Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất của vịt cổ lũng, thanh hóa tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 27 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

ĐỖ NGỌC HÀ

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
VÀ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA VỊT CỔ LŨNG, THANH HÓA

Chuyên ngành:
Mã số:

Chăn nuôi
9.62.01.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2019


Công trình hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn: 1. PGS.TS. NGUYỄN BÁ MÙI
2. TS. NGUYỄN VĂN DUY

Phản biện 1: PGS. TS. Đinh Văn Chỉnh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Phản biện 2: PGS. TS. Trần Thanh Vân
Đại học Thái nguyên

Phản biện 3: TS. Phạm Công Thiếu


Viện Chăn nuôi

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện họp tại:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi

giờ, ngày

tháng

năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Trung tâm Thông tin - Thư viện Lương Định Của, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam là một nước nông nghiệp có truyền thống trồng lúa nước từ lâu
đời, việc canh tác lúa nước luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của các
động vật thuỷ sinh như cua, cá, ốc,… đó là thức ăn cao đạm rất được vịt ưa
chuộng. Bên cạnh đó, trong quá trình thu hoạch, đã có một lượng thóc rất đáng
kể bị rơi rụng. Lượng thóc này được thu hồi một cách hiệu quả nhất nhờ chăn
nuôi vịt. Chính vì tận dụng được điều kiện tự nhiên là ruộng nước có nhiều động
vật thuỷ sinh, lượng thóc rụng trong quá trình thu hoạch lúa nên ngành chăn
nuôi vịt của nước ta rất phát triển. Trong những năm gần đây, Việt Nam sản xuất
khoảng 3,5% số đầu vịt trên thế giới. Theo Tổng cục Thống kê (2018), tổng đàn
vịt cả nước là 76,911 triệu con, sản xuất 197,401 nghìn tấn thịt, sản lượng trứng

đạt 4,543 tỷ quả và luôn đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển của
nền nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung.
Bên cạnh đó, do con giống có chất lượng chưa tốt, thức ăn chăn nuôi
thường có giá thành cao, chính sách thuế chưa hợp lý, trình độ thâm canh thấp,
quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ… đã đẩy giá thịt gà, lợn và trâu bò trong nước lên rất
cao so với mặt bằng giá cùng loại trên thế giới, đặc biệt cao so với thu nhập của
người lao động, nhất là nông dân. Vì vậy, thịt vịt và trứng vịt được người dân sử
dụng nhiều do có giá thành rẻ. Thịt vịt, do chăn nuôi tận dụng là chính nên có
giá thành sản xuất rất thấp so với thịt gà. Vào chính vụ, thịt vịt thương phẩm chỉ
bằng 40 - 50% so với thịt gà. Có thể nói, thịt vịt là thực phẩm quan trọng của
những người có thu nhập thấp và dân nghèo ở nước ta. Hơn nữa, thịt vịt và trứng
vịt là những thực phẩm được người dân Việt Nam ưa chuộng và sử dụng nhiều
nhất. Trong khi hầu hết các dân tộc khác trên thế giới không thích ăn thịt vịt và
trứng vịt thì người Việt lại rất thích. Thịt vịt và trứng vịt có hương vị độc đáo và
có nhiều các axit amin thiết yếu cũng như các axit béo không no (Pingel, 2009).
Đặc biệt, các giống vịt bản địa với chất lượng thịt, trứng thơm ngon đã tạo nên
những thương hiệu nổi tiếng và ngày càng phù hợp với yêu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng.
Trong lịch sử phát triển của mình, người nông dân nước ta đã tạo ra được
nhiều giống vịt quý như vịt Bầu Bến, vịt Bầu Quỳ, vịt Kỳ Lừa, vịt Đốm (Pất
Lài), vịt Cỏ… có nhiều đặc tính tốt, thích nghi cao với điều kiện địa phương,
trong số đó có giống vịt Cổ Lũng. Vịt Cổ Lũng có nguồn gốc từ huyện Bá
Thước, tỉnh Thanh Hóa được phục tráng và đưa về nuôi giữ nguồn gen tại Trung
tâm nghiên cứu Vịt Đại Xuyên từ năm 2012. Vịt Cổ Lũng được đánh giá là có
khả năng thích nghi tốt với môi trường sống trên địa bàn rộng, khả năng chống
chịu bệnh cao, xương nhỏ, thịt nhiều nạc, ngọt, thơm ngon, rất phù hợp với yêu
cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Mặc dù là giống vịt đặc sản bản địa, nhưng
một vài năm trở lại đây, do nhiều nguyên nhân như tập quán nuôi chăn thả tự do
của người dân và sự du nhập của các giống vịt ngoại khiến đàn vịt Cổ Lũng có
nguy cơ bị cận huyết và lai tạp. Nếu không có phương án bảo tồn và phát triển kịp

thời, giống vịt đặc sản bản địa này sẽ không còn giữ được nguồn giống thuần
chủng. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào được thực hiện một cách có
hệ thống và toàn diện về vịt Cổ Lũng. Chi tiết các đặc điểm về ngoại hình của vịt
1


Cổ Lũng như thế nào để phân biệt với các giống vịt khác? sự phát triển về khối
lượng và các chiều đo của vịt qua các tuần tuổi như thế nào? Các chỉ tiêu sinh lý,
sinh hóa máu có khác với các giống vịt khác không? mối quan hệ di truyền của vịt
Cổ Lũng với một số giống vịt nội khác như thế nào? khả năng sinh sản, khả năng
sinh trưởng, khả năng cho thịt cũng như chất lượng thịt của vịt như thế nào? là
những vấn đề cần được nghiên cứu nhằm mục tiêu bảo tồn, phát triển và khai
thác có hiệu quả nguồn gen giống vịt Cổ Lũng.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Cung cấp được thông tin có hệ thống và toàn diện về vịt Cổ Lũng, bao
gồm số lượng, phân bố, đặc điểm sinh học, mối quan hệ di truyền với một số
giống vịt nội của Việt Nam, khả năng sinh sản và sản xuất thịt cũng như chất
lượng thịt của vịt Cổ Lũng.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định số lượng, sự phân bố của vịt Cổ Lũng để đánh giá được tình
hình chăn nuôi cũng như công tác bảo tồn và phát triển giống vịt Cổ Lũng tại địa
phương; tìm hiểu các đặc điểm ngoại hình đặc trưng để phân biệt với các giống
vịt nội khác.
- Đánh giá được các chỉ tiêu sinh lý - sinh hóa máu làm cơ sở để giải thích tại
sao vịt Cổ Lũng có khả năng thích nghi và tính kháng bệnh cao;
- Tìm hiểu mối quan hệ di truyền giữa vịt Cổ Lũng với một số giống vịt nội
khác của Việt Nam để chỉ ra nguồn gốc của vịt Cổ Lũng;
- Đánh giá được khả năng sinh trưởng, sinh sản, năng suất và chất lượng
thịt của vịt Cổ Lũng nhằm so sánh với các giống vịt nội kiêm dụng khác của

Việt Nam.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Xác định số lượng và sự phân bố của vịt Cổ Lũng tại huyện Bá Thước,
tỉnh Thanh Hóa từ năm 2015 đến năm 2017.
- Nghiên cứu mối quan hệ di truyền và các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu
vịt trên đàn vịt Cổ Lũng hạt nhân nuôi tại Trung tâm nghiên cứu Vịt Đại Xuyên
từ tháng 5/2016 - tháng 8/2016.
- Đánh giá một đặc điểm sinh học, khả năng sinh sản của vịt Cổ Lũng tại
Trung tâm nghiên cứu Vịt Đại Xuyên từ tháng 8/2016 - tháng 12/2017.
- Các nghiên cứu về khả năng sản xuất thịt, chất lượng thịt của vịt Cổ
Lũng tại các trang trại chăn nuôi vịt Cổ Lũng ở tỉnh Thanh Hóa từ tháng 1/2017
đến tháng 4/2018.
1.4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Đưa ra được các thông tin cơ bản có hệ thống về số lượng, sự phân bố, thực
trạng chăn nuôi vịt Cổ Lũng tại huyện Bá Thước. Các đặc điểm sinh học đặc trưng,
mối quan hệ di truyền giữa vịt Cổ Lũng với một số giống vịt nội ở Việt Nam.
- Đánh giá được khả năng sinh sản, khả năng sản xuất thịt của vịt Cổ
Lũng là cơ sở để đề xuất các giải pháp bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn
gen vịt Cổ Lũng tại Thanh Hóa.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả đề tài cung cấp cơ sở dữ liệu một cách có hệ thống và đầy đủ về
số lượng, phân bố, đặc điểm sinh học, mối quan hệ di truyền với một số giống
2


vịt nội của Việt Nam, khả năng sinh sản, khả năng sản xuất thịt và chất lượng
thịt của vịt Cổ Lũng, làm phong phú thêm thông tin cơ bản về các giống vịt nội
địa của Việt Nam.
Các kết quả thu được là căn cứ khoa học cho các hướng nghiên cứu tiếp

theo, là nguồn tư liệu rất bổ ích phục vụ cho công tác đào tạo và nghiên cứu
khoa học về chăn nuôi.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp phần cung cấp thông tin quan trọng cho việc bảo tồn, khai thác
và phát triển nguồn gen giống vịt Cổ Lũng, phục vụ cho công tác sử dụng giống
vịt Cổ Lũng trong chăn nuôi vịt ở nước ta.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Việt Nam có nguồn gen các giống vịt nội, vịt bản địa đa dạng và phong
phú. Theo ước tính hiện nay nước ta có khoảng hơn 10 giống vịt đang trong diện
cần bảo tồn nguồn gen (Phạm Công Thiếu, 2016). Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, các giống vật nuôi có năng suất cao đã được
nhập về Việt Nam làm thay đổi cơ bản ngành chăn nuôi, trong đó có chăn nuôi
vịt. Các giống vịt hướng trứng, hướng thịt được nhập về nuôi thích nghi đã đẩy
năng suất chăn nuôi vịt lên cao gấp nhiều lần so với trước đây. Bên cạnh đó,
công tác chọn giống, lai tạo đã có những tiến bộ vượt bậc tạo nên sự đa dạng và
phong phú các dòng, giống vịt ở Việt Nam. Ngược lại, các giống vịt nội địa
ngày càng nhận được ít sự quan tâm đầu tư, bảo tồn và phát triển. Số lượng các
giống vịt này ngày càng ít đi về số lượng, bị lai tạp, cận huyết và thu hẹp dần khu
vực phân bố. Chúng chủ yếu được nuôi giữ, bảo tồn ở các trung tâm, các viện
nghiên cứu, một số ít còn lại phân bố rãi rác ở các khu vực nông thôn, miền núi.
Do đó, việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển các nguồn gen vịt bản địa này là vấn đề
cấp thiết, cần được quan tâm.
Các giống như vịt Cỏ, vịt Bầu Bến, vịt Bầu Quỳ, vịt Kỳ Lừa, vịt Mốc, vịt
Đốm là những đối tượng chủ yếu của các nghiên cứu bảo tồn, khai thác và phát
triển nguồn gen các giống vịt nội ở nước ta. Nguyễn Thị Minh và cs. (2011a,b)
đã nghiên cứu về chọn lọc, nhân thuần, bảo tồn và phát triển nguồn gen vịt Cỏ
màu cách sẻ. Khi cho lai giữa vịt Cỏ và vịt Triết Giang thấy rằng: tỷ lệ đẻ bình
quân của con lai đạt cao nhất 77,66% với năng suất tương ứng là 283 quả/mái/52
tuần đẻ (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011h). Kết quả nghiên cứu trên con lai giữa
vịt Cỏ và vịt CV 2000 layer cho thấy tỷ lệ đẻ bình quân ở 40 tuần đẻ là 75,7%

