Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 56 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG
KHOA LỊCH SỬ
***

KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI:

VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN
CUỐI THẾ KỶ XIX

Giáo viên hướng dẫn :

TS. LÊ THỊ THU HIỀN

Họ và tên sinh viên

:

PHÙNG THỊ MỸ HIỀN

Lớp

:

15CLS

Chuyên ngành

:



CỬ NHÂN LỊCH SỬ

Đà Nẵng, tháng 04 năm 2019


MỤC LỤC

MỤC LỤC ..................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................3
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................6
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .....................................................7
6. Đóng góp của đề tài ...........................................................................................8
7. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................8
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TRƯỚC THẾ KỈ XVII ..9
1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................9
1.1.1 Vị trí địa lý ..................................................................................................9
1.1.2 Đất đai, địa hình .........................................................................................9
1.1.3 Khí hậu, thủy văn ......................................................................................10
1.2. Khái quát lịch sử vùng đất Điện Bàn trước thế kỉ XVII ................................12
1.3. Đời sống kinh tế - xã hội ................................................................................16
1.4. Đặc điểm dân cư, văn hóa ..............................................................................17
CHƯƠNG 2: DIỆN MẠO VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TỪ THẾ KỈ XVII ĐẾN
CUỐI THẾ KỈ XIX .................................................................................................21
2.1. Vị trí địa lý và địa giới hành chính .................................................................21
2.1.1. Vị trí địa lý ...............................................................................................21

2.1.2. Địa giới hành chính .................................................................................21
2.2. Điều kiện tự nhiên ..........................................................................................25
2.2.1. Đặc điểm địa hình ....................................................................................25
2.2.2. Tài nguyên, thổ sản ..................................................................................27
1


2.2.3. Khí hậu, thủy văn .....................................................................................28
2.3. Tình hình kinh tế ............................................................................................31
2.4.1. Về nông nghiệp ........................................................................................31
2.4.2. Về thủ công nghiệp ..................................................................................32
2.4.3. Về thương nghiệp .....................................................................................33
2.4. Đặc điểm văn hóa ...........................................................................................35
2.4.1. Văn hóa vật chất ......................................................................................36
2.4.2. Văn hóa tinh thần.....................................................................................38
2.5. Một số nhận xét, đánh giá ..............................................................................47
KẾT LUẬN ..............................................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................53

2


LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu lịch sử vùng đất là một vấn đề không mấy xa lạ. Với niềm đam mê
nghiên cứu một lịch sử địa phương, niềm mong ước được khám phá sự hình thành,
phát triển và diện mạo của vùng đất Điện Bàn ở thế kỉ XVII đến cưới thế kỉ XIX. Do
đó, tôi chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là “Vùng đất Điện Bàn thế kỉ XVII đến cuối
thế kỉ XIX”. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trong
việc tìm kiếm tư liệu cũng như điền dã và ngay cả trong việc viết bài. Đôi lúc, chúng
tôi cảm thấy chán nản và bế tắc. Nhưng trong quá trình thực hiện bài khóa luận tốt

nghiệp tôi đã đón nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ, động viên, khuyến khích.
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Lê Thu Hiền - giảng
viên trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Cô đã tận tâm chỉ bảo, góp ý và
cung cấp nhiều tài liệu khoa học quý báu để chúng tôi có thể hoàn thành tốt bài
nghiên cứu. Cô thật sự rất nhiệt tình trong việc chỉ dẫn chúng tôi và cô cũng chính là
người nhen nhóm, đốt lên ngọn lửa đam mê nghiên cứu cho chúng tôi. Bằng sự nhiệt
tình và tâm huyết của cô, chúng tôi đã có thể hoàn thành bài nghiên cứu một cách tốt
nhất.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng đã tạo điều kiện cho chúng tôi đi điền dã và đã trực tiếp góp ý cho tôi để giúp
chúng tôi có một khóa luận hoàn chỉnh.
Vì là một đề tài mới mà chưa ai nghiên cứu một cách rõ ràng nên còn nhiều
thiếu sót, hạn chế. Kính mong quý thầy cô tiếp tục chỉ dẫn để bài khóa luận tốt nghiệp
đạt kết quả tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn!

GVHD

Đà Nẵng, ngày 26 tháng 4 năm 2019

T.S Lê Thị Thu Hiền

Phùng Thị Mỹ Hiền

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử hình thành và phát triển của Điện Bàn gắn liền với quá trình mở đất
của dân tộc Việt về phương Nam. Qua nhiều thế kỷ, địa giới hành chính có nhiều thay

đổi nhưng tên gọi Điện Bàn vẫn được lưu giữ với nhiều truyền thống tốt đẹp về văn
hóa lịch sử và cách mạng.
Điện Bàn, miền châu thổ hạ lưu sông Thu Bồn, vốn là vùng đất dinh trấn Thanh
Chiêm, nơi mà tên đất, tên người từng gắn liền với nhiều sự kiện trọng đại trong tiến
trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc. Điện Bàn có cả một kho tàng văn
hoá của đất đai, con người và làng nghề… Suốt 400 năm qua Điện Bàn luôn là nơi
diễn ra những sự kiện quan trọng của xứ Đàng Trong, tâm điểm của những biến đổi,
giao thoa, tiếp biến của hai nền văn minh Chăm – Việt. Đây là “tiền cung” của công
cuộc khai phá lãnh thổ về phương Nam và mở mang ngoại thương xứ Đàng Trong
của các chúa Nguyễn, là nơi sản sinh ra chữ Quốc ngữ từ thế kỷ XVII, cái nôi của
nghệ thuật Tuồng, là vùng đất học mang tên Ngũ phụng tề phi,… Dấu ấn ấy bây giờ
vẫn còn đậm nét trong bao di tích, lễ hội vẫn được tổ chức trên đất Điện Bàn nay.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vùng đất nơi đây đã bao lần biến đổi,
chuyển mình theo dòng lịch sử thời gian. Nghiên cứu diện mạo vùng đất Điện Bàn từ
thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX ta sẽ có được cái nhìn khách quan và chính xác hơn
về vùng đất này. Đồng thời có thêm kiến thức về lịch sử của những vùng đất khác
trong quá khứ. Hơn nữa, việc nghiên cứu lịch sử từng miền, từng địa phương đóng
vai trò quan trọng, góp phần bổ sung sử liệu cho việc xây dựng lịch sử của vùng đất
miền Trung nói chung và Quảng Nam nói riêng.
Việc nghiên cứu vùng đất Điện Bàn xưa còn có ý nghĩa thực tiễn, giúp địa
phương có chính sách phù hợp, kịp thời bảo tồn văn hóa, hoạch định những giải pháp,
định hướng phát triển. Từ sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử - văn hóa quê hương mình,
thế hệ trẻ sẽ yêu quê hương và có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa địa phương đó.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Vùng đất Điện Bàn
thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

