ trẻ em khỏi sự lạm dụng, đối xử tồi tệ trong và sau khi được nhận
nuôi.
Với ý nghĩa đó, nuôi con nuôi thực sự trở thành mối quan tâm đặc biệt của
cộng đồng quốc tế. Pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia đều
hướng tới mục đích duy nhất là nhằm bảo vệ các quyền được sống trong môi
trường gia đình của trẻ em. Do đó, nghiên cứu nội dung cũng như thực tiễn áp
dụng các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành, các Hiệp định hợp tác nuôi
con nuôi mà Việt Nam đã tham gia, ký kết nhằm mục đích rút ra những bài học
kinh nghiệm, để hoàn thiện hành lang pháp lý trong việc đảm bảo quyền trẻ em
trong việc xác lập quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện nuôi con nuôi.
Ở Việt Nam, Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi đã được ghi
nhận cụ thể trong pháp luật. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng và giải quyết các
vấn đề liên quan đến quan hệ này đã bộc lộ những điểm còn hạn chế, vướng
mắc, chưa thật sự đảm bảo được quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi.


2

Từ yêu cầu khách quan về lý luận cũng như thực tiễn, học viên đã lựa chọn
đề tài: “Đảm bảo quyền trẻ em trong thực tiễn xác lập quan hệ giữa cha mẹ và
con dựa trên sự kiện nuôi con nuôi ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi là vấn đề đã được nhiều
tác giả nghiên cứu ở các góc độ và khía cạnh khác nhau. Trên phương diện khoa
học pháp lý, từ khi Luật Nuôi con nuôi được ban hành, có một số công trình
nghiên cứu có đề cập đến khía cạnh này, cụ thể là:

- Đề tài “Bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam hiện nay” (2010), Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Hồng
Trinh. Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập,
nghiên cứu về bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi quốc tế.
- Đề tài “Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi theo pháp luật
Việt Nam” (2011), Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Hải. Luận văn
nghiên cứu về quyền trẻ em trong hệ thống pháp luật thế giới và pháp luật Việt
Nam, phân tích pháp luật nuôi con nuôi từ góc độ quyền trẻ em, từ đó đưa ra một
số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi.
- Đề tài “Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi – một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” (2013), Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Hiến. Luận văn
phân tích về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam và
Luật Nuôi con nuôi, qua đó nêu ra những điểm còn bất cập.
- Đề tài: “Điều kiện nuôi con nuôi – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
(2014), Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thúy Hằng. Luận văn phân tích
về điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi và một vài nét về thực tiễn
thực hiện các điều kiện nuôi con nuôi.
- Đề tài: “Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo pháp luật Việt Nam” (2014),
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Kiều Thị Huyền Trang tại Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Luận văn phân tích hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
thông qua quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, qua đó chỉ ra những hạn chế và
biện pháp nâng cao hiệu quả thực hiện của các quy định của pháp luật nuôi con
nuôi.


3

- Số chuyên đề “Pháp luật về nuôi con nuôi” của Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật – Bộ tư pháp tháng 7 năm 2018, đưa ra những nội dung đánh giá tình hình

thực hiện pháp luật nuôi con nuôi, đặc biệt là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
trong những năm qua tại một số địa phương và đưa ra một số giải pháp giải
quyết vướng mắc.
- Bài viết “Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế - so sánh với pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi”
của tác giả Nguyễn Hồng Bắc đăng trên Tạp chí Luật học (Số 4/2011). Bài viết
phân tích những quy định của Công ước Lahay trên tương quan so sánh với pháp
luật Việt Nam về nuôi con nuôi, từ đó tìm ra điểm tương đồng và sự khác biệt
của pháp luật Việt Nam so với Công ước.
- Bài viết “Về việc nuôi con nuôi giữa bố dượng hoặc mẹ kế và con riêng của
vợ hoặc chồng theo Luật nuôi con nuôi” của tác giả Nguyễn Thị Lan đăng trên
Tạp chí Luật học (Số 8/2011). Bài viết đưa ra những điều kiện cũng như ngoại lệ
khi bố dượng hoặc mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng xác lập quan hệ nuôi
con nuôi, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế của pháp luật trong quy định này.
Từ đó đưa ra một số định hướng hoàn thiện quy định của Luật nuôi con nuôi.
- Bài viết “Vấn đề vi phạm quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi” của
tác giả Nguyễn Phương Lan đăng trên Tạp chí Luật học (Số 1/2012). Bài viết
đưa ra nhận định về quyền trẻ em, vi phạm quyền trẻ em và một số dạng hành vi
vi phạm quyền của trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi, đồng thời phân tích một
số biện pháp xử lí.
- Bài viết “Hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo
Luật nuôi con nuôi” của tác giả Nguyễn Phương Lan đăng trên Tạp chí Luật học
(Số 5/2012). Bài viết khái quát pháp luật điều chỉnh hệ quả pháp lý việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài, trọng tâm là Luật nuôi con nuôi, từ đó đưa ra một số
nhận xét và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
- Bài viết “Những bất cập về điều kiện nuôi con nuôi trong Luật Nuôi con
nuôi năm 2010” của tác giả Nguyễn Phương Lan đăng tải tại Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật - Viện Nhà nước và Pháp luật (Số 8/2017). Bài viết đã phân tích
những điểm bất cập và hướng hoàn thiện các quy định về điều kiện nuôi con