cao hơn cả bố và mẹ, khối lượng trứng cao đạt 73 - 75g/quả (Doãn Văn Xuân và
cs., 2011b).
Khi nghiên cứu bảo tồn quỹ gen vịt Bầu Bến tại Hòa Bình, Hồ Khắc Oánh
và cs. (2011) thấy rằng vịt có số lượng trứng khoảng 174 quả/mái/năm với khối
lượng là 65 - 74g/quả. Nuôi tại Trung tâm nghiên cứu Vịt Đại Xuyên cho tỷ lệ
đẻ bình quân 46,79%, năng suất trứng đạt 168,33 quả/mái/năm. Khối lượng cơ
thể lúc 8 tuần tuổi đạt 1795,2g/con và tỷ lệ thân thịt đạt 66,3% (Nguyễn Đức
Trọng và cs., 2011a). Theo Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs. (2012), tỷ lệ nuôi
sống của vịt Bầu Bến từ 0 - 20 tuần tuổi là 91,72%, tuổi vào đẻ là 22 tuần tuổi,
3


năng suất trứng đạt 170,3 quả/mái/năm, tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng là 4,53%.
Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011a,e) đã nghiên cứu về khả năng sản xuất của vịt
Đốm, tiến hành chọn lọc vịt Đốm PL2, đánh giá sau 3 thế hệ. Nghiên cứu phép
lai thuận nghịch giữa vịt Đốm và vịt Super M2 tạo con lai PT và TP có năng
suất cao (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011k). Đặng Vũ Hòa (2015) đã sử dụng
một số hàm sinh trưởng để đánh giá khả năng sinh trưởng của vịt Đốm và con
lai với vịt T14, khảo sát một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu, đặc điểm ngoại
hình để đánh giá các đặc điểm sinh học của vịt Đốm.
Theo Trần Huê Viên và cs. (2002) vịt Kỳ Lừa có sức sản xuất thịt tốt, tỷ
lệ hao hụt thấp và chất lượng thịt ngon. Giai đoạn 10 tuần tuổi con trống đạt
1707,6g/con, con mái đạt 1610,0g/con với mức tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng là 4,2kg. Tỷ lệ protein là 20,03%, tỷ lệ Lipit từ 1,36 - 1,4%, trong khi thịt
lườn có tỷ lệ protein là 20,11% và tỷ lệ Lipit từ 1,16 - 1,45% (Nguyễn Thị Minh
Tâm và cs., 2006a). Hệ số di truyền tính trạng khối lượng của bố mẹ cho con cái
của vịt Kỳ Lừa h2 = 0,311 - 0,690 (Nguyễn Thị Minh Tâm và cs., 2006b).
Các nghiên cứu trên vịt Hòa Lan của Hoàng Tuấn Thành và Dương Xuân
Tuyển (2016), vịt Mốc (Nguyen Duy Hoan, 2016), vịt Sín Chéng của Bui Huu
Doan et al. (2017a,b) là cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo để bảo tồn, khai

thác và phát triển nguồn gen các giống vịt bản địa ở nước ta.
Chỉ thị phân tử là công cụ hữu hiệu trong việc đánh giá các biến dị di
truyền, giải thích mối quan hệ di truyền giữa các giống và hỗ trợ việc quản lý
các nguồn tài nguyên di truyền động, thực vật (Song et al., 2003; Teixeira et al.,
2005). Tuy nhiên, các nghiên cứu về chỉ thị di truyền của vịt đang còn rất hạn
chế (Paulus and Tiedemann, 2003; Huang et al., 2005). Một số kết quả nghiên
cứu trên vịt như Chen et al. (2001); Zuo et al. (2004); Yan et al. (2005) phân
tích đa dạng di truyền bằng phương pháp đa hình các đoạn DNA nhân bản ngẫu
nhiên - Random amplification polymorphic DNA (RAPD) và đa hình các độ dài
các đoạn được nhân chọn lọc - Amplification fragment length polymorphism
(AFLP). Huang et al. (2005); Tang et al. (2007) phân tích, phân loại các giống
ngan và một số giống vịt nội Trung Quốc bằng microsatellites. Chỉ thị SSR là
công cụ hữu ích cho hệ thống truy xuất vật nuôi. Chỉ thị SSR đủ khả năng để
phân biệt vì nó đa hình hơn các chị thị di truyền khác. Một số bản đồ liên kết di
truyền cũng đã được công bố trên vịt (Maak et al., 2003; Yinhua et al., 2005;
Huang et al., 2005; Huang et al., 2006). Đối với chỉ thị SSR một số nghiên cứu
đã sử dụng để xây dựng cây phát sinh chủng loại (Maak et al., 2003; Yinhua et
al., 2005; Huang et al., 2006), các nghiên cứu về nguồn gốc loài và phân biệt
loài (Seo et al., 2015). Seo et al. (2016) đã xác định các chỉ thị SSR có đa hình
cao trên vịt để đánh giá sự đa dạng di truyền và sự phân biệt quần thể vịt bản địa
ở Nam và Đông Á.
Vịt Cổ Lũng có nguồn gốc từ huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa, có nhiều
đặc điểm quý đó là khả năng chống chịu bệnh tốt, chất lượng thịt thơm ngon,
thích nghi tốt với nhiều vùng sinh thái... ngoại hình gần giống với vịt Bầu, đây là
giống vịt kiêm dụng có thể sử dụng theo hai hướng là lấy thịt và trứng. Tuy
nhiên, hiện nay chưa có một nghiên cứu nào về vịt Cổ Lũng. Vì vậy, cần có
những nghiên cứu, đánh giá cụ thể để bảo tồn, khai thác và phát triển có hiệu
quả nguồn gen giống vịt Cổ Lũng này.
4



PHẦN 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Khảo sát số lượng, sự phân bố và một số đặc điểm sinh học của vịt Cổ Lũng;
2. Nghiên cứu mối quan hệ di truyền giữa vịt Cổ Lũng với một số giống vịt
nội của Việt Nam;
3. Xác định khả năng sinh sản của vịt Cổ Lũng;
4. Xác định khả năng sản xuất thịt và chất lượng thịt của vịt Cổ Lũng.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Khảo sát số lượng, sự phân bố và một số đặc điểm sinh học của vịt
Cổ Lũng
Số lượng, sự phân bố của vịt Cổ Lũng thực hiện theo phương pháp điều
tra bằng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn và các dữ liệu thứ cấp thu được từ chi cục
thống kê huyện Bá Thước. Đặc điểm sinh học, kích thước các chiều đo thực hiện
theo phương pháp đo, quan sát, chụp ảnh, mô tả, ghi chép tại một số thời điểm
sinh trưởng.
3.2.2. Nghiên cứu mối quan hệ di truyền giữa vịt Cổ Lũng với một số giống
vịt nội của Việt Nam
Nghiên cứu mối quan hệ di truyền giữa vịt Cổ Lũng với một số giống vịt
nội của Việt Nam bằng chỉ thị phân tử SSR (Simple Sequence Repeats - trình tự
lặp lại đơn giản).
3.2.3. Xác định khả năng sinh sản của vịt Cổ Lũng
Đánh giá khả năng sinh sản của vịt Cổ Lũng theo hướng dẫn của Bùi Hữu
Đoàn và cs. (2011).
3.2.4. Xác định khả năng sản xuất thịt và chất lượng thịt của vịt Cổ Lũng
Đánh giá khả năng sản xuất thịt và chất lượng thịt của vịt Cổ Lũng nuôi
thịt (broiler) theo hướng dẫn của Bùi Hữu Đoàn và cs. (2011).
3.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
- Đối với tất cả các chỉ tiêu theo dõi được, tính các tham số thống kê (dung
lượng mẫu, giá trị trung bình, sai số tiêu chuẩn, hệ số biến động) bằng phần mềm

Excel 2007 hoặc SAS phiên bản 9.1. So sánh giá trị trung bình theo Duncan bằng
phần mềm SAS phiên bản 9.1.
- Xác định các hàm sinh trưởng bằng phần mềm Statgraphics Centerion XV version
15.1.02.

- Dữ liệu microsatellite được xử lý bởi:
l. Các phần mềm FSTAT version 2.9.3, Genetix version 4.03, Microsatellite
Analyser (MSA) version 4.05;
2. Chương trình neighbor và consensus thuộc gói phần mềm Phylip version
3.69 phần mềm Treeview version 1.6.6, gói phần mềm ggplot2 và phần mềm R.
PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. SỐ LƯỢNG, SỰ PHÂN BỐ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA VỊT CỔ LŨNG
4.1.1. Điều tra, đánh giá hiện trạng về tình hình chăn nuôi vịt Cổ Lũng
Tổng số lượng vịt Cổ Lũng trong 3 năm từ 2015 - 2017 tại huyện Bá
Thước lần lượt là: 35,8; 24,1 và 32,8 nghìn con. Sự tăng giảm số lượng của đàn
vịt do ảnh hưởng của khủng hoảng giá chăn nuôi từ cuối năm 2016 đầu năm
5


2017. Mặc dù là giống vịt bản địa, nhưng số lượng và khu vực phân bố của vịt
Cổ Lũng trên địa bàn huyện Bá Thước không giống nhau. Vịt Cổ Lũng được
nuôi chủ yếu ở 6 xã khu vực Quốc Thành (gồm Ban Công, Lũng Niêm, Lũng
Cao, Cổ Lũng, Thành Sơn và Thành Lâm) với số lượng từ 2000 - 10000 con,
các khu vực khác phân bố với số lượng rất ít. Các khu vực có chăn nuôi gia cầm
phát triển mạnh như Điền Quang, Điền Trung, Văn Nho, Thiết Ống, Kỳ Tân
nhưng chủ yếu là chăn nuôi gà và một số giống vịt khác như vịt Cỏ, vịt Super
M, vịt Bầu…
Tiến hành điều tra 124 hộ gia đình có chăn nuôi vịt Cổ Lũng tại 6 xã vùng
Quốc Thành (xã Ban Công, Thành Lâm, Thành Sơn, Lũng Niêm, Lũng Cao và

Cổ Lũng) của huyện Bá Thước vào thời điểm năm 2015 cho thấy: 100% hộ gia
đình chăn nuôi vịt Cổ Lũng theo quy mô hộ gia đình. Không có các mô hình
chăn nuôi trang trại, chưa có cơ sở sản xuất giống. Đa số các hộ dân nuôi vịt Cổ
Lũng theo phương thức chăn thả và bán chăn thả. Nguồn thức ăn sử dụng trong
chăn nuôi vịt là các loại thức ăn tự phối trộn và các loại thức ăn tận dụng từ sản
xuất nông nghiệp của địa phương.