4


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Một số nguồn sử liệu ghi chép về Điện bàn được nhìn dưới góc độ của lịch sử,
địa lý như: Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1868), Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn
Văn Siêu (1882), Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn (1910),
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1960), Đại Nam thực lục của
Quốc sử quán triều Nguyễn, Ô Châu cận lục của Dương Văn An (1555), Phủ biên
tạp lục của Lê Quý Đôn (1776); Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử Quán triều
Nguyễn (1910); Địa bạ thời Gia Long (1805) của Quốc sử Quán triều Nguyễn,…
Những sách này ghi chép về toàn bộ lịch sử Việt Nam, trong đó có Điện Bàn. Đây cổ
sử quan trọng và là nguồn tư liệu chính xác nhất.
Ngoài ra còn có sách viết về vùng Thuận Quảng (trong đó có Điện Bàn) như
sau: trong tác phẩm “Có 500 năm như thế: Bản sắc Quảng Nam từ góc nhìn phân kỳ
lịch sử” của Hồ Trung Tú. 500 năm ở đây được hiểu là tính từ năm 1306 - thời điểm
Huyền Trân công chúa bước qua bên kia đèo Hải Vân (nam Hải Vân) đến năm 1802
- lúc Gia Long lên ngôi. 500 năm đằng đẳng của lịch sử với biết bao thăng trầm. Còn
có khá nhiều công trình nghiên cứu như: “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang
nghiên cứu về vùng đất phía Nam của Đại Việt, về vương quốc Chămpa và Chân Lạp,
về công cuộc mở cõi của Nguyễn Hoàng cho đến tận đất Hà Tiên; “Quảng Nam qua
các thời đại” của Phan Du nghiên cứu về Quảng Nam từ khi còn là vùng đất của
Chiêm Thành cho đến khi trở thành một phần của Đại Việt; “Xứ Đàng trong năm
1621” của Critstophoro Borri ghi chép về Đàng Trong trong thời gian Critstophoro
Borri lưu trú tại đây (năm 1621);
Một số tác phẩm, công trình khác nghiên cứu về quá trình mở rộng lãnh thổ
của Đại Việt, phần nào đề cập đến Quảng Nam nói chung và Điện Bàn nói riêng, có
thể kể đến: Đất nước Việt Nam qua các đời (Đào Duy Anh), Công cuộc khai khẩn và
phát triển làng xã ở Bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII của
Huỳnh Công Bá, Tìm hiểu con người xứ Quảng của Nguyên Ngọc, “Xứ Đàng
Trong”: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18 là luận án tiến sĩ của Li
Tana,…

5



Nhìn chung, vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX ít nhiều đã
được đề cập đến nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến
cuối thế kỉ XIX.
3.2. Phạm vi của đề tài
Về không gian: Đề tài nghiên cứu vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII, lúc này
Điện Bàn có không gian rộng hơn hiện nay, gồm năm huyện là Tân Phước, An Nông,
Hòa Vinh, Phước Châu, Diên Khánh (Diên Khánh chính là Điện Bàn hiện tại). Đến
đầu thế kỷ XIX, Điện Bàn bao gồm hai huyện là Hòa Vang và Diên Khánh. Từ giữa
thế kỉ XIX đến cuối thế kỉ XIX Điện Bàn gồm ba huyện là Diên Phúc, Duy Xuyên và
Hòa Vang.
Về thời gian: Tìm hiểu vùng đất Điện Bàn trong khoảng thời gian từ thế kỉ
XVII đến cuối thế kỉ XIX. Đây là thời gian khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng thăng huyện
Điện Bàn vốn thuộc phủ Triệu Phong, Thuận Hóa thành phủ Điện Bàn, thuộc về dinh
Quảng Nam (1604) cho đến năm 1884, sau khi kí Hiệp ước Patonot.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX nhằm phục
dựng lại bức tranh quá khứ.
- Qua đó thấy được vai trò, vị trí của vùng đất này từ nhiều góc độ kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ
XVII đến cuối thế kỉ XIX
- Trong đó tìm hiểu khái quát về vùng đất Điện Bàn trước thế kỉ XVII về điều
kiện tự nhiên, địa giới hành chính, tình hình kinh tế xã hội và văn hóa dân cư.


6


- Đi sâu tìm hiểu về diện mạo vùng đất Điện Bàn thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ
XIX gồm điều kiện tự nhiên, tình hình chính trị, tình hình kinh tế, tình hình xã hội,
tình hình văn hóa dân cư và nêu một số nhận xét, đánh giá về vùng đất Điện Bàn
trong giai đoạn này.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Lịch sử vùng đất là một vấn đề rộng và phức tạp, cần nghiên cứu một cách cẩn
thận, kĩ lưỡng nên phải sử dụng nhiều nguồn tư liệu và nhiều phương pháp nghiên
cứu khác nhau.
5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi thu thập, khai thác các nguồn tư liệu có liên
quan đến vùng đất Điện Bàn gồm:
- Nguồn tư liệu cổ sử do nhà nước phong kiến và sử gia tư nhân biên soạn như:
Phủ biên tạp lục, Đại Việt sử ký tục biên, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục,
Đồng Khánh địa dư chí...; Nghiên cứu địa bạ Quảng Nam - Đà Nẵng…
- Các công trình nghiên cứu, sách tham khảo có liên quan đến đề tài như: Có
500 năm như thế của Hồ Trung Tú, Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam
thế kỉ 17 - 18 của LiTana, Xứ Đàng Trong của Phan Khoang,…
- Trên các website như: dienban.gov.vn, ,...
- Tài liệu thu thập được qua công tác điền dã thực tế ở các địa phương trên địa
bàn huyện Điện Bàn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi đứng vững trên quan điểm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ yếu sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu chủ đạo của
sử học là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, tôi còn sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu khác như:
- Phương pháp thống kê: Trong quá trình tìm kiếm và sưu tầm tài liệu từ những

nguồn khác nhau nên cần được sắp xếp và hệ thống lại một cách khoa học sao cho
phù hợp với mục tiêu nghiên cứu nhất.
- Phương pháp điền dã: Trực tiếp xuống địa bàn để thu nhập thông tin. Nhằm
lấy số liệu, thông tin phục vụ cho việc trình bày, đồng thời kiểm nghiệm độ chính
7


xác, để kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục. Phương pháp này rất quan trọng, ảnh
hưởng đến độ chính xác của đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Tận dụng những ý kiến của lãnh đạo, chính quyền,
cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực lịch sử - văn hóa để thu thập thêm thông tin là hết
sức thiệt thực và bổ ích phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. Từ đó xem xét, nhìn nhận,
phân tích, đánh giá đối tượng. Vận dụng phương pháp này có thể rút ngắn được quá
trình điều tra phức tạp, đồng thời bổ sung cho phương pháp điều tra cộng đồng.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích: Từ những thông tin và tài liệu thu thập
được, đánh giá, rút ra các đặc điểm của vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối
thế kỉ XIX.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về mặt khoa học
Đề tài này là công trình nghiên cứu khoa học mang tính hệ thống, cụ thể, phục
dựng lại bức tranh quá khứ, khái quát về diện mạo của vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ
XVII đến cuối thế kỉ XIX. Từ các vấn đề tìm hiểu của đề tài đã góp phần làm hoàn
chỉnh hơn về mặt địa lý - lịch sử - văn hóa của địa bàn huyện Điện Bàn.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu giúp cho người dân và cán bộ địa phương hiểu được quá
trình phát triển và sự biến đổi của vùng đất Điện Bàn trong những thế kỉ XVII, XVIII,
XIX cùng những đặc trưng về kinh tế, xã hội, văn hóa và dân cư. Qua đó hun đúc,
bồi dưỡng lòng tự hào, tình yêu mến đối với vùng đất này.
Đồng thời, công trình đóng góp nguồn tư liệu nghiên cứu về lịch sử vùng đất
Điện Bàn nói riêng và vùng đất Quảng Nam nói chung.

7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính được cấu trúc gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát vùng đất Điện Bàn trước thế kỷ XVII
Chương 2: Diện mạo vùng đất Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX

8


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN TRƯỚC THẾ KỈ XVII
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý
Điện Bàn là một huyện đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Quảng Nam, trải từ
15o50’ đến 15o 57’ vĩ bắc và từ 108o đến 108o 20’ kinh độ đông, cách tỉnh lỵ Tam Kỳ
48km về về phía Nam, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 25km về phía Bắc. Phía
bắc huyện Điện Bàn giáp huyện Hòa Vang (thành phố Đà Nẵng), phía Nam giáp với
huyện Duy Xuyên, phía Đông Nam giáp với thành phố cổ Hội An, phía Đông giáp
với biển Đông và phía Tây giáp với huyện Đại Lộc. Điện Bàn hiện nay có diện tích
tự nhiên 214,28km2
1.1.2 Đất đai, địa hình
Địa hình của huyện Điện Bàn tương đối bằng phẳng, mức độ chia cắt trung
bình, đặc trưng cho địa hình có nguồn gốc phát sinh từ sản phẩm phù sa sông biển,
với địa thế thấp dần từ Tây sang Đông. Điện Bàn có 3 dạng địa hình chính là địa hình
ven biển, địa hình đồng bằng và địa hình gò đồi. Địa hình ven biển hình gồm cồn cát
và bãi cát ven biển chạy dài từ Bắc xuống Nam, gồm các xã Điện Ngọc, Điện Nam
và Điện Dương, với diện tích khoảng 5.300ha, chiếm 25% diện tích toàn huyện. Địa
hình đồng bằng phân bố hầu hết ở các khu vực trung tâm và phía Tây của huyện, với
diện tích khoảng 15.500ha, chiếm 73% diện tích tự nhiên và là dạng địa hình chính
phân bố dân cư và đất nông nghiệp của huyện. Địa hình gò đồi, diện tích khoảng
395ha, ước tính 2% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở xã Điện Tiến, với độ dốc

từ 8o đến 20o, độ cao trung bình từ 8 đến 10m, điểm cao nhất là đồi 55 (cao 55m) ở
núi Bồ Bồ; đây là vùng đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp và một số diện tích đồi
hoang [39, tr.5]. Địa hình của huyện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, cả về
nông nghiệp, công nghiệp ở vùng cát và ven biển.
Đất đai của huyện gồm có 2 nhóm: đất cát và đất phù sa. Theo đặc tính của
từng loại đất có thể chia ra thành 4 nhóm đất, gồm 8 đơn vị đất, trong đó nhóm đất
cát biển và đất cồn cát trắng vàng ở các xã Điện Dương, Điện Nam, Điện Ngọc; nhóm
đất phù sa gồm có đất phù sa chua, đất phù sa, đất phù sa có tầng điếm rỉ, nhóm đất
mặn ít và trung bình; nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá phân bố trên các địa hình gò đồi ở
9


phía Tây của huyện (chủ yếu là ở xã Điện Tiến). Đất đai huyện Điện Bàn khá tốt, có
độ phì nhiêu cao, nhóm đất phù sa chiếm đến 69,67% tổng diện tích đất, cho phép
thâm canh nông nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng.
Nguồn tài nguyên rừng trồng ở khu gò đồi Điện Tiến và rừng phòng hộ ven biển.
Bên cạnh đó, Điện Bàn là một huyện đồng bằng ven biển nên địa hình tương
đối bằng phẳng, độ chênh cao thấp, thuận lợi cho phát triển đô thị - công nghiệp. Có
bờ biển cát trắng, nước trong, sông nước hiền hòa thuận lợi cho khai thác du lịch.
Vùng biển Điện Bàn nằm trong ngư trường Cửa Đại (Hội An) là một vùng có trữ
lượng cá, tôm, mực khá lớn. Ngoài ra còn có nhiều loại nhuyễn thể, rong tảo và đặc
sản quý hiếm khác...
1.1.3 Khí hậu, thủy văn
Huyện Điện Bàn nằm trong khu vực có chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
của tỉnh Quảng Nam và ảnh hưởng khí hậu ven biển miền Trung. Nhiệt độ trung bình
là 25,6oC, độ ẩm tương đối trung bình là 82,3% và lượng mưa trung bình năm là
2.298mm. Các tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 10 và tháng 11 (385 - 386mm),
tháng có lượng mưa thấp nhất là tháng 3 (23,5mm). [39, tr.9]. Các hướng gió thịnh
hành của Điện Bàn là gió mùa Đông Nam, Tây Nam và Đông Bắc. Gió mùa Đông
Nam xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 9, gió mùa Tây Nam - từ tháng 4 đến tháng 7 và

gió mùa Đông Bắc - từ tháng 10 đến tháng 12 hằng năm. Từ tháng 9 đến tháng 11
bão thường xảy ra, kết hợp với các trận mưa lớn gây ra lũ lụt làm ảnh hưởng đến sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Hệ thống thủy văn của huyện Điện Bàn chủ yếu là bắt nguồn từ hệ thống sông
Thu Bồn - Vu Gia với các con sông: sông Thu Bồn, sông Yên, sông Vĩnh Điện, sông
Bình Phước, sông Thanh Quýt...
Sông Thu Bồn là con sông chính và là tuyến giao thông đường thủy liên huyện
quan trọng của tỉnh Quảng Nam. Đoạn sông Thu Bồn chảy qua Điện Bàn dài 27km,
lòng sông rộng trung bình từ 100 - 300m, chảy qua các xã Điện Hồng, Điện Quang,
Điện Thọ, Điện Phước, Điện Trung, Điện Phong và Điện Phương, là một trong những
tài nguyên quan trọng ở khu vực phía Nam của huyện. Sông Thu Bồn tạo ra những
bãi bồi phì nhiêu, qua đó hình thành những vùng quê trù phú nhất trong huyện mà
10


điển hình là vùng đất Gò Nổi nổi tiếng từ xưa đến nay.
Sông Vĩnh Điện là một nhánh của sông Thu Bồn, chảy theo hướng tây nam đông bắc, đoạn chảy qua huyện dài 10km, từ Vĩnh Điện đến Tứ Câu và chảy qua các
xã Điện An, Điện Nam, Điện Ngọc, Điện Thắng, lòng sông rộng từ 50 đến 80m, độ
sâu trung bình từ 4 đến 5m, về mùa khô thường bị nhiễm mặn và cạn kiệt.
Sông Yên nằm ở phía Tây của huyện, là đường ranh giới tự nhiên giữa Điện
Bàn, Đại Lộc và một phần Hòa Vang, đoạn chảy qua huyện dài 5km, chiều rộng từ
50 đến 70mm, chảy qua các xã Điện Hồng, Điện Tiến.
Sông Bình Phước - hay còn gọi là sông Bàu Sấu, sông Lạc Thành - nằm ở phía
tây bắc của huyện, chảy theo hướng tây nam - đông bắc, chiều dài 7km, chiều rộng
30 đến 50m chảy qua các xã Điện Hồng, Điện Thọ, Điện Tiến, Điện Hòa, là nguồn
nước tưới nông nghiệp cho các xã phía tây bắc của huyện1.
Sông Thanh Quýt2 phát nguồn từ sông Thu Bồn chảy qua Bình Long, Hạ
Nông, Đông Hồ đến Lục Giáp thì nhập vào sông La Thọ3.
Hệ thống sông ngòi của Điện Bàn phân bố tương đối đồng đều, mật độ phân
bố trung bình là 0,4 km/km2, thuận lợi cho việc cung cấp, tưới tiêu cho các cánh đồng,

là nguồn nước tưới chủ yếu cho đất nông nghiệp. Tuy nhiên, do độ sâu luồng nông
cạn, tính chất bất ổn của dòng sông và phân bố lưu lượng không đều trong năm, về
mùa lũ lưu tốc lớn gây xói lở bờ mạnh, diện tích đất bị xói lở, bồi lấp hằng năm hàng
trăm ha, gây thiệt hại đến sản xuất và các làng mạc, khu dân cư ven sông. Cùng với
nguồn nước trên bề mặt, huyện Điện Bàn còn có nguồn nước ngầm tương đối lớn,
với độ sâu trung bình từ 3 đến 5m.
Huyện Điện Bàn có bờ biển dài 8km. Biển Điện Bàn có chế độ bán nhật triều,

Sông Bình Phước, sông Bàu Sấu và sông Lạc Thành là một, nhưng nhân dân trong huyện thường gọi đoạn
sông chảy qua Bình Phước là sông Bình Phước, còn đoạn chảy qua Bàu Sấu là sông Bàu Sấu, đoạn chảy qua
Lạc Thành là sông Lạc Thành.
1

Trên thực tế sông Cổ Cò và sông Thanh Quýt là một, song nhân dân trong huyện quen gọi đoạn sông chảy
từ Bình Long đến Đông Hồ gọi là sông Cổ Cò, còn đoạn sông chảy từ Lục Giáp đến Thanh Quýt là sông
Thanh Quýt.
2

3

Sông La Thọ là một nhánh của sông Bình Phước chảy xuống Thanh Quýt.