4

nuôi trong Luật Nuôi con nuôi năm 2010 nhằm đảm bảo hiệu quả của việc nuôi
con nuôi.
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu bảo đảm quyền của trẻ em
trong lĩnh vực nuôi con nuôi dưới góc độ phân tích chế định pháp lý chứ không
đi sâu vào đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về đảm bảo quyền
trẻ em trong việc xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.
Vì vậy, tác giả công trình này sẽ tiếp cận và nghiên cứu chuyên sâu về bảo
vệ quyền trẻ em trong thực tiễn xác lập quan hệ cha, mẹ nuôi và con nuôi – nội
dung mà các công trình trên chưa đề cập một cách toàn diện.
3. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn của tác giả hướng tới mục tiêu sau:
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền trẻ em trong việc xác
lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi;
+ Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt
Nam từ góc độ bảo vệ quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi
và con nuôi;
+ Nhận diện những bất cập, hạn chế từ thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ
quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện
nuôi con nuôi;
+ Đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền trẻ
em trong việc xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, nâng cao hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật về nuôi con nuôi.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực tiễn bảo đảm quyền trẻ em trong việc
xác lập quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi tại Việt Nam kể từ khi Luật Nuôi
con nuôi có hiệu lực pháp luật.

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của
của Đảng về quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em; chính sách pháp luật của Nhà
nước về bảo vệ quyền trẻ em.


5

Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như
phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp…để làm sáng tỏ các nội
dung nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn có một số điểm mới như sau:
- Nghiên cứu, các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi từ góc
độ bảo vệ quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi;
- Đánh giá được những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế về đảm
bảo quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi;
- Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả bảo vệ
tốt nhất quyền của trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
phần chính như sau:
Chương 1: Khái quát chung về đảm bảo quyền trẻ em trong việc xác lập
quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện nuôi con nuôi
Chương 2: Pháp luật Việt Nam về đảm bảo quyền trẻ em trong việc xác lập
quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện nuôi con nuôi và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Bất cập, hạn chế và giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền
trẻ em trong việc xác lập quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện nuôi con
nuôi



6

Chương 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN TRẺ EM TRONG
VIỆC XÁC LẬP QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON DỰA TRÊN SỰ
KIỆN NUÔI CON NUÔI
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm trẻ em
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” là khẩu hiệu mà các quốc gia và cộng
đồng quốc tế hướng tới nhằm mục đích là chăm sóc, bảo vệ tương lai của mỗi
quốc gia nói riêng và cả nhân loại nói chung. Trẻ em là lực lượng chủ chốt,
quyết định tương lai, vị thế của mỗi dân tộc. Nói cách khác, tương lai của mỗi
dân tộc và toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ. Ở Việt
Nam, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được Đảng, Nhà nước
và các địa phương xem là chính sách ưu tiên hàng đầu vì mục tiêu phát triển ổn
định và lâu dài của Đất nước.
Gia đình luôn giữ vai trò hàng đầu, là yếu tố quyết định đối với việc chăm
sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em. Trẻ em là thành phần quan trọng cấu thành gia
đình. Quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng chính là những mối quan hệ
cơ bản tạo nên gia đình. Cha mẹ và các thành viên trong gia đình là những người
gần gũi, mật thiết, thường xuyên ở bên cạnh trẻ em, việc chăm sóc con trẻ không
chỉ là trách nhiệm mà còn là “bản năng”. Tuy nhiên, không phải mọi trẻ em đều
may mắn được sống và phát triển trong môi trường gia đình. Vì vậy, được nhận
làm con nuôi là cách tốt nhất để trẻ mồ côi không nơi nương tựa, trẻ bị bỏ rơi có
cơ hội được sống trong môi trường gia đình. Với ý nghĩa đó, nuôi con nuôi là
một chế định pháp lý quan trọng trong Luật Hôn nhân và gia đình, góp phần bảo
đảm tốt các quyền trẻ em, đảm bảo để trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục tốt.
Từ lâu, trẻ em đã được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương

nhất và được Nhà nước, cộng đồng quan tâm và bảo vệ. Tùy vào góc độ tiếp cận
của từng khoa học cụ thể, khái niệm trẻ em được hiểu ở nhiều cách khác nhau.
Triết học xem trẻ em là một “khâu” tất yếu trong mối quan hệ biện chứng
với tiến trình phát triển của xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ em là con