Hình 4.1. Khu vực phân bố của vịt Cổ Lũng tại huyện Bá Thước
4.1.2. Một số đặc điểm ngoại hình
Một số đặc điểm ngoại hình của vịt Cổ Lũng được thể hiện trong bảng 4.1
và hình 4.2.
Màu lông: khi mới nở vịt Cổ Lũng phủ toàn thân một bộ lông tơ màu xám
đen xen kẽ có khoang màu vàng nhạt. Lông ở bụng và ngực có màu vàng nhạt,
có phớt đen ở đầu và đuôi. Có một vệt xám đen chạy ngang mắt. Phân biệt với
một số giống vịt khác cho thấy: vịt Đốm khi mới nở bộ lông có màu trắng nhạt
hoặc vàng phớt xám, có phớt đen ở đầu và đuôi (Nguyễn Đức Trọng và cs.,
2011a; Doãn Văn Xuân và cs., 2011a; Đặng Vũ Hòa, 2015). Vịt Bầu Bến khi
mới nở toàn thân cũng phủ một bộ lông tơ màu xám đen, xen kẽ có khoang
vàng, đầu xám (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012; Vũ Đình Trọng và cs.,
2015). Tuy nhiên, tỷ lệ lông màu vàng của vịt Bầu Bến nhiều hơn và màu vàng
6


đậm hơn so với vịt Cổ Lũng.
Khi trưởng thành, vịt Cổ Lũng trống có lông đầu màu xanh, xung quanh
mắt màu trắng mờ. Phần cổ, ngực và lưng lông màu nâu đỏ xen lẫn trắng. Cổ có
một vòng tròn màu trắng. Phần đuôi và đuôi cánh có lông màu xanh đen, có 2-3
lông móc cong ở đuôi. Con mái lông màu cánh sẻ đậm, có vệt xám ngang mắt, cổ
có một vòng tròn lông màu trắng hơi thắt lại, đuôi cánh có màu xanh đen. Phân
biệt với một số giống vịt khác cho thấy: vịt Đốm trưởng thành, con trống có

lông màu xanh đen ở đầu và cổ. Dọc lưng màu lông sẫm như màu lông cò lửa,
đuôi có 2 - 3 lông móc rất cong; con mái lông có màu hoa mơ nhạt, có hàng lông
đen ở cánh (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011a; Doãn Văn Xuân và cs., 2011a;
Đặng Vũ Hòa, 2015). Vịt Bầu Bến trưởng thành có lông màu cánh sẻ đậm, con
trống có đầu xám và có lông móc cong ở đuôi (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs.,
2012; Vũ Đình Trọng và cs., 2015).
Bảng 4.1. Một số đặc điểm về ngoại hình của vịt Cổ Lũng
Chỉ
tiêu

Giai
đoạn

Đặc điểm
Vịt trống

Vịt mái

Hình dáng

Trung gian giữa vịt
Thân hình ngắn, hình chữ nhật, mình chuyên thịt và chuyên
bè.
trứng. Thân hình ngắn,
hình chữ nhật, mình bè

Đầu cổ

Đầu to, cổ ngắn, rụt, ngực sâu.
Mới nở


Màu
lông

Trưởng
thành

Mới nở
Màu
mỏ, Trưởng
chân thành

Chủ yếu là xám đen có khoang vàng. Bụng và ngực có màu vàng
nhạt. Có phớt đen ở đầu và đuôi. Có một vệt xám đen ngang mắt
Lông đầu màu xanh, xung quanh mắt Lông màu cánh sẻ đậm,
màu trắng có một vệt xám ngang mắt. xung quanh mắt có vệt
Phần cổ và lưng lông màu nâu đỏ xen xám ngang mắt, cổ có
lẫn trắng. Cổ có một vòng tròn màu một vòng tròn lông màu
trắng. Phần đuôi có lông màu xanh trắng hơi thắt lại.
đen, có lông móc cong ở đuôi.
Có màu vàng nhạt, hơi xám
Chân màu vàng thỉnh
Chân, Mỏ có màu vàng nhạt hơi xám. thoảng có chấm đen. Mỏ
có màu vàng nhạt.

Màu mỏ, chân: khi mới nở mỏ và chân của vịt Cổ Lũng có màu vàng
nhạt, hơi xám. Lúc trưởng thành chân thấp, nhỏ, màu vàng. Mỏ có màu vàng
nhạt hơi xám thỉnh thoảng có chấm đen.
Vịt Đốm, khi mới nở, mỏ và chân có màu vàng nhạt, có con hơi xám hoặc
xám vàng. Khi trưởng thành chân và mỏ vịt mái có màu vàng hoặc vàng nhạt, có

con hơi xám. Con trống có mỏ màu xám xanh hoặc màu vàng, chân có màu
vàng hoặc xám (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011a; Doãn Văn Xuân và cs.,
2011a; Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012; Đặng Vũ Hòa, 2015).
Phân biệt với vịt Bầu Bến, Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs. (2012) cho
biết: vịt Bầu Bến khi mới nở mỏ và chân có màu xám, điểm vàng. Khi trưởng
7


thành có màu vàng nhạt hơi xám. Vịt Kỳ Lừa trưởng thành mỏ có màu xám
đen (68,91%) hoặc xám xanh (31,09%). Chân chủ yếu có màu xám (Trần Huê
Viên và cs., 2002).
Hình dáng: Vịt Cổ Lũng trưởng thành cơ thể khá vững chắc, mình ngắn, bè,
hình chữ nhật. Đầu to, cổ ngắn, rụt, ngực sâu, giữa vịt trống và vịt mái không có sự
khác biệt rõ về ngoại hình.
Phân biệt với một số giống vịt kiêm dụng khác cho thấy: vịt Kỳ Lừa có
thân hình khối chữ nhật, đầu to, cổ vừa phải, mắt đen sáng (Trần Huê Viên và
cs., 2002). Vịt Đốm cũng có thân hình chữ nhật dài, vững chắc, ngực sâu, hình
dạng trung gian giữa vịt chuyên thịt và chuyên trứng. Đầu to vừa phải, cổ dài, có
màu trắng hoặc đốm xám đen (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011a; Doãn Văn
Xuân và cs., 2011a; Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012; Đặng Vũ Hòa, 2015).
Nghiên cứu đặc điểm ngoại hình của vịt Bầu Bến, Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và
cs. (2012), Vũ Đình Trọng và cs. (2015), cho biết: vịt Bầu Bến trưởng thành có
thân hình vững chắc, ngực sâu, thân thấp và ngắn. Đầu xám xanh. Như vậy, vịt
Cổ Lũng có thân hình tương tự với một số giống vịt kiêm dụng phổ biến của
nước ta. Tuy nhiên, điểm nổi bật của vịt Cổ Lũng là đầu to, cổ ngắn, chân ngắn,
thấp, mình bè.

Hình 4.2. Vịt Cổ Lũng lúc mới nở và lúc trưởng thành
4.1.3. Một số chỉ tiêu sinh lý và sinh hóa máu của vịt Cổ Lũng
Kết quả phân tích một số chỉ tiêu sinh lý máu được thể hiện trong Bảng 4.2.

Không có sự khác nhau về các chỉ số huyết học giữa vịt trống và vịt mái,
ngoại trừ số lượng tiểu cầu (P<0,05). Số lượng hồng cầu của vịt Cổ Lũng là 2,89
triệu/mm3 ở vịt trống và 2,75 triệu/mm3 ở vịt mái. Tính chung trống mái, vịt Cổ
Lũng có số lượng hồng cầu là 2,82 triệu/mm3. Theo Nguyễn Xuân Tịnh và cs.
(1996), số lượng hồng cầu của gia cầm dao động trong khoảng 2,5 - 3,23
triệu/mm3, điều này chứng tỏ vịt Cổ Lũng thí nghiệm có sức khỏe bình thường.
Theo dõi một số nghiên cứu khác cho thấy: vịt Đốm, vịt lai TP và PT có số lượng
hồng cầu lần lượt là 2,56; 2,60 và 2,11 triệu/mm3 (Đặng Vũ Hòa, 2015). Như vậy, số
8


lượng hồng cầu của vịt Cổ Lũng tương đương với số lượng hồng cầu của một số
giống vịt bản địa khác của Việt Nam.
Bảng 4.2. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu sinh lý máu của vịt Cổ Lũng
Chỉ tiêu
RBC
Hb
HCT
PLT
MCV
MCH
MCHC
WBC
Neutrophils
Esoinophils
Basophil
Lyphocyte
Monocyte

ĐVT

106/mm3
g%
%
3
10 /mm3
fL
pg
g/dl
103/mm3
%
%
%
%
%

Trống (n=30)
Mean ± SE
2,89
± 0,05
12,36
± 0,21
44,52
± 1,05
a
24,59
± 0,39
155,60 ± 4,87
43,03
± 0,87
28,30

± 0,89
b
38,55
± 0,98
23,96
± 0,86
7,29
± 0,43
b
2,58
± 0,22
53,96
± 1,20
12,19
± 0,73

Mái (n=30)
Mean ± SE
2,75 ± 0,05
11,98 ± 0,23
44,07 ± 1,15
23,06b ± 0,23
161,80 ± 5,12
43,89 ± 0,98
27,65 ± 0,80
40,98a ± 0,73
24,93 ± 0,66
6,82 ± 0,37
3,58a ± 0,25
52,68 ± 0,77

11,96 ± 0,56

Chung (n=60)
Mean ± SE
2,82
± 0,04
12,18 ± 0,16
44,30 ± 0,77
23,85 ± 0,25
158,60 ± 3,52
43,44 ± 0,65
27,98 ± 0,60
39,72 ± 0,63
24,43 ± 0,54
7,06
± 0,28
3,06
± 0,18
53,35 ± 0,72
12,08 ± 0,46

Ghi chú: RBC: số lượng hồng cầu có trong 1mm3 máu; Hb: số gam hemoglobin có trong 1 dL máu; HCT: dung
tích hồng cầu; PLT: số lượng tiểu cầu; MCV: thể tích trung bình của hồng cầu; MCH: lượng hemoglobin trung
bình trong một hồng cầu; MCHC: nồng độ hemoglobin trung bình. WBC: tổng số bạch cầu; Neutrophils: bạch
cầu đa nhân trung tính; Eosinophil: bạch cầu ái toan; Basophil: bạch cầu ái kiềm; Lymphocyte: lâm ba cầu;
Monocyte: bạch cầu đơn nhân lớn Các giá trị mang chữ cái khác nhau trên cùng một hàng thể hiện sự sai khác có
ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Hàm lượng Hb của vịt Cổ Lũng là 12,36g% ở con trống và 11,98g% ở
con mái. Tính chung trống mái, hàm lượng Hb là 12,18g%. Kết quả này tương

đương khi so sánh với vịt Đốm có hàm lượng Hb: 12,40g% (Đặng Vũ Hòa,
2015); vịt Đen tại Australia có hàm lượng Hb: 12,96g% (Mulley, 1979).
Các chỉ số wintrobe MCV (fL), MCH (pg) và MCHC (g/dL) của vịt Cổ
Lũng lần lượt là: 158,60; 43,44 và 27,98. So với kết quả nghiên cứu của Châu
Thị Huyền Trang và cs. (2014) trên vịt Xiêm tại Vĩnh Long các chỉ số trên lần
lượt là: 148,30; 44,58 và 34,41 thì kết quả trong nghiên cứu này có sự dao động
không đáng kể.
Số lượng và công thức bạch cầu của vịt Cổ Lũng được thể hiện ở Bảng
4.3. Số lượng bạch cầu của vịt mái (40,98 nghìn/mm3) cao hơn so với vịt trống
(38,55 nghìn/mm3) với P<0,05; trung bình trống mái là 39,72 nghìn/mm3. Kết
quả này thấp hơn khi so với kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Hòa (2015) trên
Đốm, vịt PT và vịt TP có số lượng bạch cầu tương ứng là 43,12; 42,91 và 39,24
nghìn/mm3 và cao hơn vịt Xiêm tại Vĩnh Long có số lượng bạch cầu 28,07
nghìn/mm3 (Châu Thị Huyền Trang và cs., 2014).
Tỷ lệ tỷ lệ bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu trung tính, bạch
cầu đơn nhân lớn và lâm ba cầu lần lượt là: 7,06; 3,06; 24,43; 12,08 và 53,35%.
Kết quả này phù hợp với công bố của Gladbach et al. (2010) cho biết, ở gia cầm
lympho bào và heterophils (Bạch cầu đa nhân trung tính) chiếm phần lớn trong
các tế bào của bạch cầu. Theo Đặng Vũ Hòa (2015) vịt Đốm có tỷ lệ bạch cầu ái
toan, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu trung tính, bạch cầu đơn nhân lớn và lâm ba
9


cầu lần lượt là 2,17; 0,17; 53,00; 1,50 và 43,00. Vịt TP có tỷ lệ lần lượt là 3,67;
0,17; 49,67; 1,50 và 45,00%. Vịt PT: 1,33; 0,00; 43,00; 2,00 và 53,67%.
Kết quả phân tích (Bảng 4.3) cho thấy: vịt trống có hàm lượng albumin là
17,26g/L, vịt mái là 17,99g/L, tính chung trống mái hàm lượng albumin của vịt
Cổ Lũng là 17,61g/L. Kết quả này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Đặng
Vũ Hòa (2015) trên vịt Đốm và con lai PT, TP có hàm lượng albumin lần lượt là
18,30; 18,12 và 17,60 g/L nhưng cao hơn so với kết nghiên cứu của Châu Thị