11


thủy triều lên xuống 2 lần trong một ngày với biên độ triều 0,6m. Vào mùa khô nước
biển xâm nhập sâu vào đất liền, vào tháng 10, 11, 12 thường có sóng lớn ven bờ, biên
độ triều cường lên đến 1 - 2m, bờ biển thường bị xói lở do sóng biển gây nên.
1.2. Khái quát lịch sử vùng đất Điện Bàn trước thế kỉ XVII
Điện Bàn là thị xã đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Lịch sử

hình thành và phát triển của Điện Bàn gắn liền với quá trình mở đất của dân tộc Việt
về phương Nam.
Sách Đại Nam thống nhất chí, tỉnh Quảng Nam, trong mục “Dựng đặt và diên
cách” mở đầu như sau: “Xưa là đất Việt Thường thị; đời Tần thuộc Tượng Quận; đời
Hán là bờ cõi quận Nhật Nam; đời Tống thuộc Chiêm Thành, là đất châu Lý và Chiêm
Động (…) thời thuộc Minh thì đặt phủ Thăng Hoa lãnh 4 châu, 11 huyện, song sổ
sách chỉ chép tên không, thực ra thì đất vẫn bị người Chiêm Thành chiếm cứ. Đầu
triều Lê làm đất “ky my” gọi là Nam Giới”[27, tr.386-387].
Có thể thấy, vùng đất Điện Bàn xưa thuộc đất Việt Thường Thị. Nhưng kể từ
khi phong kiến Trung Hoa xâm lược và thống trị nước ta, vùng đất Điện Bàn cũng
chịu chung số phận bị phong kiến Trung Hoa đô hộ. Năm 111 trước Công Nguyên,
khi thay thế nhà Triệu để thống trị nước ta, ngoài hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân,
chính quyền nhà Hán còn lập thêm quận Nhật Nam (miền đất từ Hoành Sơn đến
Quảng Nam ngày nay). Quận Nhật Nam bao gồm 5 huyện: Tây Quyển, Chu Ngô, Tỳ
Cảnh, Lê Dung và Tượng Lâm. Vùng đất Điện Bàn nằm trên địa bàn của huyện Tượng
Lâm thời đó.
Vào thế kỉ thứ II, nhân dân Giao Châu nhà Hán tỏ ra bất lực nhất là đối với các
quận ở xa. Cho đến năm 192 (đời vua Hiếu Đế nhà Đông Hán) cùng với nhân dân
Nhật Nam, nhân dân Tượng Lâm do Khu Liên đứng đầu đã nổi dậy giết huyện lệnh,
giành quyền tự chủ. Một quốc gia mới được lập nên ở vùng đất hai bên đèo Hải Vân.
Sử Trung Hoa gọi nước mới lập nên này là Lâm Ấp. Huyện Tượng Lâm (bao gồm
phần đất Điện Bàn - Quảng Nam ngày nay) là bộ phận lãnh thổ thuộc quốc gia Lâm
Ấp. Sau nhiều thế kỷ tồn tại trong sự xung đột liên miên với lực lượng phong kiến ở
phía Bắc, cuối cùng nước Lâm Ấp đã hợp nhất với quốc gia người Chăm ở phía Nam,
hình thành nên một quốc gia thống nhất với tên nước là Chiêm Thành. Từ đó vùng
Điện Bàn - Quảng Nam trước kia trở thành bộ phận lãnh thổ của nước Chiêm Thành.
12


Người Chăm gọi vùng đất Điện Bàn - Quảng Nam ngày nay trong lãnh thổ quốc gia

Chiêm Thành trước kia là Amaravati.
Thời kỳ tự chủ từ năm 968, các vương triều Đinh - Lê - Lý - Trần - Hồ - Hậu
Lê trên bước đường Nam tiến với nhiều chính sách kiên quyết, mềm dẻo, đối thoại
với các quốc gia láng giềng để mở rộng lãnh thổ.
Năm 1069, vua Chiêm là Chế Củ thông đồng với nhà Tống đem quân đánh Đại
Việt nhưng bị vua Lý và Lý Thường Kiệt bắt giải về Thăng Long nên Chế Củ dâng
ba châu Đại Lý - Ma Linh - Bố Chính để được tha về.
Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), để thực hiện lời hứa của thượng hoàng Trần
Nhân Tông trong chuyến vân du sang Chiêm Thành trước đó, vua Trần Anh Tông gả
công chúa Huyền Trân cho Chế Mân vị vua thứ 34 của vương quốc Chiêm Thành vào
thế kỉ thứ XIV. Chế Mân đã dâng hai châu: châu Ô, châu Lí cho Đại Việt để làm sính
lễ. Đây là cuộc hôn nhân đắt giá trong lịch sử Chiêm quốc để đổi lấy một tấm nhan
sắc khuynh thành của Đại Việt. Chiêm Thành đã mất đi những gì quý báu mà thiên
nhiên giành cho, đó là cửa biển Tư Hiền và cửa Hàn hiểm yếu cùng những gì vàng
son mà tổ tiên Chăm đã dày công di lưu… đó là miền đất thiêng Amaravati cùng cựu
cố đô Indrapura.
Cho đến tháng Giêng năm Đinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tông đã sai đổi tên
châu Ô và châu Lí thành Thuận Châu (tức vùng thuộc phủ Triệu Phong, Hải Lăng,
Quảng Điền, Hương Trà của Bình, Trị, Thiên ngày nay) và Hoá Châu (tức vùng thuộc
các huyện Phú Vang, Phú Lộc của Bình, Trị, Thiên và Hòa Vang, Đại Lộc, Điện Bàn,
Duy Xuyên của Quảng Nam - Đà Nẵng).
Thời nhà Mạc, Địa dư chí của Nguyễn Trãi (1435) viết về phủ Triệu Phong của
xứ Thuận Hóa, sử tịch này đã chép: “Phủ Triệu Phong có 6 huyện, 2 châu, 444 xã:
huyện Hải Lăng có 54 xã, 8 thôn, 28 động, huyện Vũ Xương có 95 xã, 3 thôn, 5 sách;
huyện Đan Điền có 63 xã, 9 thôn, 6 sách; huyện Kim Trà có 73 xã, 2 thôn, 6 châu, 13
sách, 3 nguyên; huyện Tư Vinh có 44 xã, 18 thôn 11 trang; huyện Điện Bàn có 95 xã;
châu Thuận Bình có 8 động, 21 sách; châu Sa Bôi có 6 động, 15 trang, 68 sách” [21,
tr.44].
Có thể thấy, vào khoảng thế kỉ XV, Điện Bàn là vùng đất thuộc phủ Triệu Phong
- lộ Thuận Hóa (địa giới là phần đất từ bờ bắc sông Thu Bồn ra đến đèo Hải Vân).

13


Lúc bấy giờ, huyện Điện Bàn chỉ nêu có 12 tổng 95 xã, mà không nêu rõ tổng nào,
xã nào.
Đời Hồ, năm Thiệu Thành 2 (1402), Hồ Hán Thương đánh vào lấy đất Chiêm
Động và Cổ Lũy, đặt làm lộ Thăng Hoa gồm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Hồ Quý
Ly chia Chiêm Động làm 2 châu Thăng và Hoa, chia Cổ Lũy làm 2 châu Tư và Nghĩa
(Cổ Lũy là phần đất Quảng Ngãi ngày nay).
Thời Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Bính Tuất, tháng 2, đặt
ty Tuyên chính sứ các đạo, lấy Nguyễn Thời Đạt làm Tuyên chính sứ Thuận Hóa.
Tháng 6, đặt 12 đạo thừa tuyên là: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường,
Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, Yên Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên,
Lạng Sơn và Trung Đô phủ, đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu.
Năm Hồng Đức thứ hai (1471), vua Lê Thánh Tông thân hành soạn “Bình Chiêm
sách” cho quân sĩ học tập, rồi tự mình chỉ huy đại quân dẫn hơn 1.000 chiến thuyền
đi đánh Chiêm Thành. Tháng 2, năm Tân Mão (1471), quân Đại Việt vây thành Trà
Bàn, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn, rồi xuống chiếu đem quân về. Sau khi chinh
phục Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông lấy phần đất chiếm được đặt làm thừa tuyên
Quảng Nam, nâng số thừa tuyên của Đại Việt lên 13, bắt đầu cho sự hiện diện chính
thức của người Việt ở miền Trung. Vùng này trải dài từ bờ nam sông Thu Bồn đến
đèo Cù Mông. Nhưng lúc này vùng đất Điện Bàn vẫn chưa thuộc Quảng Nam thừa
tuyên đạo mà vẫn còn là bộ phận đất đai của phủ Triệu Phong trong đạo thừa tuyên
Thuận Hóa.
Tháng 6 âm lịch năm 1467, vua Lê Thánh Tông dụ các thừa tuyên xem xét, tìm
hiểu địa thế núi, sông và các sự tích trong địa phương mình, để vẽ địa đồ nơi đó, rồi
trình lên cho Bộ Hộ tổng hợp thành bản đồ hoàn chỉnh của Đại Việt. Ngày 4 tháng 4
âm lịch năm 1490, bộ bản đồ Đại Việt được hoàn tất, gọi là bản đồ Hồng Đức. Bản
đồ ghi nhận nước Việt có 13 thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36
phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguồn, 30 trường [13,