7

đẻ của thời đại, của xã hội. Sự phát triển của xã hội, tương lai của một quốc gia,
dân tộc tùy thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
Tiếp cận dưới góc độ sinh học, trẻ em là con người ở giữa giai đoạn từ
khi sinh ra và tuổi dậy thì1. Trẻ em là người phát triển chưa đầy đủ về thể chất,
trí tuệ và nhân cách… Đây là đối tượng chưa thể tự lập trong cuộc sống, cũng
như chưa có khả năng đánh giá hành vi và tự định hướng phát triển, chưa có khả
năng tự bảo vệ mình trước những tác động tiêu cực từ môi trường cũng như hành
vi xâm hại bên ngoài.
Dưới góc độ tâm lý học, trẻ em là khái niệm được dùng để chỉ giai đoạn đầu
của sự phát triển tâm lý, nhân cách của con người. Sự phát triển tâm lý, nhân
cách của trẻ em giai đoạn từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì là một trong những nội
dung quan trọng trong nghiên cứu của các nhà tâm lý học. Trẻ em dưới góc độ
tâm lý học được xác định căn cứ vào độ tuổi và tâm lý theo từng giai đoạn phát
triển. Căn cứ vào sự thay đổi cơ bản trong điều kiện sống và những thay đổi
trong cấu trúc tâm lý của trẻ và sự trưởng thành cơ thể của trẻ em, các nhà tâm lý
đã chia lứa tuổi trẻ em thành các giai đoạn khác nhau, ứng với sự phát triển và
tiếp thu nhận thức khác nhau: trẻ sơ sinh, tuổi nhà trẻ, tuổi mẫu giáo, tuổi nhi
đồng, tuổi thiếu niên, tuổi đầu thành niên2. Theo các nhà tâm lý học, giai đoạn
kết thúc của trẻ em là tuổi 18, bởi lẽ, ở độ tuổi này, trẻ đã có sự phát triển đầy đủ
về thể chất, trí tuệ, tâm hồn và đã làm chủ được ý chí, đưa ra được những ý kiến
và hành vi xử sự phù hợp.
Xã hội học xác định trẻ em là một bộ phận của cơ cấu xã hội3. Dựa vào tiêu

chí đặc điểm nhân khẩu, kết cấu xã hội được chia thành nam và nữ, người già và
người trẻ, người lớn và trẻ em, trình độ dân trí cao hay thấp. Theo tiêu chí này,
kết cấu xã hội được phân chia dựa vào giới tính, trình độ văn hóa, mức độ đóng
góp cho xã hội.
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ tuổi.
Trên cơ sở đó, pháp luật xác định năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các
chủ thể trong quan hệ pháp luật.

Xem Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, ngày 6/7/2018.
Nguyễn Ánh Tuyết (2014), “Các quy luật phát triển tâm lý trẻ”, Tâm lý học trẻ em, tr. 9-11.
3
Mai Quỳnh Nam (2004), Trẻ em – gia đình – xã hội, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.8.
1
2


8

Theo quy định tại Điều 1 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì: “Trẻ em
là những người dưới 18 tuổi trừ khi pháp luật quốc gia quy định tuổi thành niên
sớm hơn”.
Như vậy, trừ khi pháp luật quốc gia quy định tuổi thành niên sớm hơn,
những người dưới 18 tuổi đều là đối tượng được bảo vệ bởi Công ước quốc tế về
quyền trẻ em và những văn kiện bổ trợ và giải thích của Công ước.
Bên cạnh thuật ngữ “trẻ em” (child/ children) thì Công ước quốc tế về quyền
trẻ em còn sử dụng nhiều thuật ngữ để chỉ những đối tượng được bảo vệ như:
“người chưa thành niên” (juvenile), “thiếu niên” (adolescence), “người trẻ tuổi”
(youth). Các thuật ngữ này tuy khác nhau nhưng đều thể hiện mục tiêu chung
của Công ước là để bảo vệ những người dưới 18 tuổi hay những người chưa đạt
đến tuổi trưởng thành.

Trên thực tế, khi xây dựng khái niệm trẻ em, mỗi một quốc gia đều xác định
độ tuổi của trẻ em để phân biệt với người trưởng thành. Ở đa số các quốc gia trên
thế giới, mốc dưới 18 tuổi thường được sử dụng để xác định lứa tuổi trẻ em. Tuy
nhiên một số quốc gia quy định khác về độ tuổi của trẻ em, dựa trên sự phát triển
về thể chất, tâm sinh lý của trẻ em và điều kiện thực tế ở quốc gia đó.
Việc xác định rõ thời điểm bắt đầu và kết thúc giai đoạn “trẻ em” của một
người rất quan trọng bởi nó quyết định quyền và nghĩa vụ của người đó khi tham
gia vào một quan hệ pháp luật cụ thể. Công ước về quyền trẻ em nhấn mạnh:
“Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc
biệt, kể cả bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”4. Như
vậy, luật quốc tế quy định thời điểm bắt đầu giai đoạn “trẻ em” được tính từ khi
còn là bào thai.
Dưới góc độ luật học, các quốc gia xác định trẻ em thường căn cứ vào độ
tuổi bởi đây là một trong các yếu tố góp phần đánh giá từng giai đoạn phát triển
thể chất, nhận thức và tâm sinh lý của con người. Tuy nhiên ở từng quốc gia lại
có sự khác nhau về khái niệm trẻ em. Theo pháp luật tại một số quốc gia Bắc Âu

Xem Lời nói đầu Công ước La Hay năm 1993 về Bảo vệ trẻ em và Hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi
quốc tế.
4