Huyền Trang và cs. (2014) trên vịt Xiêm có hàm lượng albumin đạt 17,08g/L.
Bảng 4.3. Kết quả phân tích một số chỉ tiêu sinh hóa máu vịt Cổ Lũng (g/l)
Chỉ tiêu
Albumin
α1 - Globulin
α2 - Globulin
β - Globulin
γ - Globulin
Protein tổng số

Trống (n=30)
Mean ±
17,26
3,10
7,26b
4,01
1,00
34,02

±
±
±
±
±
±

SE
0,33
0,09
0,14

0,07
0,01
0,33

Mái (n=30)
Mean ±
17,99
2,90
7,71a
4,03
1,01
34,24

±
±
±
±
±
±

Chung (n=60)

SE

Mean

±

SE


0,24
0,15
0,16
0,07
0.03
0,57

17,61
3,01
7,47
4,02
1,00
34,12

±
±
±
±
±
±

0,21
0,09
0,11
0,05
0,01
0,32

Hàm lương α2 - globulin của vịt trống (7,26g/L) thấp hơn so với vịt mái
(7,71g/L) với P<0,05; tính chung trống mái hàm lượng α2 - globulin của vịt là

7,47g/L. Các chỉ tiêu α1 - globulin, β - globulin và γ - globulin có sự khác nhau
giữa vịt trống và vịt mái không đáng kể và có hàm lượng lần lượt là 3,01; 4,02 và
1,00g/L (P>0,05).
Hàm lượng protein tổng số của vịt mái là 34,24g/L, vịt trống là 34,02g/L,
tính chung trống mái hàm lượng protein tổng số 34,12g/L. Kết quả này cao hơn
so với kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Hòa (2015) trên vịt Đốm và con lai PT,
TP có hàm lượng protein tổng số lần lượt là 33,92; 33,55 và 32,50g/L.
4.2. NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ DI TRUYỀN GIỮA VỊT CỔ LŨNG
VỚI MỘT SỐ GIỐNG VỊT NỘI CỦA VIỆT NAM
4.2.1. Sự đa hình của các chỉ thị SSR với các giống vịt nghiên cứu
PIC (Polymorphic Information Content) và He (Expected Heterozygosity)
là các chỉ số sử dụng để đánh giá về đa dạng di truyền. Kết quả PCR với 12 cặp
mồi SSR của 38 cá thể vịt được thể hiện ở Bảng 4.4 cho thấy: có 11 cặp mồi cho
sự đa hình tốt (trừ mồi CAUD011) với số băng đa hình đạt từ 2 đến 6. Kết quả
thu được 45 băng đa hình và 7 băng đơn hình, có trung bình 3,75 băng đa hình
và 0,58 băng đơn hình trên mỗi mồi SSR (Hình 4.3). Trong nghiên cứu này,
trung bình các chỉ số PIC và He của các mồi tương đối cao lần lượt là 0,62 và
0,67 (trừ CAUD011 với PIC 0,23; He 0,28).
Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của Alyethodi and Kumar
(2012) trên vịt Moti của Ấn Độ, cặp mồi CAUD026 có chỉ số PIC và He lần lượt
10


là 0,70 và 0,76. Trong khi cặp mồi CAUD011 có chỉ số PIC và He nhỏ nhất lần
lượt là 0,23 và 0,28.
Bảng 4.4. Số băng đa hình và hệ số PIC của 12 cặp mồi SSR
STT
1
2
3

4
5
6
7
8
9
10
11
12

Tên mồi
CAUD035
CAUD025
CAUD027
CAUD026
CAUD031
CAUD033
CAUD015
CAUD011
CAUD012
CAUD021
CAUD019
CAUD017
Tổng
Trung bình

Tổng số băng
6
2
3

6
4
4
6
1
3
5
2
3
45
3,75

Số băng đơn hình
0
1
1
0
0
1
0
2
1
0
0
1
7
0,58

PIC
0,76

0,43
0,62
0,76
0,64
0,70
0,70
0,23
0,62
0,72
0,54
0,64

He
0,79
0,54
0,68
0,79
0,69
0,75
0,74
0,28
0,68
0,77
0,59
0,69

0,62

0,67


Hình 4.3. Kết quả PCR-SSR với cặp mồi CAUD027
4.2.2. Quan hệ di truyền giữa các giống vịt nghiên cứu
Hệ số tương đồng của 38 cá thể vịt dao động trong khoảng 0,15 đến 0,94 và
trung bình là 0,55. Hệ số tương đồng di truyền giữa vịt Bầu Bến và vịt Cỏ trung
bình là 0,35, vịt Cỏ và vịt Cổ Lũng trung bình là 0,40 và giữa vịt Cổ Lũng và vịt
Bầu Bến trung bình 0,59.
Mối quan hệ di truyền giữa các giống vịt được thể hiện trên Hình 4.4. Có
thể nhận thấy rằng cây phân loại được chia làm 2 nhánh khác nhau, nhánh I và
nhánh II. Nhánh I được chia làm 2 phân nhánh: phân nhánh Ia gồm các các cá
thể vịt CL01, CL02, B06, CL19, CL20, CL21, B07, CL24, CL08, CL18, B01,
CL15, B03, B05, B04; Phân nhánh Ib gồm các cá thể vịt CL09, CL13, CL11,
CL16, CL26, CL22, CL03, CL07, CL27, CL12, CL04, CL05, CL06, CL23,
CL25 và CL17. Nhánh II gồm 7 cá thể vịt thuộc quần thể vịt Cỏ (C01 đến C07).
Như vậy, có thể thấy rằng quần thể vịt Cổ Lũng có quan hệ di truyền gần hơn
11


với quần thể vịt Bầu (cùng 1 nhánh trên cây phân loại).

Hình 4.4. Cây phân loại của 38 cá thể vịt thuộc 3 quần thể vịt
4.3. KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA VỊT CỔ LŨNG
4.3.1. Khối lượng vịt Cổ Lũng nuôi để sinh sản qua các giai đoạn
Khối lượng cơ thể vịt Cổ Lũng nuôi để sinh sản được thể hiện trong Bảng
4.5. Khối lượng vịt trống mới nở là 45,26g/con; vịt mái là 45,11g/con. Lúc 8
tuần tuổi, khối lượng vịt trống là 1293,23g/con; vịt mái 1226,97g/con. Kết thúc
giai đoạn nuôi hậu bị (22 tuần tuổi), khối lượng vịt trống là 1934,77g/con; vịt
mái 1789,34g/con.
Bảng 4.5. Khối lượng vịt Cổ Lũng từ một ngày tuổi đến 22 tuần tuổi
Đvt: g/con
Tuần

tuổi
1nt
1
2
3
4
5
6
7
8
10
12
14
16
18
20
22*

Vịt trống (n=108)
Mean
±
SE
45,26
±
0,34
113,80
±
1,79
274,32
±

4,38
511,93
±
7,65
640,63
±
9,12
871,30
± 14,39
1093,53
± 18,42
1148,50
± 21,60
1293,23
± 21,80
1388,33
± 14,89
1476,23
± 19,32
1570,23
± 25,18
1654,83
± 18,51
1746,47
± 15,90
1838,87
± 22,62
1934,77
± 19,48


Cv
4,18
8,62
9,07
8,18
7,79
9,04
9,22
10,30
9,23
5,87
7,16
8,78
6,12
5,00
9,75
8,67

Mean
45,11
110,03
264,91
423,52
587,16
816,96
1052,77
1107,42
1226,87
1329,15
1440,31

1560,89
1606,70
1696,06
1724,08
1789,34

Vịt mái (n=432)
±
SE
±
0,47
±
1,15
±
3,70
±
6,83
±
6,86
±
11,94
±
16,87
±
15,55
±
22,11
±
19,69
±

20,61
±
21,87
±
20,80
±
20,15
±
17,34
±
18,02

Cv
5,73
5,76
7,65
8,83
6,29
8,00
8,77
7,69
9,87
8,11
7,84
7,67
7,09
6,50
5,38
5,58


Ghi chú: 22*: tuần tuổi vào đẻ

Khi nuôi bảo tồn tại Trung tâm nghiên cứu Vịt Đại Xuyên vịt Bầu Bến lúc
mới nở có khối lượng là: 39,0g (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011a); 41,0 42,0g/con (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012); 39,0 - 44,0g/con (Vũ Đình
Trọng và cs., 2015). Lúc 8 tuần tuổi vịt có khối lượng là: 1212,0g/con (Nguyễn
Đức Trọng và cs., 2011a); 1207,2 - 1220,1g/con (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và
cs., 2012); 1238,1 - 1336,4g/con (Vũ Đình Trọng và cs., 2015). Kết thúc giai
đoạn hậu bị, chuyển vào đẻ vịt Bầu Bến nặng: 2008,0g/con (Nguyễn Đức Trọng
12


và cs., 2011a); 1790,0g/con (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012); 1790,0 1857,3g/con (Vũ Đình Trọng và cs., 2015).
Nghiên cứu nuôi giữ, bảo tồn vịt Đốm tại Trung tâm nghiên cứu Vịt Đại
Xuyên, Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011a) cho biết: khối lượng vịt Đốm lúc mới
nở nặng 41,0g/con; 8 tuần tuổi nặng 1238,0g/con, đến lúc vào đẻ (25 tuần tuổi)
nặng 2125g/con. Theo Doãn Văn Xuân và cs. (2011a), khối lượng của vịt Đốm
(PL2) qua 4 thế hệ lúc mới nở nặng từ 41,97 - 42,0g/con, lúc 8 tuần tuổi nặng từ
1125,0 - 1265,0g/con. Kết thúc giai đoạn hậu bị, chuyển vào đẻ vịt mái có khối
lượng từ 1725,0 - 1790,0g/con.
Như vậy, khối lượng cơ thể của vịt Cổ Lũng tương tự như một số giống
vịt Bầu khác của nước ta như vịt Đốm, vịt Bầu Bến, vịt bầu Sín Chéng.
4.3.2. Tỷ lệ đẻ, năng suất trứng và tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng
Kết quả theo dõi các chỉ tiêu về tỷ lệ đẻ của vịt Cổ Lũng ở thế hệ thứ 3 và
so sánh với thứ hệ 1 và thế hệ 2 được thể hiện trong Bảng 4.6 và biểu diễn ở
Hình 4.5.
Bảng 4.6. Tỷ lệ đẻ của vịt Cổ Lũng (%)
Tuần
đẻ
1
4