tr.309]. Theo sách Đại Việt sử ký tục biên thì thời Hồng Đức bản đồ “Xứ Thuận Hóa
trước kia gồm 2 phủ là Tiên Bình và Triệu Phong. Phủ Triệu Phong gồm 6 huyện Vũ
Xương, Đan Điền, Hải Lăng, Kim Trà, Tư Vinh, Điện Bàn và 2 châu Thuận Bình, Sa

14


Bôi. Cộng 2 phủ có 8 huyện 4 châu, 554 xã, 44 thôn, 3 trang, 12 nguồn, 10 động, 124
sách”[14, tr.388]. Trong đó viết huyện Điện Bàn có 47 xã.
Năm 1490, Thừa tuyên Quảng Nam được gọi là Xứ Quảng Nam, rồi đến 1509
đổi gọi là Trấn Quảng Nam. Lúc bấy giờ, các làng xã từ phía nam đèo Hải Vân vào
đến bờ bắc sông Thu Bồn trực thuộc huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong của trấn Thuận
Hóa.
Theo Ô châu Cận Lục, sách do Dương Văn An nhuận sắc vào năm 1553 thì
huyện Điện Bàn lúc đó ở phía nam Hóa châu có 66 xã là: Đức Ký, Nông Sơn, Bất
Nhị, Đông Ba, Hoa Thử, Đa Thử, Kỳ Ba, Giáng La, Cẩm Đăng, Điểu Kha, Lỗi Sơn,
Thạch Phố, Tử Sa, Giáo Ái, Bồn Khúc, Sơn, Gia Cốc, Bàng Trạch, Ái Đái, Phiếm Ái,
Kim Nê, Yến Nê, Thúy Loan, Kim Toại, Diễm Sơn, Quảng Hóa, Thị Phụ, Hoa Hồ,
Liên Trì, Mại Giảng, Lai Nghi, Phong Hồ, Giản Đông, Minh Châu, Kim Sa, Bình Sa,
Bích Trâm, Hà Khúc, Lôi Trạch, Mông Lĩnh, Mông Vân, Địch Khang, Thọ Khang,
Phú Khang, Quát Sơn, Trà Đình, Vân Quật, Thi Lại, Lang Châu, Mạc Xuyên, Hoài
Phô, Cẩm Phô, Bàn Cố, Kim Lũ, Nhân Triêm, Uất Lũy, Duyên Đồ, Cẩm Lệ, Cúc Lũy,
Lỗ Giản, Thạc Giản, Vân Dương, Kim Quất, Hóa Khuê, Kim Khuê, Đại Đái.
Xã hội Đại Việt thời Lê sơ sau một giai đoạn phát triển dưới thời Lê Thánh
Tông, đến thế kỷ XVI đã bắt đầu suy nhược và trượt dài trên đường khủng hoảng.
Lúc này các thế lực phong kiến đã nổi dậy tranh giành quyền lực, cát cứ. Trong bối
cảnh rối ren đó, Nguyễn Hoàng, con thứ hai của Nguyễn Kim được phong Đoan quận
công và được sự “định hướng” của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, năm 1558, được
ban “ấn tiết” cùng người thân và hàng nghìn đồng hương thân tín Thanh – Nghệ vào
Thuận Hóa và trấn thủ nơi này (Thừa Thiên Huế ngày nay). Khi đến nơi, đoàn thuyền

đã đi vào cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt), đóng trại tại Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện
Vũ Xương (nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) và đã chọn nơi này để lập Thủ
Phủ gọi là dinh Ái Tử.
Năm 1569, Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Quảng Nam, thay cho Quận Công
Nguyễn Bá Quýnh. Nguyễn Hoàng làm Tổng Trấn Tướng Quân kiêm quản cả Xứ
Quảng Nam và Xứ Thuận Hóa. Năm 1572 “bấy giờ chúa Nguyễn Hoàng ở trấn hơn
10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân yên cư lạc nghiệp, chợ
không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên
15


một nơi đô hội lớn”. Với ý định xây dựng riêng cho mình một cõi giang sơn tách biệt
và đối trọng với chính quyền Lê - Trịnh, các chúa Nguyễn đã tích cực thực hiện và
đẩy mạnh các biện pháp chiêu dụ nhân dân khai khẩn đất đai vùng Thuận Quảng,
đồng thời, không ngừng mở rộng cương thổ xuống phía Nam… Hệ quả tất yếu là lãnh
thổ xứ Đàng Trong được kéo dài đến tận Cà Mau, các vùng đất được xác lập quyền
sở hữu của Đại Việt từ trước không ngừng được mở rộng và thành lập mới. Đất Điện
Bàn cũng tiếp tục được mở rộng và phát triển các làng xã trong bối cảnh lịch sử, xã
hội chung ấy.
1.3. Đời sống kinh tế - xã hội
Điện Bàn khi còn là lãnh thổ của Amaravati (Champa) đã có sản xuất nông
nghiệp với nhiều ngành chăn nuôi, trồng trọt nhiều giống cây trồng khác nhau. Cư
dân ở đây biết trồng cây lúa nước, biết làm thủy lợi và làm nhiều nghề thủ công, xây
dựng nhiều công trình kiến trúc độc đáo. Nhưng phải từ khi trở thành bộ phận lãnh
thổ của Đại Việt, trải qua các thời Trần - Lê - Mạc đến thời các chúa Nguyễn, với
những luồng người di cư liên tục và đông đảo từ phía Bắc vào, vùng đất Điện Bàn
mới ngày càng trở nên sầm uất, trù mật.
Ngay từ thế kỉ XV - XVI (dưới thời Lê, Mạc), vùng đất huyện Điện Bàn (bao
gồm cả Điện Bàn, Hòa Vang, Đại Lộc ngày nay) còn thuộc phủ Triệu Phong (Thuận
Hóa) đã bắt đầu có dấu hiệu của sự trù phú.