9

như Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan…quy định trẻ em là người dưới 20 tuổi5. Ở
Liên Bang Nga, người dưới 18 tuổi là vị thành niên, bao gồm trẻ em6.
Pháp luật Việt Nam không đưa ra một định nghĩa “chung” về sự điều chỉnh
pháp luật về tuổi của trẻ em. Trong mỗi lĩnh vực cụ thể, vấn đề này lại được xem
xét phù hợp với tính chất của từng quan hệ mà “trẻ em” cần được bảo vệ. Tuy
nhiên, văn bản pháp lý chuyên biệt có định nghĩa rõ về trẻ em. Theo đó, độ tuổi

được xem là căn cứ xác định một người là trẻ em.
Pháp lệnh về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em do Ủy ban thường vụ
Quốc hội ban hành ngày 14/11/1979 đã định nghĩa trẻ em “bao gồm các em từ
mới sinh đến 15 tuổi”7. Tiếp đó, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
1991 và 2004 định nghĩa trẻ em “là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”8.
Mốc thời gian kết thúc giai đoạn trẻ em đã thay đổi từ 15 tuổi thành 16 tuổi. Như
vậy, trẻ em theo hai văn bản pháp luật này phải là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi.
Theo quy định tại Điều 1, Luật trẻ em năm 2016 thì “trẻ em là người dưới 16
tuổi”. Đây là một điểm mới của Luật trẻ em 2016 so với Luật bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em năm 2004. Luật trẻ em năm 2016 đã sửa đổi, không giới hạn
trẻ em là công dân Việt Nam mà còn bao gồm cả trẻ em là người nước ngoài cư
trú tại Việt Nam. Điều này đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với Công ước về
quyền trẻ em, các Điều ước quốc tế và quy định về quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp năm 2013.
Mặc dù độ tuổi được coi là trẻ em ở mỗi quốc gia đưa ra là khác nhau nhưng
nhìn chung, trẻ em đều có đặc điểm sau:
- Chưa phát triển toàn diện về thể chất, tâm sinh lý và trí tuệ.
- Là đối tượng dễ bị tổn thương.
- Cần có sự nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, bảo vệ của gia đình, nhà
trường, xã hội.

Hoàng Thị Thùy Dung (2014), Các quyền cơ bản của trẻ em theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 5.
6
Xem Khoản 1, Điều 21 Bộ Luật Dân sự Liên Bang Nga.
7
Xem Điều 1 Pháp lệnh về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1979.
8
Xem Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 và Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo

dục trẻ em năm 2004.
5


10

Sự phát triển của trẻ em diễn ra đầy biến động và cực kỳ nhanh chóng, đó là
một quá trình liên tục ngay từ khi mới sinh ra, cùng với sự phát triển tâm sinh lý.
Ở độ tuổi dưới 16, trẻ em chưa có hoặc chưa nhận thức một cách đầy đủ về mọi
việc, thể chất cũng chưa phát triển toàn diện. Sự non nớt của trẻ về cả thể chất và
trí tuệ là lý do mà Nhà nước, gia đình và các cơ quan khác có mối liên hệ gắn bó
với trẻ em cần thực hiện vai trò đảm bảo cho trẻ điều kiện tốt nhất để trẻ được
chăm sóc, giáo dục, trở thành công dân tốt và có ích cho xã hội, xứng đáng là
những chủ nhân tương lai của Đất nước.
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về trẻ em như sau: “Trẻ
em là một thuật ngữ pháp lý dùng để chỉ những người dưới 16 tuổi, đó là đối
tượng còn non nớt về thể chất và trí tuệ. Vì vậy, cần phải có sự bảo vệ đặc biệt
bởi gia đình, Nhà nước và xã hội”.
Dưới góc độ pháp lý, cùng với khái niệm “trẻ em” còn có khái niệm “người
chưa thành niên”. Đây là hai khái niệm có nội hàm khác nhau nhưng dễ gây
nhẫm lẫn. Cần phân biệt rõ hai khái niệm này. Trong các lĩnh vực như Luật dân
sự, Luật hình sự, Luật lao động, thuật ngữ “người chưa thành niên” được sử
dụng rất rộng rãi. Pháp luật dân sự đã phân biệt người trưởng thành và chưa
trưởng thành qua định nghĩa về vị thành niên hay người chưa thành niên tại
những văn bản pháp lý mang tính chất nền móng của hệ thống pháp luật, cụ thể:
Điều 7 Sắc lệnh số 97-SL của Chủ tịch nước ngày 22/5/1950 quy định: “người vị
thành niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi”. Cốt lõi của quy định này tiếp
tục được duy trì trong các văn bản pháp luật dân sự được ban hành sau đó. Các
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995, 2005 và 2015 đều quy định người thành niên
là người từ đủ mười tám tuổi trở lên, cụ thể: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên

là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”9.
Với quy định này, có thể hiểu rằng, người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa
trưởng thành, tức cũng có nghĩa là người chưa đủ 18 tuổi vẫn còn là trẻ em.
Bộ Luật Lao động năm 2012 (BLLĐ 2012) quy định về người lao động “là
người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao
động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao

9

Xem Điều 18 Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Điều 20, Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015.