8
12
16
20
24
28
32
36
40
44
48
52
TB

Thế hệ 1 (n=250)
Mean
±
SE
5,12
±
0,33
12,29
±
0,67
27,11
±
0,53
37,74
±
0,16

68,18
±
1,58
±
49,83
2,55
±
65,07
1,80
52,27
±
1,93
53,38
±
3,44
±
49,55
1,69
46,49
±
1,31
±
51,11
3,11
±
48,50
2,65
±
37,17
2,38

45,02
±
0,42

Thế hệ 2 (n=300)
Mean
± SE
5,07
± 0,28
22,68
± 0,26
56,43
± 4,05
68,69
± 1,75
61,79
± 1,92
± 0,54
51,34
± 0,93
64,00
50,18
± 5,46
51,21
± 0,11
± 4,74
44,81
44,64
± 5,10
± 0,79

39,39
± 2,66
38,49
± 2,10
33,57
46,85
± 0,11

Thế hệ 3 (n=432)
Mean
±
SE
4,85
±
0,28
29,06
±
3,34
58,44
±
1,06
69,86
±
1,79
57,89
±
2,12
±
50,65
2,06

±
59,91
1,66
48,15
±
3,06
48,03
±
1,50
±
50,61
5,08
46,32
±
3,52
±
45,13
2,26
±
36,94
2,82
±
38,01
2,65
48,09
±
0,16

Các số liệu cho thấy: ở tuần đẻ đầu tiên vịt Cổ Lũng đạt tỷ lệ đẻ từ 4,85 5,12% sau đó tăng dần và đạt đỉnh 71,08% lúc 15 tuần đẻ ở thế hệ 1; 71,79% lúc
13 tuần đẻ ở thế hệ thứ 2 và 70,84% lúc 13 tuần đẻ ở thế hệ thứ 3. Sau khi đạt

đỉnh, tỷ lệ đẻ của vịt giảm xuống và dao động không ổn định cho đến tuần đẻ
thứ 52. Trong giai đoạn này, tỷ lệ đẻ của vịt đạt đỉnh lần 2 mặc dù không cao
hơn so với lần đạt đỉnh lần 1 lúc 25 tuần đẻ. Tỷ lệ đẻ đạt đỉnh lần 2 ở các thế hệ
lần lượt là: 66,37; 64,90 và 67,84%. Tỷ lệ đẻ giảm thấp nhất còn 37,17% lúc 52
tuần đẻ ở thế hệ 1; 31,31% lúc 51 tuần đẻ ở thế hệ 2 và 35,66% lúc 51 tuần đẻ ở
thế hệ 3. Như vậy, quy luật chung về diễn biến tỷ lệ đẻ của vịt Cổ Lũng là: tỷ lệ
đẻ của vịt tăng nhanh sau khi bắt đầu đẻ (tỷ lệ đẻ đạt 5%) và đạt đỉnh đẻ ở tuần
đẻ thứ 13 - 15, sau đó tỷ lệ đẻ có xu hướng giảm dần rồi lại tăng lên tương đối
nhanh để đạt đỉnh đẻ lần thứ hai, mặc dù đỉnh đẻ này không cao bằng đỉnh đẻ
thứ nhất. Sau đó, tỷ lệ đẻ giảm cho tới hết chu kỳ đẻ trứng.
13


Tỷ lệ đẻ (%)

Theo dõi một số nghiên cứu về tỷ lệ đẻ của các giống vịt nội khác cho
thấy: vịt Bầu Bến nuôi tại Hòa Bình có tỷ lệ đẻ trung bình/52 tuần đẻ là 47,67%
(Hồ Khắc Oánh và cs., 2011). Khi nuôi tại Trung tâm nghiên cứu Vịt Đại Xuyên
vịt Bầu Bến có tỷ lệ đẻ bình quân/52 tuần đẻ là: 46,79% (Nguyễn Đức Trọng và
cs., 2011a); 48,11% (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012) và từ 44,16 - 46,4%
(Vũ Đình Trọng và cs., 2015). Vịt Đốm có tỷ lệ đẻ trung bình/52 tuần đẻ là:
45,16% (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011a); 46,58% (Doãn Văn Xuân và cs.,
2011a). Khi chọn lọc qua 3 thế hệ, vịt Đốm có tỷ lệ đẻ trung bình từ 45,16 48,4% (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011e). Theo Đặng Vũ Hòa (2015), tỷ lệ đẻ
của vịt Đốm qua các năm 2010 - 2011; 2011 - 2012 và 2012 - 2013 lần lượt là:
39,13; 44,06 và 46,94%. Như vậy, tỷ lệ đẻ của vịt Cổ Lũng tương đương với các
giống vịt kiêm dụng khác của Việt Nam.
80
70
60
50

40
30
20
10
0
1 4 7 10 13 16 19 22 25 28 31 34 37 40 43 46 49 52
Thế hệ 1
Thế hệ 2
Thế hệ 3
Tuần đẻ

Hình 4.5. Tỷ lệ đẻ của vịt Cổ Lũng qua 3 thế hệ
Theo dõi đến hết 52 tuần đẻ, năng suất trứng tích lũy của vịt Cổ Lũng ở
thế hệ 1, thế hệ 2 và thế hệ 3 lần lượt là: 163,91; 170,53 và 175,06 quả/mái
(Bảng 4.7). Theo Hồ Khắc Oánh và cs. (2011), vịt Bầu Bến nuôi khảo sát tại
Hòa Bình có năng suất trứng là 174 quả/mái/năm. Khi nuôi tại Trung tâm nghiên
cứu Vịt Đại Xuyên, năng suất trứng đạt: 168,33 quả/mái/năm (Nguyễn Đức
Trọng và cs., 2011a); 170,3 quả/mái/năm (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs.,
2012); 164,65 - 170,3 quả/mái/năm (Vũ Đình Trọng và cs., 2015). Kết quả
nghiên cứu nuôi giữ, bảo tồn quỹ gen vịt Đốm của Nguyễn Đức Trọng và cs.
(2011a) tại Trung tâm nghiên cứu Vịt Đại Xuyên có năng suất trứng là 164,63
quả/mái/năm. Khi chọn lọc vịt Đốm kiêm dụng PL2 qua 3 thế hệ có năng suất
trứng lần lượt là: 164,63; 167,7 và 176,2 quả/mái/năm (Nguyễn Đức Trọng và
cs., 2011e).Vịt Sín Chéng nuôi tại Lào Cai có năng suất trứng của vịt Sín Chéng
đạt 168,77quả/mái/năm (Bui Huu Doan et al., 2017b).
Mức tiêu tốn thức ăn trong tuần đẻ đầu tiên của các thế hệ lần lượt là
27,33; 27,33 và 27,57 kg thức ăn/10 quả trứng. Trong các tuần đẻ tiếp theo, do
tỷ lệ đẻ tăng nhanh và đạt đỉnh đẻ lúc 13 - 15 tuần đẻ nên tiêu tốn thức ăn cho
sản xuất trứng giai đoạn này giảm, thấp nhất ở thế hệ 1 là 2,57 ở 15 tuần đẻ; ở
thế hệ 2 là 2,41; ở thế hệ 3 là 2,40 kg thức ăn/10 quả trứng. Nhìn chung diễn

14


biến của tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng tỷ lệ nghịch với tỷ lệ đẻ của đàn vịt mái.
Điều này phù hợp với quy luật chung.
Bảng 4.7. Năng suất trứng tích lũy của vịt Cổ Lũng (quả/mái)
Tuần
đẻ
1
4
8
12
16
20
24
28
32
36
40
44
48
52

Thế hệ 1 (n=250)
Mean ± SE
0,36
± 0,02
2,53
± 0,06
9,14

± 0,13
18,25 ± 0,17
37,14 ± 0,13
50,82 ± 0,45
66,17 ± 0,51
83,14 ± 0,54
98,14 ± 0,63
112,14 ± 0,82
125,74 ± 0,64
139,52 ± 0,92
152,81 ± 1,26
163,91 ± 1,54

Thế hệ 2 (n=300)
Mean ± SE
0,35
± 0,02
3,55
± 0,03
16,65 ± 0,50
34,45 ± 1,30
52,21 ± 1,18
68,63 ± 1,35
84,32 ± 1,05
99,99 ± 1,63
113,84 ± 1,15
126,37 ± 0,33
138,66 ± 0,74
150,13 ± 0,77
161,33 ± 0,17

170,53 ± 0,05

Thế hệ 3
Mean
0,34
4,54
19,88
38,05
55,75
69,58
84,77
100,50
113,72
127,26
139,97
152,97
164,62
175,06

(n=432)
± SE
± 0,01
± 0,29
± 0,92
± 1,02
± 0,38
± 0,49
± 0,68
± 0,93
± 0,97

± 0,72
± 0,03
± 0,24
± 0,13
± 0,22

Tính chung toàn chu kỳ đẻ trứng 52 tuần đẻ, tiêu tốn thức ăn của vịt Cổ
Lũng qua các thế hệ lần lượt là: 4,69; 4,32 và 4,17 kg thức ăn/10 quả trứng.
Bảng 4.8. Tiêu tốn thức ăn của vịt Cổ Lũng (kg thức ăn/10 quả trứng)
Tuần
đẻ
1
4
8
12
16
20
24
28
32
36
40
44
48
52
TB

Thế hệ 1 (n=250)
Mean ± SE
27,33 ± 1,87

9,93
± 0,58
3,53
± 0,17
3,43
± 0,26
2,67
± 0,30
2,80
± 0,51
3,23
± 0,17
3,27
± 0,33
3,47
± 0,30
3,46
± 0,08
3,60
± 0,25
3,83
± 0,27
3.93
± 0,35
5,77
± 0,37
4,69
± 0,30

Thế hệ 2 (n=300)

Mean ± SE
27,33 ± 0,90
7,20
± 0,32
3,37
± 0,33
2,90
± 0,20
2,77
± 0,17
2,80
± 0,26
2,70
± 0,17
3,40
± 0,23
2,80
± 0,32
3,07
± 0,03
3,20
± 0,17
4,10
± 0,11
4,67
± 0,29
4,50
± 0,17
4,32
± 0,15


Thế hệ 3 (n=432)
Mean ± SE
27,57 ± 1,69
6,00
± 0,70
2,70
± 0,25
2,43
± 0,18
3,67
± 0,14
2,70
± 0,10
2,67
± 0,17
3,60
± 0,06
3,57
± 0,20
3,50
± 0,20
3,60
± 0,10
3,68
± 0,29
4,60
± 0,35
4,40
± 0,17

4,17
± 0,20

Theo dõi kết quả nghiên cứu về tiêu tốn thức ăn cho sản xuất trứng ở các
giống vịt nội khác cho thấy: vịt Bầu Bến nuôi bảo tồn tại Trung tâm nghiên cứu
Vịt Đại Xuyên có mức tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng là 4,53 kg (Nguyễn Thị
Thúy Nghĩa và cs., 2012). Theo Đặng Vũ Hòa (2015), vịt Đốm nuôi theo các
năm 2010 - 2011; 2011 - 2012 và 2012 - 2013 có mức tiêu tốn thức ăn/10 quả
trứng giống lần lượt là: 5,47; 4,29 và 5,43 kg.
4.3.3. Chất lượng trứng và các chỉ số ấp nở
Khối lượng trứng của vịt Cổ Lũng tại thời điểm khảo sát lúc 13 tuần đẻ là
71,36g/quả (Bảng 4.9). So sánh với khối lượng trứng của một số giống vịt nội
khác cho thấy: vịt Bầu Bến có khối lượng trứng dao động từ 65 - 74g/quả (Hồ
15