Từ công cuộc khẩn hoang, Điện Bàn là một huyện thuần nông, người dân sinh
sống chủ yếu bằng nghề nông như gieo cấy lúa nước, trồng khoai, tỉa đậu, trồng dâu,
mía…
Để sớm ổn định đời sống, những người di dân đến đây đã đẩy mạnh việc xây
dựng phát triển kinh tế. Đời sống người dân còn quá khó khăn và lạc hậu do trình độ
sản xuất kém, chỉ biết “đốn cây, gieo lúa, đốt núi trồng ngô”. Nền nông nghiệp lúa
nước ở đây còn quá mới mẻ, chưa phát triển, cộng với sản xuất nông nghiệp hoàn
toàn lệ thuộc thời tiết, năng suất lao động thấp và bấp bênh,...
Vua Trần cho cấp trâu bò, dụng cụ làm nông, đồng thời cho một số dân Giao
Chỉ đã thuần thục nghề nông và biết một ít chữ nghĩa... thiết lập trang trại chia nhau
để ở, dạy cho thổ dân chúng ta học hành và cày cấy. Ngoài ra còn cấp thêm các giống
16


lúa với số lượng lớn để chia cho các “trại dựng kho để chứa lúa dùng vào việc chi
cấp cho quan và dân và chứa các thứ giống lúa và nông cụ” [Dẫn theo 38, tr.43]
Tất cả các chủ trương và biện pháp trên đã có tác dụng hiệu quả vô cùng lớn,
đã thúc đẩy sức sản xuất phát triển tạo sự ổn định, cải thiện và nâng cao nhanh chóng
đời sống nhân dân bản địa, xây dựng được nền móng cơ bản sự đoàn kết hòa hợp hai
dân tộc Chăm - Việt.
Nhận xét về đời sống nhân dân huyện Điện Bàn đến nửa đầu thế kỉ XVI được
Dương Văn An khái quát trong mấy dòng sau đây ở sách Ô châu cận lục (1553):
“Huyện Điện Bàn đất liền với phương nam, cương giới ở ngoài châu Ô. Nhiều thóc
giàu có, nhà nông đạp lúa bằng trâu. Đường bộ thì có xe, đường thủy thì sẵn thuyền.
Xã Mạc Châu trồng nhiều hoa hồng. Xã Lang Châu sản nhiều lụa trắng. Hai làng
Hóa Khuê cắm cọc để chống ngạc ngư (cá sấu); các xã Lỗi Sơn, Chiếm Sơn đóng
cửa gỗ để phòng mãnh thú. Đàn bà mặc áo Chiêm, con trai cầm quạt Tàu. Người
sang kẻ hàn bát đĩa đều vẽ rồng phượng; kẻ hơn người kém sống áo toàn màu đỏ,
màu hồng” [4, tr.49].
1.4. Đặc điểm dân cư, văn hóa

Tài nguyên phong phú, vị trí chiến lược quan trọng là hai yếu tố để vùng đất
Điện Bàn ngày xưa trở thành vùng đất bị tranh chấp và người dân nơi đây phải gánh
chịu nhiều hậu quả của những diễn biến lịch sử của đất nước để trưởng thành. Trước
khi người Việt di cư vào, Điện Bàn là vùng đất sinh sống của Chăm.
Đến thế kỉ XIV, người Việt mới hiện diện ngày càng đông trên mảnh đất này.
Phần lớn dân cư là người Việt có nguồn gốc từ miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Ðó là
những con người có ý chí và bản lãnh chấp nhận những khó khăn của cuộc sống phiêu
lưu và khai phá. Ðó là những con người có tinh thần phóng khoáng, không chịu những
áp bức bất công của thời kỳ vua Lê - chúa Trịnh suy vi, xã hội miềm Bắc hỗn loạn
nên tìm cách chống lại để bảo vệ tự do và phẩm giá nên bị ghép vào tội nghịch dân
và bị lưu đày. Ðó cũng là những con người nhận trách nhiệm lịch sử, đội quân tiên
phong của Chúa Nguyễn vào Nam trấn thủ và mở mang bờ cõi.
Từ công cuộc di dân khai khẩn vùng đất mới, những giá trị văn minh Đại Việt
cũng được mang đến và trung thành với nền văn hóa Đại Việt, người Điện Bàn ngày
nay vẫn còn những nét thời di dân, lập ấp truyền lại: Dũng cảm, vững vàng, cương
17


trực nhưng rất giản dị và chất phát. Bằng trí tuệ và sức lao động cần cù, bền bỉ, người
Điện Bàn đã khẩn hoang, lập ấp, phát triển kinh tế, xây dựng xóm làng đoàn kết, xã
hội có kỷ cương, giữ vững thuần phong mỹ tục, tất cả những điều đó biểu hiện cô
đọng của truyền thống yêu nước, yêu quê hương, tư tưởng nhân đạo, nhân văn sâu
sắc của người Điện Bàn.
Từ khi trở thành lãnh thổ Đại Việt, trải qua các thời kì lịch sử đều có chủ trương
di dân liên tục từ Bắc vào định cư lập làng, lập ấp.
Từ cuộc di dân thời nhà Hồ đầu thế kỷ XV (1402), rồi tiếp sau đó dưới thời nhà
Hậu Lê (sau năm 1471) và đặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn (năm 1558) với những
luồng người di cư liên tục và đông đảo từ phía Bắc vào, vùng đất Điện Bàn mới ngày
càng trở nên sầm uất, trù mật. Tham gia công cuộc khai khẩn vùng đất mới là những
người thuộc nhiều dòng họ. Họ đến từ nhiều vùng đất khác nhau, đông nhất là từ

Nghệ An, Thanh Hóa. Những người Việt chuyển cư từ phía Bắc vào Điện Bàn –
Quảng Nam, có nhiều nguồn gốc khác nhau: có những người không đạt đến sự thành
công trong ý đồ của mình ở các tỉnh quê hương phía Bắc, có cả những tội đồ, nghịch
dân... Nhưng tuyệt đại đa số vẫn là những người lao động lương thiện, những quan
lại, tướng lĩnh, những binh sĩ đã tham gia cuộc hành quân lớn do vua Lê Thánh Tông
tổ chức, tình nguyện ở lại vùng đất mới để xây dựng “quê hương mới”. Những người
dân Đại Việt xa rời lãnh thổ quê hương cũ, họ vẫn mang theo đến những vùng đất
mới những phong tục tập quán lưu truyền, những giá trị văn minh Đại Việt và vẫn
sâu sắc với gốc tích quê hương.
Tham gia công việc khai khẩn vùng đất mới là những người thuộc nhiều dòng
họ khác nhau từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Cao Bằng. Đông nhất là từ Nghệ
An, Thanh Hóa. Những người Việt chuyển cư từ phía Bắc vào Điện Bàn - Quảng
Nam, có nhiều nguồn gốc khác nhau: có những người không đạt đến sự thành công
trong ý đồ của mình ở các tỉnh quê hương phía Bắc, có cả những tội đồ, nghịch dân...
Nhưng tuyệt đại đa số vẫn là những người lao động lương thiện, những quan lại,
tướng lĩnh, những binh sĩ đã tham gia cuộc hành quân lớn do vua Lê Thánh Tông tổ
chức, tình nguyện ở lại vùng đất mới để xây dựng “quê hương mới”. Những người
dân Đại Việt khi chuyển vào nam đã từng gắn bó với giá trị văn minh Đại Việt, đã
từng biết đến vinh quang từ những thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và một
18


thời cực thịnh dưới triều Lê Sơ. Họ vượt qua đèo Hải Vân, đi lập nghiệp ở vùng đất
mới với một niềm tin và một mong ước về một cuộc sống và một tương lai tốt đẹp.
Xa rời lãnh thổ quê hương cũ, họ vẫn mang theo đến vùng đất mới những phong tục
tập quán lưu truyền, những giá trị văn minh Đại Việt và vẫn sâu sắc với gốc tích quê
hương.
Nhờ các gia phả và các văn bia còn giữ lại được, có thể biết rõ từ cuối thế kỷ
XV trở đi có khá nhiều tộc họ đến khai khẩn vùng đất của huyện Điện Bàn ngày nay.
Sau đại thắng quân Chiêm (1471), Triệu quận công Lê Văn Cảnh được sai phái ở lại