11

động”10. Mặt khác, Điều 161 BLLĐ 2012 quy định: “Người lao động chưa thành
niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Kết hợp quy định tại Điều này với quy
định tại Điều 6 trên, ta thấy độ tuổi của người lao động chưa thành niên là từ đủ
15 tuổi cho tới dưới 18 tuổi. Từ đó, có thể hiểu người lao động chưa thành niên
là một nhóm lao động đặc thù, trong đó có thể là trẻ em, ở độ tuổi từ đủ 15 tuổi
cho đến dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
Pháp luật hình sự Việt Nam đề cập tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS)
của trẻ em không nằm ngoài phạm vi tuổi chịu TNHS quy định tại Điều 12 Bộ
luật hình sự năm 2015 (BLHS 2015): “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa
đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy khái niệm người chưa thành niên phạm
tội trong pháp luật hình sự Việt Nam chỉ bao gồm những người đã đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 18 tuổi. Người chưa thành niên ở đây, bao gồm trẻ em là người
chưa phát triển một cách đầy đủ về tâm, sinh lý, khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi còn nhiều hạn chế; dễ bị kích động, dụ dỗ, lôi kéo vào việc thực

hiện tội phạm, nhưng cũng dễ uốn nắn, cải tạo, trở thành người có ích cho xã
hội. Như vậy, pháp luật hình sự đã căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý để quy
định ở độ tuổi nào thì trẻ em phải chịu trách nhiệm hình sự. Giới hạn tối thiểu về
độ tuổi chịu TNHS của trẻ em là một điều cần thiết trong một phần công lý của
sự trừng phạt. Quy định về các biện pháp chịu TNHS đối với trẻ em phải hướng
tới mục đích giáo dục là chủ yếu và trong một chừng mực nhất định.
Như vậy, trong từng lĩnh vực mà trẻ em tham gia, Nhà nước ta đã đề ra
những quy định cụ thể gắn với độ tuổi của trẻ căn cứ vào khả năng nhận thức,
khả năng lao động của trẻ ở độ tuổi đó và vào mục đích luôn đảm bảo lợi ích tốt
nhất cho trẻ em.
1.1.2 Khái niệm quyền trẻ em
Trong khoa học pháp lý, “quyền” là một khái niệm dùng để chỉ những điều
pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó,
cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn

10

Xem Khoản 1, Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012.


12

chế11. Việc công nhận quyền của một chủ thể đồng nghĩa với trách nhiệm của
những chủ thể khác trong việc hành động để thực hiện quyền của chủ thể đó.
Quyền trẻ em là một bộ phận hợp thành và không thể tách rời của quyền con
người, do đó việc nghiên cứu quyền của trẻ em phải trên cơ sở quyền con người.
Quyền con người theo nghĩa chung là “những sự được phép mà tất cả thành viên
của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã
hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người”12. Từ đó ta có
thể rút ra kết luận: Quyền con người là những quyền tự nhiên, tồn tại một cách

khách quan, hình thành ngay từ khi con người sinh ra. Khi nhà nước ra đời thì
những quyền này được nhà nước công nhận và đảm bảo thực hiện. Quyền con
người là các quyền của tất cả cá nhân, cho dù họ có quyền công dân của một
nước cụ thể nào hay không.
Quyền trẻ em là một khái niệm được hình thành từ sau chiến tranh thế giới
thứ nhất (1914-1918) với việc thành lập các tổ chức cứu trợ trẻ em ở Anh và
Thụy Điển năm 1919.
Trước đây, những nhà làm luật thường quan niệm trẻ em là đối tượng còn
non nớt về thể chất, trí tuệ, do đó trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc một cách
đặc biệt, nhằm tránh xa mọi sự xâm hại từ bên ngoài. Cách tiếp cận này vô tình
khiến cho trẻ em trở thành đối tượng bị phụ thuộc, chịu sự chi phối, bao bọc từ
người lớn mà không xuất phát từ góc độ quyền của trẻ em.
Hiện nay, cách tiếp cận quyền trẻ em đã tiến bộ và tích cực hơn. Theo đó, trẻ
em được nhìn nhận là một chủ thể trong các quan hệ xã hội, được xã hội công
nhận, do đó trẻ em cũng có đầy đủ các quyền cơ bản của con người, được pháp
luật tôn trọng và bảo vệ. Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp
quốc đã khẳng định “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về
nhân phẩm và quyền. Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương
tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu”13.
Theo nghĩa hẹp, quyền trẻ em là quyền con người gắn với đối tượng chủ thể
là trẻ em, chủ thể này được xác định bằng độ tuổi. Quyền trẻ em được hiểu là
Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa & Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, tr. 648.
12
Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Thanh Tùng (đồng chủ biên, 2011), Giáo trình Lý luận và Pháp
luật về Quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 37.
13
Xem Điều 1 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc.
11