Khắc Oánh và cs., 2011), 51 - 72g/quả, trung bình đạt 66,30g/quả (Nguyễn Đức
Trọng và cs., 2011a). Vịt Đốm trong nghiên cứu của Đặng Vũ Hòa (2015) có
khối lượng 68,04g/quả. Vịt Sín Chéng nuôi tại Lào Cai có khối lượng trứng trung
bình đạt 70,52g/quả (Bui Huu Doan et al., 2017b).
Khối lượng lòng đỏ, khối lượng lòng trắng và khối lượng vỏ lần lượt là
22,71; 40,55 và 8,10g tương ứng với tỷ lệ 31,82; 56,82 và 11,36% so với khối
lượng trứng. Theo Nguyễn Thị Mai và cs. (2009), tỷ lệ lòng đỏ, tỷ lệ lòng trắng
và tỷ lệ vỏ lần lượt là: 35,6; 52,1 và 12,3%.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011a) cho biết: tỷ lệ
lòng đỏ, tỷ lệ lòng trắng và tỷ lệ vỏ của vịt Bầu Bến lần lượt là: 34,7; 52,0 và
11,5%, các chỉ tiêu này trên vịt Đốm lần lượt là: 35,3; 51,7 và 11,7%.
Bảng 4.9. Chất lượng trứng của vịt Cổ Lũng lúc 38 tuần tuổi (n = 30)
Chỉ tiêu
Khối lượng trứng

Khối lượng lòng đỏ
Tỷ lệ lòng đỏ
Khối lượng lòng trắng
Tỷ lệ lòng trắng
Khối lượng vỏ
Tỷ lệ vỏ
Chỉ số hình thái
Chỉ số lòng đỏ
Chỉ số lòng trắng đặc
Đơn vị Haugh
Màu lòng đỏ
Độ dày vỏ
Đường kính lòng trắng đặc
Đường kính lòng đỏ
Chiều cao lòng trắng
Chiều cao lòng đỏ

ĐVT
g
g
%
g
%
g
%
Độ Roche
mm
mm
mm
mm

mm

Mean
71,36
22,71
31,82
40,55
56,82
8,10
11,36
1,40
0,41
0,15
89,65
13,06
0,37
102,10
48,23
8,58
20,01

Giá trị
±
SE
±
0,61
±
0,23
±
0,31

±
0,49
±
0,33
±
0,10
±
0,10
±
0,00
±
0,00
±
0,00
±
0,63
±
0,15
±
0,00
±
0,87
±
0,31
±
0,11
±
0,17

Cv (%)

4,98
5,86
5,72
6,92
3,40
7,49
5,33
2,97
6,07
7,84
4,07
6,61
11,68
4,87
3,73
7,38
5,10

Chỉ số hình thái của trứng vịt Cổ Lũng là 1,40. Theo Nguyễn Thị Mai và
cs. (2009), chỉ số hình thái của trứng vịt dao động trong khoảng 1,20 - 1,58. Chỉ
số hình thái của trứng vịt Bầu Bến dao động trong khoảng: 1,40 - 1,41 (Nguyễn
Đức Trọng và cs., 2011a; Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012; Vũ Đình Trọng
và cs., 2015). Chỉ số hình thái của vịt Đốm là 1,38 (Nguyễn Đức Trọng và cs.,
2011a; Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012). Theo Bui Huu Doan et al.
(2017b), chỉ số hình thái của trứng vịt Sín Chéng là 1,40.
Chỉ số lòng đỏ của trứng vịt Cổ Lũng là 0,41 cao hơn so với kết quả
nghiên cứu của Bui Huu Doan et al. (2017b) trên vịt Sín Chéng có chỉ số lòng
đỏ là 0,40 và thấp hơn kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Hòa (2015) trên vịt
Đốm có chỉ số lòng đỏ là 0,44.
Đơn vị Haugh là một đại lượng biểu thị mối quan hệ giữa khối lượng

trứng và chiều cao lòng trắng đặc. Chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng trứng
càng tốt. Kết quả khảo sát chất lượng trứng của vịt Cổ Lũng có đơn vị Haugh là
89,65. Chỉ tiêu này ở vịt Bầu Bến là: 83,9 (Nguyễn Đức Trọng và cs., 2011a);
84,8 (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012) và từ 89,96 - 91,27 (Vũ Đình Trọng
và cs., 2015). Vịt Đốm có đơn vị Haugh là: 84,6 (Nguyễn Đức Trọng và cs.,
16


2011a, 2011e; Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012); 79,84 (Đặng Vũ Hòa,
2015). Kết quả nghiên cứu chất lượng trứng của vịt Sín Chéng nuôi tại Lào Cai
có đơn vị Haugh là: 91,16 (Bui Huu Doan et al., 2017). Như vậy, không có sự
khác biệt nhiều về đơn vị Haugh ở các giống vịt nói trên.
Độ dày vỏ trứng của vịt Cổ Lũng trung bình là 0,37mm. Kết quả này thấp
hơn với công bố của Bui Huu Doan et al. (2017b) trên vịt Sín Chéng có độ dày
vỏ trứng là 0,39mm và cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Hòa
(2015) trên vịt Đốm có độ dày vỏ trứng đo được ở 3 phần: đầu to, xích đạo và
đầu nhỏ có các số đo lần lượt là 0,34; 0,35 và 0,34 mm.
Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu ấp nở của vịt Cổ Lũng được thể hiện trong
Bảng 4.10. Kết quả cho thấy, sau 7 đợt ấp các chỉ tiêu ấp nở của vịt Cổ Lũng đạt
khá cao: tỷ lệ trứng có phôi đạt 95,19%; tỷ lệ nở/trứng có phôi đạt 87,71%; tỷ lệ
nở/số trứng ấp đạt 83,50% và tỷ lệ vịt loại I/số vịt nở ra đạt 94,57%.
Bảng 4.10. Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu ấp nở của vịt Cổ Lũng
Chỉ tiêu

Mean
384,71
95,19
87,71
83,50
94,57


Số trứng trung bình đưa vào ấp (quả)
Tỷ lệ trứng có phôi (%)
Tỷ lệ nở/trứng có phôi (%)
Tỷ lệ nở/trứng ấp (%)
Tỷ lệ vịt loại I/số vịt nở (%)

(n = 7 đợt ấp)
Giá trị
±
SE
±
18,54
±
0,54
±
0,49
±
0,68
±
0,63

Cv (%)
12,75
1,52
1,48
2,16
1,76

Theo Nguyễn Đức Trọng và cs. (2011a), tỷ lệ trứng có phôi của vịt Đốm

và vịt Bầu Bến lần lượt là 95,2 và 96,1%; tỷ lệ nở/trứng có phôi đạt tương ứng là
86,7 và 87,2%. Cũng nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu Vịt Đại Xuyên,
Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs. (2012) cho biết: vịt Đốm và vịt Bầu Bến có tỷ lệ
trứng có phôi đạt lần lượt là 95,22 và 95,06%, tỷ lệ nở/số trứng có phôi đạt
86,93 và 87,13% tỷ lệ nở/tổng số trứng ấp đạt lần lượt là 82,78 và 82,82%, tỷ lệ
con loại I/số con nở ra đạt lần lượt 94,50 và 93,24%. Như vậy, không có sự khác
biệt nhiều về các chỉ tiêu ấp nở của vịt Cổ Lũng khi so sánh với một số giống vịt
bản địa khác của Việt Nam.
4.4. KHẢ NĂNG SẢN XUẤT THỊT VÀ CHẤT LƯỢNG THỊT CỦA VỊT
CỔ LŨNG NUÔI THỊT
4.4.1. Tỷ lệ nuôi sống
Kết quả theo dõi về tỷ lệ nuôi sống của vịt Cổ Lũng nuôi thịt (được thể
hiện trong Bảng 4.11) cho thấy, vịt Cổ Lũng nuôi thịt có tỷ lệ nuôi sống cao,
nuôi đến 12 tuần tuổi vịt đạt tỷ lệ 95,33%, trong đó tỷ lệ nuôi sống của vịt trống
là 96,67% cao hơn so với vịt mái có tỷ lệ nuôi sống là 94%.
Bảng 4.11. Tỷ lệ nuôi sống của vịt Cổ Lũng thương phẩm
Tuần

Vịt trống (n=3)

tuổi

Mean ± SE

0-4

Vịt mái (n=3)

Tính chung (n=6)


Cv

Mean ± SE Cv

Mean ±

SE

Cv

98,67 ±

0,67 1,71

96,67 ± 1,33 2,38

97,66

± 0,33

0,59

4-8

98,67 ±

1,33 2,34

97,93 ± 0,03 0,05


98,29

± 0,69

1,21

8 - 12

99,32 ±

0,68 1,18

99,27 ± 0,72 1,26

99,30

± 0,35

0,60

17


Cả kỳ

96,67 ±

0,67 1,20

94,00 ± 2,00 3,68


95,33

± 1,20

2,18

Vịt Kỳ Lừa nuôi tại cơ sở sản xuất giai đoạn từ 1 - 70 ngày tuổi có tỷ lệ
nuôi sống trung bình đạt 93,36% (Trần Huê Viên và cs., 2002), nuôi tại Viện
Chăn nuôi giai đoạn từ 0 - 10 tuần tuổi có tỷ lệ nuôi sống đạt 96,8% (Nguyễn Thị
Minh Tâm và cs., 2006a). Vịt Bầu Bến và vịt Đốm giai đoạn 0 - 8 tuần tuổi có tỷ
lệ nuôi sống đạt 91,72% và 94,67% (Nguyễn Thị Thúy Nghĩa và cs., 2012). Vịt
Hòa Lan nuôi tại Tiền Giang giai đoạn 0 - 8 tuần tuổi có tỷ lệ nuôi sống đạt từ 96,0
- 97,7% (Hoàng Tuấn Thành và Dương Xuân Tuyển, 2016). Vịt Sín Chéng giai
đoạn từ 1 - 12 tuần tuổi có tỷ lệ nuôi sống là 95,5% (Bui Huu Doan et al., 2017a).
Như vậy, vịt Cổ Lũng thương phẩm trong nghiên cứu này có tỷ lệ nuôi sống tương
đương với các kết quả đã dẫn trên vịt một số giống vịt bản địa ở nước ta.
4.4.2. Khối lượng cơ thể
Khối lượng cơ thể của vịt Cổ Lũng nuôi thịt qua các tuần tuổi được thể
hiện trong Bảng 4.12. Sự khác nhau về khối lượng cơ thể giữa vịt trống và vịt
mái qua các giai đoạn tuổi có ý nghĩa thống kê (P<0,05) trừ giai đoạn 1 ngày
tuổi. Khi mới nở, con trống nặng 45,66g, con mái nặng 45,48g, không sai khác
đáng kể. Đến 8 tuần tuổi, vịt trống nặng 1559,11g, cao hơn so với vịt mái nặng
1541,48g. Đến12 tuần tuổi, vịt trống nặng 2103,08g, vịt mái 2005,97g. Tính
chung trống mái, 12 tuần tuổi vịt Cổ Lũng có khối lượng trung bình là 2054,52g.
Theo tác giả Bùi Hữu Đoàn và cs. (2017a), vịt Sín Chéng 1 ngày tuổi
nặng trung bình là 45,64g, 8 tuần tuổi đạt 1402,46g, 12 tuần tuổi đạt
1816,18g/con. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Tâm và cs. (2006a)
cho biết: vịt Kỳ Lừa lúc mới nở con trống nặng 41,4g, con mái nặng 40,1g; đến
8 tuần tuần tuổi con trống nặng 1544,9g, con mái nặng 1508,7g; kết thúc giai