vùng đất Chiêm Động đã tổ chức khai khẩn đất hoang, qui dân lập ấp, lập nên làng
Mạc Xuyên sau đổi là Vân Xuyên rồi Vân Ly, nay thuộc xã Điện Quang. Lê Viết
Bang, theo phò vua vào Nam chinh chiến, sau 1471 được vua sai phái ở lại vùng đất
Chiêm Động, có công khai khẩn đất hoang, qui dân lập ấp, lập nên làng Bằng An,
nay thuộc xã Điện An. Đô trị bình Chiêm Lê Tự Cường sau thời gian phò vua Lê
Thánh Tông đi đánh Chiêm thắng lợi đã có công khai khẩn xứ Bàn Tràm, làng Thanh
Quýt thuộc xã Điện Thắng ngày nay.
Có rất nhiều dòng Lê tộc từ Thanh Hóa vào định cư tại đất Điện Bàn ngày nay
như Lê Tấn Viễn định cư tại Điện Dương, Lê Cao Xảo tại Điện Phước, Lê Viết Bảo
tại Điện Nam, Lê Cường, Lê Tấn tại Điện Hồng, Lê Văn Đạo tại Đông Bàn, Lê Đắc
Sùng tại Giáo Ái, Túy La (Điện Hồng), Lê Đắc Vinh tại Điện Hồng.
Không chỉ có người họ Lê mà còn có cả người thuộc các tộc khác hoặc theo
nhà vua đánh Chiêm rồi ở lại khai khẩn vùng đất mới, hoặc di cư vào từ sau khi đạo
Thừa tuyên được thành lập. Nhờ các gia phả và các bia đá còn giữ lại được, có thể
biết từ cuối thế kỷ XV có nhiều tộc đến khai khẩn vùng đất Điện Bàn ngày nay như
thủy tổ tộc Phạm ở Cẩm Sa, thủy tổ tộc Nguyễn Văn, tộc Đào, tộc Võ, tộc Mai, tộc
Lê, tộc Nguyễn, tộc Hồ ở làng Nông Sơn, tộc Phan, tộc Ngô, tộc Nguyễn ở làng Bảo
An.
Các nhà nghiên cứu cũng đọc được trên một tấm văn bia của dòng họ Phan,
xã Phong Thử (Điện Bàn) những dòng chữ sau: “Năm Đinh Mùi Quang Hòa 15
(1547), khi đó thủy tổ họ Phan đã 43 tuổi. Ông vâng mệnh Tiên Thánh Vương4 vào
4

Vua Lê Trang Tông thời đó

19


khai phá vùng đất phía na,, di dân cư trú, mở rộng nơi ở, mở mang đất đai. Thủy tổ
bèn đem theo vợ con còn ở bên sông Linh Giang5 tiến đến xứ Quảng để mở đất. Tại

nơi đó ông thấy rừng có thể trồng cây, suối có cá bơi lội, đất có thể thành ruộng tươi
tốt, cỏ có thể chăn nuôi. Vì thế ông rất vui vẻ có chí kiến lập làm chỗ an cư, bèn quay
về đón dân tới làm ruộng cày bừa, yên tâm sinh sống lập nghiệp” [Dẫn theo 38, tr.
54].
Làng Hà Thanh (thuộc xã Điện Hòa) ngày nay, trước gọi là làng Hà Khúc,
tương truyền trước đời Gia Dụ Nguyễn Hoàng (1558 - 1612) có người họ Đặng, họ
Nguyễn, họ Phạm từ Thanh Hóa vào khai khẩn, lập nên làng Hà Khúc (Hà Thanh Điện Hòa ngày nay). Ông tổ họ Nguyễn ở Hà Thanh là Nguyễn Thanh Chiêm. Ông
tổ họ Phạm là Phạm Công Bài cùng đến. Người tộc Nguyễn khai khẩn lập nên Hà
Thanh Đông, người họ Phạm khai khẩn lập nên Hà Thanh Tây. Ông tổ họ Đặng là
Đặng Bá Chiến tuy đến Hà Khúc từ trước nhưng do ít dân, không lập được ấp, nên
cùng sống, cùng làm với dân họ Nguyễn, họ Phạm6. Về sau có thêm người của các
tộc họ khác đến là họ Lê, họ Ngô, họ Tăng, họ Từ, họ Châu, họ Nguyễn Viết, Nguyễn
Phi, họ Phan, họ Trần, họ Diêu.
Trên mảnh đất vốn là lãnh thổ thuộc Amaravati của vùng đất Chiêm Thành xa
xưa, cư dân Đại Việt từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hải Dương, Cao Bằng,... vào khai
khẩn đã tiếp cận với một thiên nhiên phong phú nhưng đầy trở lực. Rừng rậm nhiều,
thú dữ còn vây kín cả con người. Rừng sâu, sông gấp, biển đầy bão tố, nắng lửa, mưa
dầm là những thách thức thường xuyên. Một thước đất được khai phá trên mảnh đất
này thật là một kết quả đẫm mồ hôi của sự lao động gian nan. Quá trình lao động khai
phá đó đã góp phần rèn luyện cho người Quảng nói chung và người Điện Bàn nói
riêng có được độ bền bỉ và gian truân trên đất Điện Bàn ngày xưa trong suốt thế kỉ
XV - XVI đã đưa lại hai kết quả rõ rệt: có nơi thì mở rộng thêm những làng xã mới
trên các vùng đất mới được khai khẩn. Nhiều làng xã mới ra đời cùng với hệ thống
làng xã cũ đã có sẵn đã làm cho thôn ấp nối liền thôn ấp, làng xã nối tiếp nhau trên
một miền đất mà mấy thế kỉ trước còn hoang sơ và dân cư còn thưa thớt.

5

Linh Giang - sông Gianh ở Quảng Bình


6

Theo quy định thời đó, mỗi tộc họ phải có từ 50 dân trở lên mối được thành lập 1 ấp

20


CHƯƠNG 2: DIỆN MẠO VÙNG ĐẤT ĐIỆN BÀN
TỪ THẾ KỈ XVII ĐẾN CUỐI THẾ KỈ XIX
2.1. Vị trí địa lý và địa giới hành chính
2.1.1. Vị trí địa lý
Thế kỉ XVII, XVIII hầu như không thấy nguồn sử tịch nào nhắc đến về vị trí
địa lý của vùng đất Điện Bàn.
Đến đầu thế kỉ XIX, theo Đại Nam nhất thống chí thì dựng đặt và diên cách của
phủ Điện Bàn như sau:
“Phủ Điện Bàn: cách tỉnh thành 3 dặm về phía nam, đông tây cách nhau 99
dặm, nam bắc cách nhau 78 dặm, phía đông đến biển 25 dặm, phía tây đến bảo Yên
Sơn giáp động Man 74 dặm, phía nam đến địa giới huyện Quế Sơn phủ Thăng Bình
13 dặm, phía bắc đến cửa Hải Vân giáp địa giới huyện Phú Lộc phủ Thừa Thiên 65
dặm. Cụ thể:
Huyện Diên Phước: đông tây cách nhau 99 dặm, nam bắc cách nhau 28 dặm,
phía nam đến biển 25 dặm, phía tây đến bảo Yên Sơn giáp động Man 74 dặm, phía
nam đến địa giới huyện Duy Xuyên 5 dặm linh, phía bắc địa giới huyện Hòa Vang 23
dặm.
Huyện Hòa Vang: ở cách phủ Điện bàn 29 dặm lệch về phía đông bắc, đông tây
cách nhau 76 dặm, nam bắc cách nhau 39 dặm, phía đông đến biển 10 dặm, phía tây
đến sông Hoàng Giang giáp động Man 66 dặm, phía nam đến địa giới huyện Diên
Phước chừng 1 dặm, phía bắc đến cửa Hải Vân giáp địa giới huyện Phú Lộc tỉnh
Thừa Thiên 38 dặm.
Huyện Duy Xuyên: ở cách phủ Điện Bàn 12 dặm lệch về phía nam, đông tây

cách nhau 77 dặm, nam bắc cách nhau 22 dặm, phía đông đến địa giới huyện Lễ
Dương phủ Thăng Bình 15 dặm, phía tây đến đạo Trà Tế giáp động Man 62 dặm,
phía nam đến địa giới huyện Quế Sơn phủ Thăng Bình chừng 6 dặm, phía bắc đến
địa giới huyện Diên Phước 16 dặm” [27, tr.389-391].
2.1.2. Địa giới hành chính