13

những gì trẻ em cần có để được sống và phát triển một cách toàn diện, lành
mạnh, cho dù đối tượng trẻ em đó có quyền công dân của quốc gia nào hay
không. Những quyền này được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm thực
hiện bằng pháp luật. Trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động sự yêu
thương của người lớn, mà còn là người có vai trò chủ động tham gia tích cực vào
quá trình phát triển.
Theo nghĩa rộng, quyền trẻ em được hiểu là tất cả các quyền lợi được hưởng
của cá nhân trẻ em, những quyền này có từ khi trẻ được sinh ra, tồn tại khách
quan và được Nhà nước công nhận, ghi nhận thành các quyền và nghĩa vụ cơ bản
của trẻ em, được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Nội dung quyền trẻ em phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, phong
tục tập quán, tư tưởng đạo đức của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trong từng giai
đoạn lịch sử. Hiện nay, quyền trẻ em ngày càng được mở rộng và phát triển, trẻ
em từ đối tượng được hưởng quyền thành chủ thể quyền. Mọi trẻ em sinh ra và
lớn lên đều có các quyền như nhau và được đảm bảo thực hiện các quyền đó như
nhau.
Quyền của trẻ em đã dần được pháp luật quốc tế ghi nhận, cụ thể, ngày
20/11/1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền trẻ
em với 54 điều khoản, ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em gồm các nhóm
quyền: quyền sống còn, quyền bảo vệ, quyền phát triển, quyền tham gia. Công
ước này đã thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ
em, quy định những điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển trong bầu
không khí hạnh phúc, yêu thương. Ngày 30/9/1990, Tuyên bố của Hội nghị cấp
cao thế giới về trẻ em đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và toàn diện nhằm bảo vệ
và chăm sóc trẻ em cùng một bản kế hoạch hành động chi tiết trên từng mặt cơ
bản, điều này góp phần thể hiện sự quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế với
các quyền lợi cơ bản của trẻ em.

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được coi là một truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam. Cả bộ Hình thư thời Lý và Bộ luật Hồng Đức thời Hậu Lê
đều có những quy định cụ thể về vấn đề này. Kế thừa truyền thống này, ngay khi
giành được được độc lập, việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được
Đảng, Nhà nước Việt Nam đặt lên hàng đầu. Có thể nói, Việt Nam là quốc gia


14

chú trọng đến bảo vệ quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng. Việt
Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và quốc gia thứ hai trên thế giới phê chuẩn
Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc (vào ngày 20/02/1990). Từ đó đến
nay, Việt Nam đã từng bước nội luật hóa nội dung của Công ước vào hệ thống
pháp luật quốc gia, thông qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Hơn
nữa, Nhà nước còn xây dựng và tổ chức thực hiện các Chương trình Hành động
Quốc gia vì trẻ em trong mỗi giai đoạn 10 năm (hiện đang thực hiện Chương
trình Hành động Quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2011- 2020). Các quyền trẻ em tại
Việt Nam được ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện, bao gồm các nhóm quyền như:
quyền có quốc tịch, quyền được khai sinh, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng,
quyền sống chung với gia đình gốc, quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng,
thân thể, nhân phẩm và danh dự, quyền được chăm sóc, quyền được vui chơi giải
trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch, quyền được tham
gia hoạt động xã hội, phát triển năng khiếu… Mỗi nhóm quyền được cụ thể hóa
tại nhiều chế định riêng nhằm đảm bảo quyền của trẻ.
So sánh giữa cách hiểu về quyền trẻ em ở Việt Nam so với quốc tế, có thể
thấy rằng, các quyền trẻ em tại Việt Nam là tương đối phù hợp và hài hòa với
quyền trẻ em được quy định tại các Công ước quốc tế. Đánh giá vấn đề này, Tổ
chức UNICEF14 tại Việt Nam nhận định: “Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể
trong việc tạo khuôn khổ pháp lý thực hiện các quyền trẻ em, luật pháp và chính
sách liên quan của Việt Nam ngày càng tương thích với các chuẩn mực quốc

tế…”15. Trẻ em được hưởng mọi quyền và mọi tự do đã được nêu trong pháp
luật quốc tế và pháp luật quốc gia về quyền con người mà không bị bất cứ sự
phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc
mối tương quan khác.
Như vậy, quyền trẻ em là khái niệm dùng để chỉ các quyền con người của trẻ
em, bao gồm các nhóm quyền như: quyền được sống, quyền được phát triển,
quyền được tham gia và quyền được bảo vệ.

Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc.
Hồng Vân (2017), “Tiếp tục các nỗ lực đảm bảo quyền trẻ em ở Việt Nam”, Báo Điện tử của Đài Tiếng nói
Việt Nam, ngày truy cập: 03/8/2018.
14
15


15

1.1.3 Khái niệm đảm bảo quyền trẻ em trong việc xác lập quan hệ giữa cha
mẹ nuôi và con nuôi
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con
nuôi và người được nhận làm con nuôi16.
Trước hết, dưới góc độ xã hội, con nuôi là con đẻ của người khác nhưng
được một hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con, coi như con đẻ nhằm thỏa
mãn nhu cầu, lợi ích nhất định của các bên.
Dưới góc độ pháp lý, con nuôi là người có đủ các điều kiện pháp luật quy
định, được một hoặc hai người là vợ chồng nhận làm con, thông qua trình tự thủ
tục luật định, hai bên không có quan hệ huyết thống.
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con
nuôi và người được nhận làm con nuôi, dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể
trong quan hệ nuôi con nuôi trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng. Nuôi con nuôi là