đoạn nghiên cứu 10 tuần tuổi con trống nặng 1707,6g, con mái nặng 1614,6g.
Vịt Đốm thời điểm 1 ngày tuổi con trống có khối lượng 44,65g/con, con mái có
khối lượng 44,48g/con; giai đoạn 8 tuần tuổi con trống đạt 1677,50g/con, con
mái đạt 1640,80g/con; lúc 10 tuần tuổi khối lượng của con trống là 1926,40g,
khối lượng con mái là 1834,70g (Đặng Vũ Hòa, 2015). Vịt Bầu Bến nuôi bảo
tồn quỹ gen tại Hòa Bình giai đoạn 12 tuần tuổi có khối lượng là 1950g/con (Hồ
Khắc Oánh và cs., 2011).
Bảng 4.12. Khối lượng của vịt Cổ Lũng nuôi thịt từ mới nở đến 12 tuần tuổi
Tuần
tuổi
Mn
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Vịt Trống (n = 150)
Mean ± SE
Cv
45,66 ± 0,14
4,06
130,70a ± 0,40
3,99
241,28a ± 1,19

6,32
a
427,59 ± 2,06
6,20
641,37a ± 1,98
3,98
a
870,72 ± 3,04
4,49
1116,35a ± 4,46 5,13
1359,54a ± 5,90 5,58
1559,11a ± 6,12 4,91
1820,05a ± 6,61 4,67
1960,03a ± 7,11 4,66

Vịt Mái (n = 150)
Mean ± SE
Cv
45,48 ± 0,17
4,81
128,36b ± 0,59
5,93
227,63b ± 1,50
8,51
b
397,22 ± 2,21
7,17
608,38b ± 3,78
7,99
b

828, 37 ± 4,71
7,02
1062,74b ± 6,37
7,70
b
1310,25 ± 6,72
6,60
1541,48b ± 7,34
6,12
1744,78b ± 7,12
6,11
b
1876,84 ± 7,05
4,82

18

(Đvt: g/con)
Tính chung (n = 300)
Mean ± SE
Cv
45,57 ± 0,11
4,45
129,53 ± 0,36
5,11
234,45 ± 1,02
7,97
412,41 ± 1,72
7,61
624,88 ± 2,32

6,74
849,54 ± 3,03
6,49
1089,55 ± 4,15
6,92
1334,90 ± 4,67
6,35
1570,30 ± 5,03
5,81
1782,42 ± 5,27
5,37
1918,43 ± 5,50
5,21


2043,54a ± 7,07
2103,08a ± 6,56

11
12

4,45
4,01

1945,83b ± 7,46
2005,97b ± 7,64

4,93
4,89


1994,69 ± 5,80
2054,52 ± 5,70

5,28
5,03

Các giá trị trong cùng một hàng mang chữ cái khác nhau thì giữa chúng sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Kết quả khảo sát khối lượng sinh trưởng và thời gian nuôi bằng hàm sinh
trưởng Richards được thể hiện trong Bảng 4.13.
Hệ số R2 biểu thị mức độ chính xác của số liệu được ước tính từ hàm số
so với số liệu thực tế. Hệ số này tương đối cao, từ 98,86 - 99,19%. Khối lượng
trung bình lúc 12 tuần tuổi của vịt mái là 2005,97g (Bảng 4.12), trong khi đó
tham số a tương ứng của hàm Richards là: 2360,19g. Khối lượng trung bình lúc
12 tuần tuổi của vịt trống là 2103,08g (Bảng 4.12), trong khi các tham số a
tương ứng của hàm Richards là: 2489,56g. Tính chung trống mái, khối lượng
trung bình lúc 12 tuần tuổi là 2054,52g trong khi tham số a của hàm Richards là
2424,88g.
Bảng 4.13. Các tham số của hàm Richards khảo sát sinh trưởng vịt
Tính biệt

a ± SE

k ± SE

n

R2

0,28 ± 0,01


-0,006

98,86

b ± SE

Mái

2360,19 ±

21,04

0,03 ±

0,40

Trống
Chung

2489,56 ±
2424,88 ±

19,46
15,61

0,01 ±
0,02 ±

0,02

0,04

0,28 ± 0,00 -0,003 99,19
7
0,28 ± 0,00
-0,005 98,87
6
Thời gian nuôi và khối lượng vịt đạt được tại điểm uốn khi khảo sát bằng

hàm Richards được trình bày trong Bảng 4.14. Điểm uốn của đường cong sinh
trưởng là điểm có tốc độ sinh trưởng cao nhất hay là điểm chuyển từ pha sinh
trưởng nhanh sang pha sinh trưởng chậm. Ở vịt mái, thời gian điểm uốn là 5,75
tuần, tương ứng với khối lượng lần lượt là 896,87g. Ở vịt trống thời gian điểm
uốn là 4,30 tuần, tương ứng với khối lượng là 946,03g. Tính chung trống mái,
thời gian điểm uốn của hàm Richards là 4,95 tuần, tương ứng với khối lượng là
921,45g.
Bảng 4.14. Khối lượng tiệm cận, thời gian và khối lượng tại điểm uốn của
vịt khảo sát bằng hàm Richards
Tính biệt
Mái
Trống
Chung

Khối lượng
trưởng thành (g)
2360,19
2489,56
2424,88

Thời gian của

điểm uốn (tuần)
5,75
4,30
4,95

Khối lượng
tại điểm uốn (g)
896,87
946,03
921,45

Thời gian điểm uốn của vịt Cổ Lũng dài hơn so với vịt Đốm trong nghiên
cứu của Đặng Vũ Hòa (2015), thời gian điểm uốn của vịt Đốm khi khảo sát bằng
hàm Richards, Gompertz và Logistic ở con mái lần lượt là 3,71; 3,71 và 4,48
tuần, tương ứng với khối lượng 736,88; 737,54 và 912,84g. Ở con trống, thời
gian điểm uốn là 3,95; 3,96 và 4,26 tuần, tương ứng với khối lượng lần lượt là
941,32; 942,85 và 1188,51g. Như vậy, Khi thay các tham số đã xác định ta thu
được các hàm như trong Bảng 4.15 và được minh họa bằng hình 4.6.
Bảng 4.15. Hàm Richards khi khảo sát vịt Cổ Lũng
Tính biệt
Mái

Hàm số
KL = 2360,19*(1-0,0258755*exp(-0,281731*TT))^(-1/-0,00622506)

19


Trống
Chung


KL = 2489,56*(1-0,0116732*exp(-0,276514*TT))^(-1/-0,0028539)
KL = 2424,88*(1-0,020931*exp(-0,278964*TT))^(-1/-0,00508139)
Plot of Fitted Model

Plot of Fitted Model

2400

2400

2000

2000

2000

1600

1600

1600

1200

1200

KL

KL


KL

Plot of Fitted Model
2400

800

800

800

400

400

1200

400

0

0

0

0

2


4

6

8

10

12

2

4

6

8

10

12

TT

TT

Mái

0
0


2

4

6

8

10

12

TT

Trống

Chung trống mái

Hình 4.6. Đồ thị của hàm Richards khi khảo sát vịt Cổ Lũng
4.4.3. Tiêu tốn thức ăn
Hiệu quả chuyển hóa thức ăn của vịt Cổ Lũng được trình bày trong Bảng
4.16. Giai đoạn 0 - 10 tuần tuổi mức tiêu thụ thức ăn trung bình của vịt là
104,52g/con/ngày, tiêu tốn 4,02kg thức ăn/kg tăng khối lượng và tăng khối
lượng trung bình 26,75g/con/ngày. Giai đoạn 0 - 11 tuần tuổi mức tiêu thụ thức
ăn trung bình là 114,54g thức ăn/ngày, tiêu tốn 4,69kg thức ăn/kg tăng khối
lượng và mức tăng trung bình 25,31g/con/ngày. Giai đoạn 0 - 12 tuần tuổi mức
tiêu thụ thức ăn trung bình là 123,05g thức ăn/ngày, tiêu tốn 5,41kg thức ăn/kg
tăng trọng, trong khi mức tăng khối lượng trung bình là 23,92g/con/ngày.
Theo Bui Huu Doan et al. (2017a), vịt Sín Chéng giai đoạn 1 - 12 tuần

tuổi có mức thu nhận thức ăn trung bình là 142,82g/con/ngày, tiêu tốn 4,93 kg
thức ăn/kg tăng khối lượng. Vịt Kỳ Lừa giai đoạn 10 tuần tuổi mức tiêu thụ
thức ăn là 132,4g/con/ngày, tiêu tốn 4,29 kg thức ăn/kg tăng khối lượng
(Nguyễn Thị Minh Tâm và cs., 2006a).
Bảng 4.16. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng của vịt (n = 3)
Giai đoạn
(TT)
0-1
0-2
0-3
0-4
0-5
0-6
0-7
0-8
0-9
Giai đoạn 0 - 10
Giai đoạn 0 - 11
Giai đoạn 0 - 12

Tiêu tốn thức ăn
(g/con/ngày)
Mean
±
SE
18,47
±
0,45
21,67
±

0,03
34,03
±
0,32
44,79
±
0,08
54,75
±
0,30
64,45
±
0,71
73,86
±
0,76
82,98
±
0,48
93,12
±
0,35
104,52 ±
1,60
114,54 ±
2,20
123,05 ±
2,43

Tiêu tốn thức ăn

(Kg TĂ/kg tăng KL)
Mean
±
SE
1,58
±
0,01
1,63
±
0,01
1,96
±
0,02
2,17
±
0,04
2,39
±
0,04
2,60
±
0,04
2,80
±
0,04
3,04
±
0,02
3,36
±

0,00
4,02
±
0,02
4,69
±
0,05
5,41
±
0,07

4.4.4. Khả năng cho thịt và chất lượng thân thịt của vịt Cổ Lũng nuôi thịt
4.4.4.1. Năng suất thịt
Tại thời điểm mổ khảo sát 9, 10 và 11 tuần tuổi tỷ lệ thân thịt của vịt lần
lượt là 67,97%, 68,31% và 69,73%. Khi so sánh các thời điểm giết mổ khác
nhau ta thấy tỷ lệ thân thịt cao hơn ở 11 tuần tuổi và thấp hơn ở 9 tuần tuổi
(P<0,05), còn tỷ lệ thân thịt ở 9 và 10 hoặc 10 với 11 tuần tuổi sai khác không
có ý nghĩa thống kê (P>0,05); tỷ lệ thịt lườn lần lượt là 12,06%, 12,94%,
20


12,96% và tỷ lệ thịt đùi lần lượt là 12,24%, 12,98% và 12,95% không sai khác
thống kê giữa các thời điểm giết mổ (P>0,05). Vịt Đốm tại 9 và 10 tuần tuổi có
tỷ lệ thân thịt lần lượt là 67,09% và 67,33%, tỷ lệ thịt lườn là 12,40% và
14,11%, tỷ lệ thịt đùi là 13,01% và 12,29% (Đặng Vũ Hòa và cs., 2014). Vịt
Bầu Bến giai đoạn 10 tuần tuổi có tỷ lệ thân thịt là 67,5%, tỷ lệ thịt lườn là
12,7%, tỷ lệ thịt đùi là 13,5% (Hồ Khắc Oánh và cs., 2011).
Bảng 4.17. Kết quả khảo sát thân thịt vịt Cổ Lũng thương phẩm tại thời
điểm 9, 10 và 11 tuần tuổi (n = 6)
Thành phần