21


Năm 1602, Nguyễn Hoàng đổi trấn Quảng Nam thành dinh Quảng Nam và năm
1604 tách huyện Điện Bàn (trước thuộc huyện Triệu Phong, Thuận Hóa) nâng lên cấp
phủ, đặt thêm hai huyện Hòa Vang (Vinh) và Diên Phúc lệ vào phủ Điện Bàn. Lúc
này, phủ Điện Bàn quản lĩnh 5 huyện là Tân Phúc, An Nông, Hòa Vinh, Diên Khánh
và Phú Châu, cho thuộc vào dinh Quảng Nam, không rõ bấy giờ các huyện nầy quán
lĩnh các làng xã nào. Như vậy, dinh Quảng Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh có 4
phủ 14 huyện, địa giới trải từ nam Hải Vân cho đến Cù Mông. Còn phía nam Cù
Mông là phủ Phú Yên của dinh Trấn Biên. Sự việc chúa Nguyễn Hoàng đem quân đi
đánh Chiêm Thành và mở rộng bờ cõi ra phía nam được coi là bước Nam tiến đầu
tiên của họ Nguyễn, sau 130 năm dừng lại ở đèo Cù Mông, từ sau chiến thắng năm
1471 của Lê Thánh Tông.
Khi Lê Quý Đôn vào Thuận Hóa, năm 1776, ông viết tập Phủ biên tạp lục cho
thấy các huyện của phủ Điện Bàn lúc này bao gồm 5 huyện, 197 trang 19 thôn 7 giáp,
205 phường 86 châu. Cụ thể là:
+ Huyện Hòa Vinh (Vang) có 3 Tổng là Lệ Sơn (có 21 xã), Hà Khúc (có 20 xã
4 giáp), Lỗ Giáng (có 10 xã 1 ty).
+ Huyện An Nông có 2 Tổng là tổng An Sơn (20 xã 1 thôn 3 phường) và tổng
Phiếm Ái (14 xã 5 thôn 1 ty 4 phường 1 man).
+ Huyện Diên Khánh có 2 Tổng là tổng Ất Lũy (14 xã 5 giáp 5 phường) và tổng
Mông Lĩnh (27 xã 5 thôn 1 ty 5 phường 3 man).
+ Huyện Tân Phúc có 3 Tổng là tổng Phúc Sơn (18 xã 2 phường), tổng Hòa Mỹ

(18 xã 1 ty 1 tộc) và tổng Phúc Long (35 xã).
+ Huyện Phú Châu có 2 Tổng là tổng Thượng (46 châu 12 phường) và tổng Đại
(38 châu 3 phường) [7, tr.105-111].
Từ năm 1774 đến năm 1801, nhà Tây Sơn cai trị đất này. Địa danh hành chính
hầu như không có gì thay đổi.
Năm 1801, Nguyễn Ánh tái chiếm và lấy 2 phủ Thăng Hoa, Điện Bàn đặt làm
dinh Quảng Nam. Khi đã đánh bại nhà Tây Sơn, năm 1803 vua Gia Long thu hẹp
Dinh Quảng Nam chỉ còn 2 phủ là Điện Bàn và Thăng Hoa. Năm 1806, đổi làm dinh

22


trực lệ Quảng Nam, lệ thuộc vào Kinh Sư (Huế), gồm 5 huyện Tân Phước, An Nông,
Hòa Vang, Diên Khánh, Phú Châu.
Năm 1812, lập Địa bạ cho dinh Quảng Nam. Theo Địa bạ Gia Long, lập trong
hai năm 1814 - 1815, thì dinh Quảng Nam gồm 2 phủ, 5 huyện, 29 tổng, 973 làng xã
[16, tr.60].
Dưới triều Nguyễn, căn cứ vào Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn thì dưới thời
vua Gia Long (1802 - 1820) thì vào thời kì này, phủ Điện Bàn chỉ gồm có hai huyện:
Huyện Diên Khánh và huyện Hòa Vang với 12 tổng, 2 thuộc và 365 làng. Cụ thể như
sau:
Huyện Diên Khánh có 7 tổng và 1 thuộc: tổng An Lưu Hạ, tổng An Nhơn
Trung, tổng An Thái Thượng, tổng Đa Hòa Trung, tổng Hạ Trung Nông, tổng Phú
Chiêm Hạ, tổng Thanh Quất Trung, thuộc Phú Châu.
Huyện Hòa Vang có 5 tổng và 1 thuộc: tổng An Châu Thượng, tổng Bình Thái
Hạ, tổng Đức Hòa Thượng, tổng Hòa An Thượng, tổng Phước Tường Thượng, thuộc
Võng Nhi [16, tr.60-61].
Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ dưới thời vua Minh Mạng (1820
- 1841), năm 1822, trong phủ Điện Bàn, vua Minh Mệnh cho sáp nhập Huyện Phú
Châu vào Huyện Diên Khánh, đổi tên Diên Khánh thành Huyện Diên Phúc, gồm 7

tổng là An Lưu Hạ, An Nhơn Trung, An Thái Thượng, Đa Hoà Trung, Hạ Nông
Trung, Phú Chiêm (Triêm) Hạ, Thanh Quýt Trung và 1 thuộc là Phú Châu, tất cả 222
xã.
Năm 1832, vua Minh Mạng đổi trấn Quảng Nam thành tỉnh Quảng Nam. Phủ
Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam.
Theo Quốc triều chính biên toát yếu vào năm 1835, trích lấy một phần huyện
Duy Xuyên của phủ Thăng Hoa cho thuộc vào phủ Điện Bàn [29, tr.273].
Đến thời Tự Đức, tỉnh Quảng Nam có 2 phủ là Điện Bàn và Thăng Bình. Phủ
Điện Bàn lĩnh 3 huyện :
- Diên Phúc (có 10 tổng, 256 xã, thôn)
- Duy Xuyên (có 9 tổng, 189 xã, thôn, phường, châu, ấp)
- Hòa Vinh (có 7 tổng, 158 xã, thôn, phường, ấp, giáp)
23


Như vậy, từ năm 1602 cho đến năm 1884, địa giới vùng đất Điện Bàn đã có
nhiều thay đổi. Để dễ dàng nhận biết sự thay đổi địa giới hành chính Điện Bàn tôi
tổng hợp và lập ra bảng sau:
Bảng 2.1: Sự thay đổi địa giới của Điện Bàn từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX
STT

Năm

1

1602

Địa giới
Gồm 5 huyện là Tân Phúc, An Nông, Hòa Vinh, Diên Khánh và
Phú Châu

Gồm 5 huyện, 197 trang 19 thôn 7 giáp, 205 phường 86 châu. Cụ
thể là:
- Huyện Hòa Vinh (Vang) có 3 Tổng là Lệ Sơn (có 21 xã), Hà
Khúc (có 20 xã 4 giáp), Lỗ Giáng (có 10 xã 1 ty).
- Huyện An Nông có 2 Tổng là tổng An Sơn (20 xã 1 thôn 3
phường) và tổng Phiếm Ái (14 xã 5 thôn 1 ty 4 phường 1 man).

2

1776

- Huyện Diên Khánh có 2 Tổng là tổng Ất Lũy (14 xã 5 giáp 5
phường) và tổng Mông Lĩnh (27 xã 5 thôn 1 ty 5 phường 3 man).
- Huyện Tân Phúc có 3 Tổng là tổng Phúc Sơn (18 xã 2 phường),
tổng Hòa Mỹ (18 xã 1 ty 1 tộc) và tổng Phúc Long (35 xã).
- Huyện Phú Châu có 2 Tổng là tổng Thượng (46 châu 12
phường) và tổng Đại (38 châu 3 phường)
Gồm 2 huyện Diên Khánh và Hòa Vang với 12 tổng, 2 thuộc và
365 làng. Cụ thể như sau:
- Huyện Diên Khánh có 7 tổng và 1 thuộc: tổng An Lưu Hạ, tổng
An Nhơn Trung, tổng An Thái Thượng, tổng Đa Hòa Trung, tổng

3

1803

Hạ Trung Nông, tổng Phú Chiêm Hạ, tổng Thanh Quất Trung,
thuộc Phú Châu.
- Huyện Hòa Vang có 5 tổng và 1 thuộc: tổng An Châu Thượng,
tổng Bình Thái Hạ, tổng Đức Hòa Thượng, tổng Hòa An Thượng,

tổng Phước Tường Thượng, thuộc Võng Nhi

24


×