vấn đề nhân đạo, thể hiện tình yêu thương, tinh thần trách nhiệm cao cả và mối
quan hệ tương thân, tương ái, giúp đỡ trẻ em không nơi nương tựa có một mái
ấm gia đình, được chăm sóc và phát triển trong những điều kiện tốt nhất.
Quyền trẻ em đã được thừa nhận và quy định trong pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào
nhận thức và hành động của người khác nên việc bảo vệ quyền trẻ em là cần
thiết. Bảo vệ quyền trẻ em là các biện pháp nhằm đảm bảo quyền trẻ em được
thực hiện một cách đầy đủ. Do đặc điểm về sự phát triển chưa đầy đủ về tâm
sinh lý của đối tượng đặc biệt này nên việc bảo vệ quyền trẻ em chính là việc
bảo vệ các quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng phát triển của trẻ em từ thời điểm
sinh ra đến khi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người trưởng thành.
Theo Đại Từ điển tiếng việt, “bảo đảm” hay “đảm bảo” được hiểu là cam
đoan chịu trách nhiệm về việc gì đó17.
Hiểu theo nghĩa rộng, đảm bảo quyền trẻ em là việc mọi người trong xã hội
cam đoan chịu trách nhiệm thực hiện bảo vệ sự an toàn và chăm sóc trẻ em, bằng
những hành động giúp đỡ trẻ khi một đứa trẻ có nguy cơ bị tổn hại hoặc đang bị
tổn hại và loại trừ những yếu tố trong môi trường chăm sóc có thể gây tổn hại
cho trẻ.
16
17

Xem Khoản 1, Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
Nguyễn Như Ý (chủ biên,1999), Đại Từ điển tiếng việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, tr.110.


16

Hiểu theo nghĩa hẹp, đảm bảo quyền trẻ em đề cập đến những dịch vụ được
cung cấp bởi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và các tổ chức phi Chính
phủ. Những dịch vụ này hướng tới việc giúp đỡ cho các gia đình và cộng đồng

thực hiện bảo vệ quyền trẻ em, hỗ trợ môi trường chăm sóc trẻ trong việc đáp
ứng nhu cầu của trẻ, đồng thời trực tiếp can thiệp khi trẻ bị tổn hại hoặc có nguy
cơ bị tổn hại.
Liên minh các tổ chức cứu trợ trẻ em định nghĩa “bảo vệ quyền trẻ em” là
xây dựng hệ thống và cơ chế hoạt động hiệu quả để phòng ngừa, can thiệp và
giải quyết tình trạng xâm hại, xao nhãng, bóc lột và bạo lực đối với trẻ em18.
Như vậy, có thể hiểu đảm bảo quyền trẻ em là hệ thống các biện pháp, cách
thức được pháp luật quy định nhằm cam đoan có hiệu quả trong việc phòng
ngừa, can thiệp, giải quyết tình trạng trẻ em bị bỏ rơi, xâm hại, bóc lột, nhằm bảo
vệ trẻ em và đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của trẻ trên thực tế.
Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra định nghĩa: “Đảm bảo quyền trẻ em
trong quan hệ nuôi con nuôi là hệ thống các biện pháp, cách thức được pháp
luật quy định nhằm bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản của trẻ em được nhận
làm con nuôi, cụ thể là quyền được sống trong môi trường gia đình, quyền được
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thông qua các quy định về việc xác
lập, thực hiện, chấm dứt việc nuôi con nuôi”.
1.2 Cơ sở của việc ghi nhận đảm bảo quyền trẻ em trong việc xác lập
quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
1.2.1 Cơ sở lý luận
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một truyền thống quý báu của dân
tộc ta. Truyền thống ấy đã được hun đúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
trẻ em. Sinh thời, Người quan niệm: “Trẻ em như búp trên cành”. Vì thế, trẻ em
luôn là đối tượng phải được nâng niu, chăm sóc và dạy dỗ, chỉ bảo một cách ân
cần. Từ đó, bảo vệ trẻ em trở thành một nội dung quan trọng và chủ đạo được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Theo đó, công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em được coi là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của
các cấp ủy Đảng, chính quyền từ trung ương đến địa phương, là một vấn đề ưu
tiên trong mọi chính sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước.
18


Nguyễn Thị Hải (2011), Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 10.


17

Các quyền của trẻ em được ghi nhận cụ thể trong đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng. Chủ trương của Đảng về công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em nói chung cũng như về quyền trẻ em nói riêng là một trong
những ưu tiên trọng yếu của chiến lược phát triển con người xuyên suốt mọi thời
kỳ lịch sử và cách mạng Việt Nam. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
việc khẳng định con người là trung tâm của sự phát triển và chăm lo đến quyền
và lợi ích chính đáng của tất cả mọi người, là mục tiêu của phát triển. Đại hội XI
của Đảng (năm 2011) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tái khẳng định
những giá trị nền tảng này và phát triển, bổ sung những nội dung mới trong mục
tiêu “về phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện chính sách xã hội”, đó
là: con người là trung tâm của chiến lược phát triển; tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, Đất nước và
quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện chính sách xã hội đúng đắn, công bằng,
bảo đảm bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; chăm lo đời sống những
người già cả, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi; thực hiện bình
đẳng giới, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em...
Nhằm bảo đảm cho trẻ em – thế hệ trẻ của Việt Nam phát triển toàn diện, giữ
vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa
của thế giới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước, Bộ Chính trị đã ra
Chỉ thị số 55-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng ở cơ sở
đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Những quan điểm được thể hiện trong các văn kiện của Đảng là cơ sở quan
trọng để hình thành các chính sách và pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, cũng như các cấp chính quyền trong việc xây dựng và
thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động vì trẻ em, tôn trọng, bảo đảm và
thực thi các quyền trẻ em.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: “Bảo đảm
các quyền cơ bản của trẻ em, tạo môi trường để trẻ em được phát triển toàn diện
về thể chất và trí tuệ. Chú trọng bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc


18

biệt, trẻ em gia đình nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn;
ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em. Nhân rộng các mô hình làm tốt
việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng… Tạo bước tiến rõ rệt về thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo;
cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe cho nhân dân”. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định chăm lo đời sống các đối tượng có
hoàn cảnh khó khăn, trong đó có trẻ em, góp phần ổn định chính trị và phát triển
kinh tế - xã hội bền vững.
Tư tưởng nhân văn, phát triển đối với trẻ em nói chung và quyền trẻ em nói
riêng đã được cương lĩnh hóa trong chương trình Việt Minh và sau Cách mạng
tháng Tám thành công đã được thể chế hóa trong đạo luật cơ bản đầu tiên là
Hiến pháp năm 1946. Từ đó, bảo vệ quyền trẻ em trở thành một nguyên tắc hiến
định thể hiện nhất quán trong Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, đặc biệt là
trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Điều 36 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận:
“Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ
em”. Thực hiện sự bảo hộ hôn nhân - gia đình cũng chính là thực hiện sự bảo
đảm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về hôn nhân gia đình. Theo đó, cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi dạy, giáo dục con; Nhà nước
và xã hội phải ưu tiên quan tâm bảo đảm quyền lợi người mẹ và trẻ em. Hiến

pháp năm 2013 là đạo luật cơ bản của Việt Nam khẳng định việc bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà nước và xã hội. Đồng thời
cũng là cơ sở đảm bảo cho quyền của trẻ em trên tất cả các lĩnh vực và đối với
tất cả các đối tượng.
Điều 37 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và
xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.
Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao
động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
Như vậy, ngoài sự ghi nhận về bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ hôn nhân gia đình, Hiến pháp năm 2013 còn xác lập cơ chế bảo hộ và bảo đảm hầu hết các
quan hệ xã hội là các quyền của trẻ em phải được toàn thể xã hội chăm lo, bảo
vệ; được sống trong môi trường phù hợp để phát triển, được học tập, rèn luyện.
Việc sử dụng thuật ngữ “nghiêm cấm” chính là một hình thức quy phạm mệnh


19

lệnh mang tính bắt buộc, tạo ra khả năng pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn và loại trừ ngay mọi biểu hiện không phù hợp hoặc trái với nó, được
dự kiến với ít nhất là 06 trường hợp, tình huống rất cụ thể: “xâm hại, hành hạ,
ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột”. Điều này chính là sự bảo hộ và bảo đảm
pháp lý tối cao cho hệ thống bảo vệ quyền trẻ em trong mọi quan hệ pháp luật,
đồng thời cũng tạo cơ sở thiết lập các chế định về quyền trẻ em trong các hoạt
động tố tụng.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam đã thể chế hóa
quyền trẻ em trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, tạo thành một
hệ thống pháp luật và chính sách đồng bộ, thống nhất về quyền trẻ và bảo vệ
quyền trẻ em phù hợp với thông lệ quốc tế. Hệ thống pháp luật Việt Nam về
quyền trẻ em và bảo vệ quyền trẻ em đã thể hiện rõ sự nội luật hóa các Công ước
quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết. Đồng thời đây
cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để ghi nhận việc đảm bảo quyền trẻ em trong

mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi:
Luật trẻ em năm 2016 đề cập đầy đủ đến quyền của trẻ em trong đó gồm bốn
quyền được quy định trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam
tham gia, gồm: quyền sống, quyền phát triển, quyền được bảo vệ và quyền tham
gia.
Bộ luật dân sự năm 2015 đã có những quy định liên quan đến việc tôn trọng
và bảo vệ quyền con người như: quyền được khai sinh (Điều 30); quyền sống,
quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều 33); quyền
được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 34)… Cụ thể, theo Điều 33 Bộ
luật dân sự 2015: Trẻ em có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng,
thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Quy định này đặt quyền
sống của trẻ em lên trước tiên bởi lẽ hàng năm có rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi, mồ
côi không nơi nương tựa, rất khó có thể được sống một cách bình thường. Do đó,
đây chính là cơ sở lý luận để bảo đảm một trong các quyền của trẻ em là được
sống trong môi trường gia đình.
Với ý nghĩa đó, trẻ em bị mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi là nhóm trẻ có hoàn cảnh
đặc biệt là một trong những đối tượng cần phải được bảo vệ bằng những biện


×