KL sống
Tỷ lệ thân thịt
Tỷ lệ thịt lườn
Tỷ lệ thịt đùi
Tỷ lệ mỡ bụng

9 tuần tuôi
Mean ± SE
kg 1749,39c ± 7,60
%
67,97b ± 0,60
%
12,06 ± 0,43
%
12,24 ± 0,40
%
1,02b ± 0,05

ĐVT

10 tuần tuổi
Mean ± SE
1801,16b ± 8,36
68,31ab ± 0,42
12,94 ± 0,20
12,98 ± 0,27
1,10ab ± 0,08

11 tuần tuổi
Mean ± SE

1885,24a ± 20,46
69,73a ± 0,37
12,96 ± 0,26
12,95 ± 0,10
1,36a ± 0,13

Các giá trị trong cùng một hàng mang chữ cái khác nhau thì giữa chúng sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Tổng tỷ lệ thịt đùi và thịt lườn của vịt Cổ Lũng tại 9, 10 và 11 tuần tuổi
lần lượt là 24,3%; 25,92% và 25,91% thấp hơn khi so với kết quả nghiên cứu
của Đặng Vũ Hòa và cs. (2014) trên vịt Đốm tại 9 và 10 tuần tuổi lần lượt là
25,4% và 26,4%.
4.4.4.2. Chất lượng thịt của vịt
Khả năng giữ nước, độ pH, màu sắc và độ dai của thịt vịt Cổ Lũng được
thể hiện trong Bảng 4.18. Tỷ lệ mất nước bảo quản, mất nước sau chế biến của
thịt đùi và thịt lườn giảm dần theo độ tuổi trong khi độ dai của thịt lại tăng dần
theo độ tuổi do gia cầm nuôi càng lâu thì hàm lượng nước trong thịt giảm,
nhưng hàm lượng vật chất khô lại tăng. Sự sai khác này có ý nghĩa thống kê
ngoài tỷ lệ mất nước sau chế biến. Kết quả nghiên cứu của Đặng Vũ Hòa và cs.
(2014) trên vịt Đốm tại thời điểm 9, 10 tuần tuổi cho thấy tỷ lệ mất nước sau chế
biến của thịt đùi và thịt lườn lần lượt là 33,46; 32,70% và 34,99; 33,01% cao
hơn so với kết quả nghiên cứu này. Tuy nhiên, độ dai của thịt lại tương đương
nằm trong khoảng từ 2,89 - 3,50kg.
Bảng 4.18. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng thịt vịt (n=6)
Chỉ tiêu
Tỷ lệ mất nước BQ
Tỷ lệ mất nước CB
pH15
pH24
Màu sáng L*

Màu đỏ a*
Màu vàng b*

Đùi
Lườn
Đùi
Lườn
Đùi
Lườn
Đùi
Lườn
Đùi
Lườn
Đùi
Lườn
Đùi
Lườn

9 tuần tuổi
Mean ± SE
2,86a ± 0,17
3,23a ± 0,47
31,28 ± 1,12
32,45 ± 0,83
5,96c ± 0,04
5,82b ± 0,04
5,70b ± 0,03
5,60b ± 0,14
45,02a ± 0,33
46,74a ± 0,41

15,02b ± 0,27
15,09 ± 0,18
4,17 ± 0,22
4,27 ± 0,24

21

10 tuần tuổi
Mean ± SE
2,23ab ± 0,33
2,46b ± 0,17
30,11 ± 1,21
31,18 ± 0,76
6,35a ± 0,03
6,02a ± 0,04
6,10a ± 0,03
5,76a ± 0,01
42,80b ± 0,63
45,82b ± 0,33
15,62ab ± 0,30
15,16 ± 0,17
4,39 ± 0,29
4,58 ± 0,20

11 tuần tuổi
Mean ± SE
2,07b ± 0,11
2,29c ± 0,17
29,91 ± 0,54
30,36 ± 0,89

6,11b ± 0,04
6,00a ± 0,05
5,70b ± 0,08
5,61b ± 0,03
42,98b ± 0,44
45,83b ± 0,36
16,16a ± 0,24
15,66 ± 0,30
4,58 ± 0,18
4,82 ± 0,24


Độ dai (N)

Đùi 30,57c ± 1,10
Lườn 29,30b ± 0,79

31,92b ± 1,78
31,18ab ± 1,10

32,99a ± 1,49
32,20a ± 0,92

Các giá trị trong cùng một hàng mang chữ cái khác nhau thì giữa chúng sai khác có ý nghĩa thống kê
(P<0,05)

Theo Ristic (1977), ở tất cả các loài gia cầm, pH của thịt lườn nằm trong
khoảng 5,8 - 6,0 và thịt đùi nằm trong khoảng 6,2 - 6,6 là bình thường. Nếu thịt
gia cầm có pH ≤ 5,7 thì có khả năng giữ nước thấp, thịt thường nhạt, xốp và rỉ
nước; ngược lại, nếu thịt gia cầm có pH ≥ 6,4 thì thịt đó chắc, khô và khả năng

giữ nước tốt. Độ pH15 của thịt vịt Cổ Lũng nằm trong khoảng từ 5,82 - 6,35 cao
nhất ở giai đoạn 10 tuần tuổi và thấp nhất ở 9 tuần tuổi với P<0,05 (Bảng 4.18).
Do sự phân giải yếm khí glycogen trong cơ nên pH 24h có sự giảm nhẹ so với
pH 15 phút sau khi giết mổ (5,60 - 6,10).
Độ sáng (L*) của thịt vịt Cổ Lũng dao động trong khoảng 42,80 - 46,74,
màu đỏ (a*) từ 15,02 - 16,16 và màu vàng (b*) từ 4,17 - 4,82 trong đó thịt đùi
của vịt có xu hướng sẫm màu hơn so với thịt lườn. Màu sáng (L *) cao nhất tại
thời điểm 9 tuần tuổi, giảm tại 10 tuần tuổi sau đó tăng dần, trong khi màu đỏ và
màu vàng có xu hướng tăng dần theo độ tuổi (P<0,05).
Tỷ lệ vật chất khô, khoáng tổng số và protein thô trong thịt vịt Cổ Lũng
tăng nhẹ theo tuổi giết thịt. Hàm lượng vật chất khô đạt từ 23,01 - 24,46%, hàm
lượng khoáng tổng số đạt từ 1,23 - 1,32%, hàm lượng lipit thô đạt từ 1,86 2,18%, hàm lượng protein thô đạt từ 18,61 - 20,41% (Bảng 4.19). Theo kết quả
nghiên cứu của Trần Huê Viên và cs. (2002), Nguyễn Thị Minh Tâm và cs.
(2006a) thịt lườn của vịt Kỳ Lừa tại thời điểm 10 tuần tuổi có tỷ lệ vật chất khô
đạt từ 22,91 - 24,30%, hàm lượng lipit thô đạt từ 1,16 - 1,45%, hàm lượng
khoáng tổng số đạt từ 1,18 - 1,32% và hàm lượng protein thô đạt từ 20,04 21,16% tương đương với kết quả trong nghiên cứu này.
Bảng 4.19. Thành phần hóa học thịt lườn của vịt Cổ Lũng
Thành phần
VCK
Khoáng tổng số
Lipi thô
Protein thô

9 tuần tuổi
Mean
±
SE
23,01
±
0,19

1,23
±
0,01
2,18
±
0,06
18,61
±
0,17

10 tuần tuổi
Mean ±
SE
23,67 ±
0,17
1,24
±
0,01
2,02
±
0,21
19,74 ±
0,09

Đvt: %, n=6
11 tuần tuổi
Mean ± SE
24,46 ± 0,06
1,32 ± 0,01
1,86 ± 0,10

20,41 ± 0,23

Hàm lượng các axit amin là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng thịt
và nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng có thể thấy thịt vịt Cổ Lũng có đầy
đủ các loại axit amin và đặc biệt là các axit amin thiết yếu (Bảng 4.20).
Hầu hết các thành phần axit amin của thịt vịt tại thời điểm 10 tuần tuổi
cao hơn so với thời điểm 11 tuần tuổi. Hàm lượng một số axit amin thiết yếu
như histidine từ 0,67 - 0,70%, methionine từ 0,56 - 0,57%, valine từ 1,14 1,15%, lysine từ 2,41 - 2,47%, phenylanine từ 1,20 - 1,26%, iso - leucine từ 1,26
22


- 1,66%. Theo dõi nghiên cứu về hàm lượng axit amin trong thịt lườn của vịt
Bắc Kinh như sau: histidine: 0,32%; threonine: 0,46%; phenylanine: 0,32%;
valine: 0,46%; lysine: 0,92%; methionine: 0,70% (Aronal et al., 2012). Một số
giống vịt bản địa tại Phần Lan giết thịt tại thời điểm 7 tuần tuổi có hàm lượng
axit amin như sau: valine từ 0,36 - 0,70%, leucine từ 0,76 - 0,84%, lysine từ
0,86 - 0,96% và threonine từ 0,41 - 0,52% (Woloszyn et al., 2006). Các kết quả
trên đều thấp hơn khi so với kết quả nghiên cứu này. Như vậy, có thể thấy hàm
hượng các axit amin trong thịt lườn của vịt Cổ Lũng là tương đối cao, đặc biệt là
các axit amin thiết yếu.
Bảng 4.20. Hàm lượng một số axit amin có trong thịt lườn của vịt
Cổ Lũng
Axit amin

10 tuần tuổi

Đvt: %, n=6
11 tuần tuổi

Mean


±

SE

Mean

±

SE

Aspatic acid

2,69

±

0,46

2,57

±

0,77

Glutamic acid

3,65

±


0,71

3,27

±

0,96

Serine

2,60

±

0,51

2,33

±

0,68

Glycine

1,25

±

0,23


1,22

±

0,36

Histidine

0,70

±

0,10

0,67

±

0,20

Threonine

1,44

±

0,18

1,47


±

0,45

Arginine

5,85

±

1,56

4,78

±

0,98

Alanine

3,22

±

0,90

2,45

±


0,49

Proline

1,15

±

0,26

1,02

±

0,28

Cystine

0,19

±

0,04

0,13

±

0,00


Tyrosine

1,06

±

0,16

1,04

±

0,30

Valine

1,15

±

0,18

1,14

±

0,33

Methionine


0,57

±

0,07

0,56

±

0,17

Lysine

2,41

±

0,40

2,47

±

0,79

Iso-Leucine

1,26


±

0,22

1,66

±

0,35

L - Leucine

2,09

±

0,33

2,05

±

0,62

Phenylanine

1,26

±


0,22

1,20

±

0,34

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. KẾT LUẬN
1) Tổng số lượng vịt Cổ Lũng trong 3 năm từ 2015 - 2017 tại huyện Bá
Thước lần lượt là: 35,8; 24,1 và 32,8 nghìn con. Số lượng và sự phân bố của vịt
Cổ Lũng ở huyện Bá Thước tập trung chủ yếu ở 6 xã khu vực Quốc Thành gồm:
xã Ban Công, Cổ Lũng, Lũng Niêm, Lũng Cao, Thành Lâm và Thành Sơn.
Vịt Cổ Lũng khi mới nở toàn thân phủ một bộ lông tơ màu xám đen xen kẽ
23


×